Cầu cổ Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa

VIETNAM ANCIENT BRIDGE IN CULTURAL PERSPECTIVE

Tác giả bài viết: BÙI VĂN LONG
(Trường Đại học Mở Hà Nội)

TÓM TẮT

     Trong đời sống của các cộng đồng dân tộc Việt Nam, dường như, ở hầu khắp mọi miền, mọi vùng của đất nước, sự hiện diện của các nhịp cầu, cây cầu được coi như những sự hiện diện tất yếu, đảm nhiệm các chức năng đời thường, giúp con người đi lại, nối kết về không gian và thời gian, phục vụ nhu cầu sinh kế, sinh hoạt thường ngày, tùy theo địa hình mỗi làng quê cư trú khác nhau. Những nhịp cầu, cây cầu đó còn luôn gắn liền với đời sống tinh thần, với môi trường sinh hoạt văn hóa của một cộng đồng cư dân nhất định, nhiều khi lại trở thành biểu tượng văn hóa cho dấu ấn một làng quê, bên cạnh những “cây đa, bến nước, sân đình”, và cũng nhiều khi, hiện hữu trên mỗi thân cầu còn là những dấu ấn/dấu tích lịch sử – văn hóa, mang đặc trưng văn hóa, thẩm mỹ – nghệ thuật, giá trị về tín ngưỡng tôn giáo của từng vùng miền. Cần đặt vấn đề xây dựng chính sách về môi trường như thế nào để ứng xử với các giá trị văn hóa của nghệ thuật cẫu cổ, đảm bảo sự phù hợp giữa việc bảo vệ giá trị di sản với nhu cầu quản lý môi trường sinh thái với môi trường nhân văn trong điều kiện phát triển xã hội đương đại?

Từ khóa: giá trị văn hóa, Cầu cổ.

ABSTRACT

     It seems that in the life of the Vietnamese ethnic community, in almost every region and every part of the country, the presence of bridges is indispensable, taking care of functions of daily life, for traveling, connecting space and time, serving the needs of livelihoods and daily activities, depending on the terrain of each place. Those bridges are always associated with the spiritual life, the cultural living environment of a certain community of residents, sometimes they are cultural symbol for the imprint of a village. In addition to the “banyan trees, water wharves, communal yards”. Moreover, each bridge is also the historical / cultural imprints, characterized by culture, aesthetics – art, values of religious beliefs of each region. It is necessary to raise the issue of how to formulate environmental policies to deal with the cultural values of ancient art, ensuring the compatibility between the protection of heritage values and the need to manage the ecological environment and the human environment in the context of contemporary social development?

Keywords: Cultural, Viet Nam ancient bridge.

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Trên hành trình của đời người, trong mỗi chúng ta, chắc hẳn với trải nghiệm của mình, bước chân đã từng vượt qua hàng trăm ngàn cây cầu, từ cầu tre, cầu gỗ đến cầu đá, cầu gạch, cầu ximang; từ chiếc cầu vượt qua con suối, dòng sông đến những nhịp cầu bắc qua ao hồ, và những địa hình vốn bị chia cắt,… ở hầu khắp các làng quê.Trong số hàng trăm ngàn những nhịp cầu, cây cầu đã và đang hiện diện đó, đa phần thường chỉ là những phương tiện được người dân làm ra để đáp ứng nhu cầu đi lại, phục vụ sinh kế và giao lưu văn hóa xã hội, ứng xử với những điều kiện địa hình, sinh thái nhất định. Nhưng cũng có những nhịp cầu, cây cầu được sáng tạo ra ở những vùng quê nào đó, lại xuất phát từ những lý do/nguyên nhân lịch sử – văn hóa, không ít trường hợp lại nảy sinh từ những điều huyền bí, linh thiêng, mang dấu ấn đặc biệt, trở thành nơi ký thác tâm tư, nỗi niềm, nơi đọng lại những quan niệm về cái hay, cái đẹp cùng lòng tự hào của người dân, dần dần hình thành nên những biểu tượng văn hóa độc đáo, được người dân coi như di sản văn hóa chung “bất khả xâm phạm” của quê hương mình. Và cũng từ hàng trăm ngàn cây cầu, nhịp cầu đó trên mọi miền đất nước, không ít cây cầu đã bị mất đi do biến đổi của môi trường sinh thái, hoặc do vật liệu cấu thành không còn phù hợp trong điều kiện phát triển kinh tế xã hội những chục năm gần đây. Nhưng, hiện hữu trong số đó, vẫn còn những hệ thống cầu có tuổi thọ hàng trăm năm, ẩn chứa trong nó ngoài chức năng nối kết không gian địa lý – địa hình phục vụ nhu cầu dân sinh với giá trị thực dụng giúp cho người, vật và các phương tiện qua lại, còn là hàng loạt những giá trị về văn hóa, thẩm mỹ – nghệ thuật, giá trị về tín ngưỡng tôn giáo, góp phần bảo tồn cho hệ thống di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở không ít làng quê. Chính vì thế mà hình ảnh những cây cầu nối liền đôi bờ đã trở thành một biểu tượng đi sâu vào tiềm thức của mỗi con người, nó không chỉ là phương tiện đi lại không thể thiếu trong đời sống sinh hoạt mà nó còn có mặt trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt, góp phần làm tăng thêm nét đẹp hài hòa, nên thơ trữ tình cho những không gian cảnh quan và giữ cho tự nhiên vận hành đảm bảo cho việc lưu thông những dòng chảy cho những con sông con suối do vậy cần nhìn cầu cổ Việt Nam từ giác độ văn hóa để thấy giá trị nhân sinh và nhân văn cùng mỹ thuật và giá trị của cầu trong việc bảo vệ môi trường sinh thái.

     Những năm gần đây, do nhu cầu thực hiện các chuyến điền dã phục vụ nhiệm vụ chuyên môn, tại một số làng quê thuộc địa bàn các tỉnh miền Bắc, Trung, Nam, chúng tôi đã nhận thấy và tự so sánh để quan chiêm hệ thống không nhiều những chiếc cầu ngói, cầu đá, cầu gạch đã và đang hiện hữu ở một số làng quê, phần lớn có tuổi đời hàng trăm năm, mang những dáng vẻ nghệ thuật và liên quan trong nó những hàm lượng văn hóa độc đáo, cần được quan tâm, tìm hiểu, nghiên cứu. Xét ở góc độ nghiên cứu phân loại, bài viết Cây cầu trong văn hóa Việt cổ đã chia các cầu được dựng (một cách bền vững) ở nước ta thành 2 loại: Cầu đá lộ thiên và cầu gỗ “thượng gia, hạ kiều/trì”. Công trình đề cập tới cầu đá Giang Xá (Hoài Đức, Hà Nội), cầu đá đền Lũng Khê (Thuận Thành, Bắc Ninh), cầu đá ở sân bảo tàng tỉnh Nam Định, cầu Nôm (Văn Lâm, Hưng Yên). Cầu thượng gia hạ kiều hoặc thượng gia hạ trì đề cập tới cầu ngói Thanh Toàn (Hương Thủy, Thừa Thiên – Huế), cầu Phú Khê và cầu Phạm Lâm (Hải Dương), cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên (Quốc Oai, Hà Nội), cầu Lai Viễn (Hội An, Quảng Nam) cầu ngói Phát Diệm (Kim Sơn, Ninh Bình) và cầu ngói Chợ Lương [3]. Trên các cây cầu đã dựng, bên cạnh các cây cầu thông thường phục vụ nhu cầu đi lại thuận tiện của người dân, còn xuất hiện những cây cầu kiêm thêm chức năng thờ cúng tâm linh và các chức năng khác như giải trí, là công trình văn hóa tiêu biểu của vùng đất. Trên địa bàn các tỉnh nơi những cây cầu cổ án ngữ, hiện đã và đang còn những cây cầu ngói và cầu đá nổi tiếng, được cộng đồng sở tại cũng như người dân quanh vùng ngợi ca và trở thành niềm tự hào, biểu tượng của vùng đất quê hương.

     Nhận diện một cách tổng quan, mặc dù chỉ còn hiện hữu số lượng cây cầu ngói, cầu đá cổ hữu hạn đó, nhưng khả dĩ vẫn đủ trữ lượng để có thể tiếp cận bước đầu những cảm nhận của cộng đồng sở tại về các giá trị di sản văn hóa nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của hệ thống cầu cổ Việt Nam đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống văn hóa đương đại, trong đó nghệ thuật kiến trúc độc đáo, điêu khắc mộc mạc đậm chất văn hóa dân gian (một trong những thành tựu nổi bật của nghệ thuật tạo hình thế kỷ XVI – XVIII) vẫn còn nguyên giá trị về văn hóa nghệ thuật và được bảo tồn đến ngày nay. Những nhịp cầu, cây cầu đó còn luôn gắn liền với đời sống tinh thần, tâm linh và môi trường sinh hoạt văn hóa của một cộng đồng cư dân nhất định, nhiều khi lại trở thành biểu tượng văn hóa cho dấu ấn một làng quê, bên cạnh những “cây đa, bến nước, sân đình”, và cũng nhiều khi, hiện hữu trên mỗi thân cầu còn là những dấu ấn/dấu tích lịch sử – văn hóa, mang đặc trưng văn hóa của từng vùng miền – làng quê, trở thành những di sản văn hóa vật thể đầy tự hào của người dân. Mỗi cây cầu dù ít hay nhiều đều liên quan đến đời người bởi cây cầu, trước hết, là không gian quê hương, đất nước, là cảnh vật quen thuộc nơi làng xã, thôn xóm. Không gian này đã tác động trực tiếp đến con người, được con người phản ánh vào trong đời sống của mình thông qua nhiều phương diện sinh hoạt tinh thần như thần thoại, truyền thuyết, ca dao – dân ca, tục ngữ, câu đố, lễ hội, trò chơi…v.v. Như vậy, từ đó cũng có thể nhận thấy rằng, hệ thống các giá trị văn hóa – nghệ thuật gắn với từng cây cầu cổ vốn có tuổi đời hàng trăm năm trên đây vẫn còn những khoảng trống chưa được quan tâm nghiên cứu, giới thiệu giá trị văn hóa và sáng tạo của các nghệ nhân dân gian trên chặng đường lịch sử liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến “số phận” của mỗi cây cầu độc đáo này để bảo tồn các giá trị văn hóa nghệ thuật riêng của những cây cầu cổ trong thế tương quan với việc xây dựng chính sách đảm bảo các tiêu chí xây dựng đồng bộ môi trường văn hoá, gắn với hệ giá trị, đời sống văn hoá, hệ thống thiết chế văn hoá, cảnh quan văn hoá gắn với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các thiết chế văn hoá ở nước ta trong hiện tại và lâu dài. Sau đây xin giới thiệu nét đặc sắc của một số cây cầu cổ trong đời sống văn hóa tâm linh và bản sắc vùng miền còn được bảo tồn cho đến ngày nay.

2. Nội dung

     2.1. Chùa Cầu

     Hội An (Quảng Nam) từ lâu đã được nhiều người trong nước và thế giới biết đến như biểu tượng của người dân phố cổ. Ở đây đây còn là địa chỉ tâm linh của người dân với những câu chuyện kỳ bí về những bức tượng “Thần Hầu” và “Linh Cẩu” canh 2 bên cầu còn để bảo hộ dân làng, trấn yếm thiên tai… Điểm nhấn của Chùa Cầu dễ thấy, phía Tây cầu đặt 2 tượng khỉ đá, một đực 1 cái trên bệ thờ quay mặt vào nhau; phía đông đặt 2 tượng chó đá, cũng là cặp “thanh mai trúc mã”. Hình dáng các con vật đều cao to giống thật, ngồi canh gác theo tư thế nhổm lên, sẵn sàng bảo vệ sự an lành của người dân phố Hội. Cạnh tượng, có những câu đối bằng chữ Hán, dịch nghĩa đều nói về hai con linh vật được cho là đang “trấn yểm” hai đầu Chùa Cầu.

     Lý giải về tượng thờ chó và khỉ tại Chùa Cầu, một số bô lão ở Hội An cho rằng, việc cân xứng 2 bên đầu cầu hai con linh vật trên, ngụ ý nói về thời gian xây dựng công trình. Cụ thể, Chùa Cầu được xây kéo dài 3 năm, bắt đầu động thổ từ năm Thân (con khỉ) và hoàn thành năm Tuất (con chó). Ngoài ra, việc xây dựng hai bên đầu cầu những con chó và khỉ được hiểu như một cách chỉ phương hướng trên địa bàn: Thân chỉ hướng “tây nam”; còn Tuất chỉ hướng “tây bắc”.

     Tuy nhiên, theo ông Phùng, đa phần vẫn thuận theo nghĩa tâm linh. Hai linh vật “độc tôn” này chỉ ở phố cổ Hội An và được thờ theo tín ngưỡng vật tổ của người Nhật. Các tài liệu ghi chép lại đều có ý, vì muốn khống chế con Cù hay Mamazu lúc đó, người Nhật thờ Thần Khỉ và Thần Chó trên hai đầu cầu. Cây cầu bắc qua với các con vật bên trên, coi như thanh kiếm cắm xuống huyệt lưng, sẽ “yểm” con thuỷ quái, làm nó không cựa quậy, vùng vẫy, quẫy đuôi khi nước lớn, mong trừ tai họa.

     Trong khi đó, tục thờ chó, khỉ của cư dân Việt cũng đã tồn tại từ lâu đời và được thể hiện dưới hai dạng thức. Một số chôn tượng chó đá trước cổng nhà như một linh vật hay để canh cổng với ý nghĩ như vị thần bảo hộ trừ tà ma, cầu phúc, thường gọi là “Linh Cẩu”. Cũng có khi, “Linh Cẩu” được đặt trên những bệ thờ để thờ phụng như con Kỳ lân. Riêng trong những chùa chiền vẫn thường thấy con khỉ được chưng tụng. Người dân gọi tôn nghiêm bằng cái tên “Thần Hầu”. Con vật này nhằm trấn giữ xứ đất chống lại những điều xấu xâm hại. Từ đó suy ra, “Linh Cẩu” và con “Thần Hầu” được lập miếu thờ “có đôi có cặp” tại Chùa Cầu với ý niệm, cầu mọi điều trong cuộc sống sẽ suôn sẻ, may mắn. Đặc biệt, chất liệu tạc nên những bức tượng này được làm bằng gỗ thay vì bằng đá, rồi mạ màu cho giống tượng chó đá, khỉ đá. Điều kỳ lạ, trải qua 500 năm với sự khắc nghiệt của thời tiết, mưa gió, nhưng những tượng gỗ này vẫn trường tồn. Vì vậy, về mặt tâm linh, không riêng gì người dân phố cổ mà khách thập phương đều tin “Linh Cẩu” và “Thần Hậu” có hồn nên rất tôn thờ. Mỗi khi hành hương về Chùa Cầu, nhiều người đến trước mặt hai linh vật này thành tâm cúng vái, cầu bình an cho gia đình. Vào những ngày rằm, mùng một, có người còn sắp mâm lễ vật, hoa quả, hương đèn dâng lên hai ngài “Linh Cẩu” và “Thần Hầu”. Riêng về những linh nghiệm trong “trấn yểm” của tượng “Thần Hầu” còn thể hiện qua nhiều lời đồn thổi đang lưu truyền dân gian cho đến tận hôm nay. Giai thoại kể, có thời gian bức tượng gỗ Huyền Thiên đại đế thờ ở chùa và một tượng khỉ bằng đá trên cầu bị mất. Vì thế, thời gian này, Chùa Cầu và cả Hội An liên tiếp bị “thủy quái” nhấn chìm trong những trận lũ lịch sử.[2]

     2.2. Cầu ngói Thanh Toàn

     Tại Thừa Thiên Huế suốt 245 năm tồn tại đến nay vẫn bền bỉ các công dụng đó, đồng thời, trở thành di tích cổ tạo nên môi trường du lịch phong phú, đa dạng. Không chỉ là một kiến trúc cổ độc đáo, cây cầu còn là nhân chứng lịch sử. Chính vua Khải Định đã hạ lệnh cho người dân lập bàn thờ bà Trần Thị Đạo ngay trên gian chính của cầu. Bên cạnh đó là các chỗ ngồi hóng mát, nghỉ chân. Các bộ phận của cầu đều bằng gỗ tròn và vuông, không chạm khắc, giản dị như nguyên bản là cây cầu công dụng giao thông. Trước đây, các nghệ nhân chạm khắc tứ linh ở bộ mái cây cầu long lân quy phụng và giao long trên mái cầu. Sau này, hình rồng chầu mặt nguyệt được thay thế chứng tỏ có vai trò sắc lệnh của các vua triều Nguyễn. Vậy nên lịch sử của cây cầu cũng không nằm ngoài ý nghĩa đó. Sử sách ghi lại, các vị tộc trưởng khai canh từ thế kỷ XVI đã lập ra làng Thanh Thủy Chánh và Thanh Thủy Thượng tách ra từ một làng rất đông dân là làng Thủy Thanh (nay thuộc xã Thủy Thanh). Cái tên làng đã nói lên cảnh đẹp trong xanh của làng quê có con sông chảy qua ghi dấu cuộc khai canh lập nghiệp, công sức của người dân tạo nên cánh đồng lớn và hệ thống thủy lợi nội đồng phục vụ đời sống con người.

     Bà Trần Thị Đạo, người ở xã Thủy Thanh, cháu 6 đời của một trong 12 vị khai canh này, vợ của Tổng đốc 3 huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền xưa kia thấy người dân qua lại hai bên kênh ngoài đồng vất vả nắng nóng quá, đã cho xây dựng cây cầu có mái che để người dân qua cầu có chỗ nghỉ chân. Điều kỳ diệu là trải qua hơn 200 năm, cây cầu này hiện nay vẫn thực hiện công dụng là cầu giao thông và là chỗ nghỉ chân cho những người qua cầu. Chính công dụng đặc biệt của cây cầu đã làm cho công trình gần gũi với đời sống, không phải là một mẫu vật trưng bày, sống mãi với thời gian và có khả năng tạo ra xung quanh nó một môi trường đời sống phong phú đa dạng. Cây cầu hứng gió hè và che gió đông, là nơi hẹn hò của biết bao thế hệ người làng, chứng kiến nhiều cuộc đổi dời nơi thôn dã mà vẫn trơ gan với thời gian. Ngày nay, dân làng vẫn tổ chức ngày hội gắn với ngày giỗ của bà Trần Thị Đạo.

     2.3. Cầu Nhật Tiên và Nguyệt Tiên

     Nằm trong Di tích Chùa Thầy tại Quốc Oai Hà Nội. Hai cầu có kết cấu kiến trúc giống nhau kiểu “Thượng gia hạ kiều”. Người đầu tiên tạo nên kiến trúc này là Trạng nguyên Phùng Khắc Khoan. Theo sách Sơn Tây chí, Trạng Bùng đã làm cầu ở hai bên Chùa Cả trong hệ thống di tích Sài Sơn. Cầu có 5 gian, thân cong vành lược, dưới mái cầu là 3 vòm cuốn xây gạch để dòng nước chảy qua. Cho đến nay, hai cây cầu này vẫn cùng nhà thủy đình tạo nên cảnh đẹp ở Sài Sơn. Móng cầu theo lời kể lại trước đây được xây bằng đá ong, một thứ nguyên liệu sẵn có ở địa phương và các vùng lân cận, có ba vòm cuốn. Sàn cầu được lát bằng gạch Bát Tràng màu đỏ. Chiều cao được tính từ bờ nóc xuống đến mặt cầu là 2,5 m, chiều cao từ bụng thượng lương xuống đến mặt cầu là 2,32 m. Cầu hơi vòng cong làm tăng khả năng chịu lực. Nhìn từ xa ta có cảm giác chiếc cầu như hình cong của hai mi mắt rồng. Vì kèo của cầu Nhật Tiên và cầu Nguyệt Tiên rất đơn giản. Đó là kiểu vì cầu bốn hàng chéo, khoảng cách giữa hai cột cái là 1,7 m. Khoảng cách giữa hai cột cái này là chiều rộng của lòng cầu, hai bên được làm nơi ngồi nghỉ cho du khách tới vãn cảnh chùa. Khoảng cách giữa cột cái và cột quân là 0,5 m. Mái cầu có 5 khoảng hoành nối trên hai đầu đao làm một thanh giằng có chiều dài là 0,9 m, từ giọt gianh của mái xuống mặt cầu khoảng 0,9 m. Mái cầu xòe ra hai bên nên trông từ xa có cảm giác như một cái tháp bút. Với độ cao khiêm tốn lại nằm trong cảnh trí rộng lớn nên người ta có cảm giác cầu như một thứ đồ chơi. Vậy mà khi đi lại qua cầu ta vẫn có cảm giác thoải mái. Như vậy, niên đại của Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều có hai phần. Phần mái và khung được sửa chữa vào thời Nguyễn và phần móng cầu có niên đại năm 1602. Theo sử sách ghi lại, hai cầu này sau chuyến đi sứ nhà Minh.Tương truyền, Phùng Khắc Khoan đã dùng thuật phong thủy để diễn giải rằng chùa Thầy được xây trên trán rồng, cầu Nhật Tiên và Nguyên Tiên có hình dáng cong cong, chính là cặp mí mắt rồng… Khoảng không mặt nước được ngăn cách với hồ Long Chiểu bởi hai cây cầu chính là cặp mắt rồng. Hai cây cầu đều được xây theo kiến trúc cổ Việt Nam: Thượng Gia Hạ Kiều (trên nhà, dưới cầu), cầu uốn cong như cầu vồng, mỗi cầu gồm 5 gian, dưới xây đá cuốn trên dựng bộ khung, nhà gỗ lợp ngói mũi hài cổ kính. Hai bên thành cầu thông thoáng, có lan can thấp được làm rộng ra để làm nơi nghỉ chân cho khách thập phương qua lễ Chùa. Trước mỗi nhịp cầu đều có một cặp rồng đá cổ. Cầu ngói vốn là dạng kiến trúc phổ biến của làng xóm sự xuất hiện của nó trong Chùa chiền minh chứng cho sự giao thoa giữa văn hóa truyền thống và đạo Phật. Tên của hai cây cầu dựa trên biểu tượng Nhật – Nguyệt (mặt trời, mặt trăng) nó tượng trưng cho hai mặt Âm – Dương hòa hợp tạo nên sự cân bằng cho vạn vật, đất trời.Trải qua năm tháng thời gian, Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều vẫn giữ được nét nguyên sơ, cổ kính rêu phong.

     2.4. Cầu Ngói chùa Lương

     Trải qua hơn 400 năm tồn tại và nhiều lần sửa chữa, trùng tu nhưng cây cầu ngói chùa Lương vẫn tồn tại khá nguyên vẹn với những đường nét kiến trúc cổ kính và độc đáo mang nét đặc trưng của thời kì thế kỉ XVII-XVIII.Ngày nay nhiều công trình giao thông mới đã và đang được xây dựng tuy nhiên cầu ngói chùa Lương vẫn dành đươc rất nhiều tình cảm của người dân đất Quần Anh.Cầu ngói gắn liền với quà trình khai hoang lấn biển, là minh chứng cho thời kì phát triển hưng thịnh mà cũng rất đỗi yên bình của vùng đất Hải Hậu xưa. Là một công trình kiến trúc dân gian, cầu vừa là công trình kiến trúc công cộng nhằm mục đích phục vụ giao thông, vừa là điểm nhấn tạo quang cảnh cho chùa Lương. Cầu được bắc qua sông Giữa, là con sông chảy giữa 10 giáp vì thế còn có tên gọi là Trung Giang. Cầu là trọng điểm giao thông chính nối liền làng xã, là con đường dẫn vào chùa Lương, nơi trung tâm văn hóa của đất Quần Anh xưa. Cầu được kiến trúc vừa đảm bảo độ bền chắc, vừa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật, mỹ thuật. Hệ thống chân cầu được dựng bằng các trụ đá, nhưng phần mái thì được lợp bằng rơm rạ, đến những năm Lê Chính Hòa thứ ba và thứ năm (1682, 1684), cầu được trùng tu lớn, các vì kèo thay bằng gỗ lim và lợp ngói mũi hài, phần trụ đá vẫn giữ nguyên.

     Nhìn tổng thể cây cầu giống như một ngôi nhà mái ngói nằm vắt mình qua sông. Phần trên là một tổ hợp mái ngói với đầy đủ hệ thống các kèo giống như cách thiết kế của một ngôi nhà truyền thống. Người thợ tài hoa xưa đã sáng tạo ra kỹ thuật nửa lợp, nửa xây làm cho dáng mái rất đẹp và tựa như con rồng đang bay. Với cấu trúc 9 gian được dựng chắc chắn trên 18 cột đá vuông nguyên khối. Phía trên cột đá là hệ thống xà ngang, xà dọc bằng gỗ lim to chắc để đỡ dầm cầu và nâng sàn cầu. Sàn cầu làm bằng gỗ lim, rộng 2m. Mái cầu lợp ngói vảy rồng, có hình dáng cong cong tựa như mình rồng đang uốn khúc. Toàn bộ cây cầu bên trên có mái che kín đáo nhưng bên dưới lại để hở nên rất thông thoáng.

     Phần mộc của cầu tuy chạm khắc không cầu kỳ nhưng thể hiện rất rõ kiến trúc thuần Việt. Đặc biệt là qua sự bố trí các hàng chân cột, các kết cấu vì kèo và cách ghép mộng gỗ… Phần nề cũng khá đặc biệt nhất là phần cổng ở hai đầu cầu. Cổng được xây dựng theo lối cửa vòm một lối, hai bên có hai hàng cột với đôi câu chữ Hán: “Giáp ngạn mã đề nhân thượng hạng. Hoàng Giang hồng ảnh ngật Đông Tây”, tức là trên cầu hàng ngày người và xe đi lại, bóng của cầu buổi sáng ngả về phía Đông buổi chiều ngả về phía Tây. Trên vòm cổng có hình hai con nghê nâng một bức cuốn thư lớn trông vừa uy nghiêm, vừa thân thuộc.

     Hai bên lòng cầu là hai dãy hành lang cũng chạy song song uốn cong như lòng cầu, hành lang cao hơn lòng cầu 42 cm, chiều rộng của hành lang 60 cm, với sự thiết kế tinh tế của người thợ, hành lang có độ cao phù hợp để khách bộ hành dừng chân ngồi nghỉ hoặc du khách ngồi chơi hóng mát. Phía ngoài của hành lang là hệ thống các con song giữ chức năng là rào chắn nhưng cũng là những điểm nhấn tạo vẻ đẹp cho cầu.[6]

     Mái cầu lợp ngói vảy rồng, có hình dáng cong cong tựa như mình rồng đang uốn khúc. Toàn bộ cây cầu bên trên có mái che kín đáo nhưng bên dưới lại để nên vừa kín đáo nhưng cũng lại thông thoáng. Tuy các mảng trạm khắc không nhiều và có phần đơn giản chỉ bằng các hàng soi, đường chỉ ở các vỉ kèo, các con bẩy, hàng xà ván bưng tạo hình con bướm, đầu con song tạo dáng lá đề. Nhưng cũng thể hiện tài hoa của nghề mộc cổ truyền trên đất Quần Anh xưa. Phần nề cũng khá đặc biệt nhất là phần cổng ở hai đầu cầu. Cổng được xây dựng theo lối cửa vòm một lối, hai bên có hai hàng cột với đôi câu chữ Hán “Giáp ngạn mã đề nhân thượng hạng. Hoàng Giang hồng ảnh ngật Đông Tây” tức là trên cầu hàng ngày người và xe đi lại, bóng của cầu buổi sáng ngả về phía Đông buổi chiều ngả về phía Tây.

     Phía trên vòm cổng có hình hai con nghê nâng một bức cuốn thư lớn trông vừa uy nghiêm, vừa quen thuộc. Với chiều dài của mái gần 14m, rộng 4,5m, để lợp được hoàn chỉnh mái cầu Ngói sao cho đảm bảo yêu cầu kĩ thuật, không bị dột, không bị xô ngói, không để chỗ quá dày, chỗ lại như trải ngôi, ở một cặp mái vừa có độ dốc lớn tới 150 thật là một kỹ thuật khó mà bàn tay khéo léo của người thợ xưa đã thực hiện thành công.

     Cổng cầu được xây bằng gạch trát vữa, cửa của cổng cầu có kích thước chiều rộng đúng bằng sàn lòng cầu (220cm), chiều cao cửa cổng được cuốn vòng cung tạo sự mềm mại, tính từ điểm cao nhất xuống mặt sàn cầu là 290 cm. Cổng cầu được thiết kế 4 cột trụ vê tròn, tương ứng với hàng cột ở mỗi vì. Các cột trụ này được trang trí gờ chỉ, chân thắt cổ bồng công phu, đặc biệt đều có câu đối nhấn vào cột, nội dung ca ngợi công trình độc đáo, được xây dựng trên quê hương Quần Anh xưa.Bên trên cửa cuốn và hàng trụ, là hình tượng cuốn thư. Cuốn thư được đắp nhẵn và tạo dáng khá đẹp, trong lòng cuốn thư đề 4 chữ: Quần Phương xã kiều. Hai bên của cuốn thư là hình tượng hai con nghê được đắp bằng vôi vữa, bột giấy, hai chân sau đạp lên quả cầu hai chân trước bám chặt vào cuốn thư vừa đảm bảo kết cấu cho cuốn thư, vừa như nâng cuốn thư lên để tôn vinh. Đỉnh cuốn thư cũng là đỉnh cầu, là con kìm bờ nóc, để giữ mái ngói, người thợ đã khéo léo trang trí thành hình tượng đầu rồng với cái đại bờ nóc uốn lượn như tượng trưng cho thân rồng mềm mại.[6]

     Cầu Ngói, nằm trên trục đường liên xã, là cây cầu nối vào di tích chùa Lương. Cùng với quần thể 9 chiếc cầu đá của các ngõ xóm trong xã Hải Anh, cầu Ngói chùa Lương đã góp phần tạo nên một tuyến cầu có giá trị nghệ thuật kiến trúc độc đáo ít thấy ở làng quê Việt Nam còn tồn tại đến ngày nay.

     2.5. Cầu ngói Phát Diệm

    Huyện Kim Sơn xưa kia vùng đất sình lầy ven biển, ông Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là người đã có công lớn trong việc khai hoang, mở rộng và ghi danh vùng đất này trên bản đồ Việt Nam. Trong thời gian lấn biển mở rộng diện tích đất nơi đây, cùng với việc lấn đất bãi bồi ven biển mở làng. Sông Ân chảy qua thị trấn Phát Diệm là một công trình thủy lợi được ông cho xây dựng trong nhiều năm, lấy nước ngọt từ đầu nguồn về đây rửa mặn để người dân sản xuất được thuận lợi. Khi có con sông này, việc đi lại của người dân hướng về phía biển mở rộng diện tích đất gặp nhiều khó khăn, Nguyễn Công Trứ đã cho xây dựng một cây cầu nối đôi bờ sông Ân. Ban đầu cầu được xây dựng bằng thân những cây gỗ to, những tấm gỗ lớn, cầu rộng để cho người dân đi lại được thuận tiện. Do thời gian bị hư hại, đến năm 1902 cây cầu này được thay thế bằng một cây cầu ngói. Cây cầu ngói có kiến trúc cổ xưa được làm hoàn toàn bằng gỗ, bên trên lợp ngói…

     Trải qua hơn 100 năm, Cầu ngói Phát Diệm ngày nay vẫn còn giữ được nguyên dáng vẻ cong cầu vồng, bên trên lợp ngói. Cầu ngói gồm 3 nhịp, mỗi nhịp có 4 gian, với tổng chiều dài 36 m, chiều rộng 3 m. Hai bên thân cầu có hai dãy lan can và cột đều bằng gỗ lim chắc chắn, hai bên đầu cầu có bậc tam cấp nối xuống đường và bước xuống sông. Không chỉ có chức năng giao thông qua lại mà còn như một mái đình làng cổ kính, điểm hẹn văn hóa thân thuộc, nơi giao lưu hẹn hò của thanh niên nam nữ, là niềm tự hào của người dân nơi đây với du khách mỗi khi đến tham quan.[7]

     2.6. Cầu Nôm

     Không chỉ mang giá trị lịch sử, văn hóa, kiến trúc độc đáo, chiếc cầu đá cổ hơn 200 năm tuổi của làng Nôm, xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, được các nhà nghiên cứu di sản đánh giá là một công trình độc đáo còn nguyên vẹn chưa từng thấy ở bất cứ làng cổ nào của Đồng bằng sông Hồng.

Ai về cầu đá làng Nôm

Mà xem phong cảnh nước non hữu tình

     Cầu Nôm là điểm nhấn độc đáo mang lại sức hút đặc biệt cho không gian văn hóa thuần Việt của làng. Cầu được làm hoàn toàn bằng đá. Mặt cầu rộng gần 2m, làm bằng đá xanh nguyên khối, gắn khít nhau. Những phiến đá lớn được các nghệ nhân dân gian đục đẽo rất công phu. Cầu xây 9 nhịp, theo quan niệm của người xưa số 9 tượng trưng cho sự may mắn… Dầm cầu hình chữ nhật. Mặc dù bị rêu mốc và cây leo bám, nhưng những nét văn hoa cổ tinh tế của cầu vẫn rất dễ quan sát. Hai bên thành cầu còn hầu như nguyên vẹn các mỏm đá dầm cầu được chạm trổ vân mây cách điệu, một họa tiết thường sử dụng trang trí trong kiến trúc cổ, được tạo tác công phu, nghệ thuật, rất điêu luyện và cầu kỳ, trông như những cái đầu rồng của những thuyền rồng mà vua chúa ngày xưa hay dùng để đi du ngoạn vậy. Chân cầu là những cột đá hình trụ, không đều nhau được đẽo thô để gác dầm cầu, đã bị xói mòn bởi thời gian, trở nên rêu phong, cổ kính. Điểm đặc biệt của cây cầu còn là tính bền vững về kết cấu. Mặc dù mặt cầu, mố cầu và chân cầu chỉ gác lên nhau chứ không có vật liệu liên kết, nhưng trải qua thời gian hơn 200 năm mặt cầu vẫn phẳng, chắc chắn và vững chãi. Điều đó cho thấy trình độ thiết kế, gia công vật liệu và thi công cầu của những người thợ ngày xưa rất đáng nể phục.

     Các cụ cao niên của làng kể rằng, khi xưa cầu được làm bằng gỗ lim nhưng để thuận tiện cho giao thương vào chợ Nôm, sau cầu được xây dựng lại bằng đá. Trước đây còn có một cây gạo cổ to đẹp ở đầu cầu phía bên chùa Nôm, nhưng nay bị cụt ngọn vì gió bão, dù dân làng đã cố cứu nhưng cây chẳng còn nguyên vẹn…

     Hơn hai thế kỷ đã qua, trải bao vật đổi sao dời, cây cầu vẫn vững chãi nối nhịp giao thương cho làng nghề đồng nát vang tiếng một thời và chứng kiến bao đổi thay của làng quê. Cây cầu đá cổ còn gắn với câu chuyện về một trong người chiến sỹ cách mạng đầu tiên của làng Nôm, liệt sỹ Phùng Văn Thực, người đã không ngại hiểm nguy đứng ra bảo vệ sự tồn tại của cây cầu khi cầu bị bọn giặc tìm cách cài mìn đánh sập. Câu chuyện ấy giờ đây vẫn được người làng xúc động kể lại với niềm kính trọng và tự hào. Cây cầu đá cổ là sự khác biệt trong kiến trúc của làng Nôm và cũng là một biểu tượng của ngôi làng cổ khi tên làng, tên cầu hòa làm một, đi vào câu ca dân gian.[7]

     2.7. Cầu đá cổ Lũng Khê

     Huyện Thuận Thành, Bắc Ninh hiện nay vẫn còn tồn tại hai cây cầu đá cổ khá nguyên vẹn đó là cây cầu đá nằm trong khuôn viên đền Lũng Khê (thôn Lũng Khê, xã Thanh Khương) thuộc khu vực thành cổ Luy Lâu và cây cầu đá thuộc địa phận giáp ranh giữa hai thôn Thuận An và Đức Nhân (xã Trạm Lộ).

     – Cây Cầu đá ở đền Lũng Khê – Thanh Khương:

     Trong khu di tích đền Lũng Khê (trong khuôn viên thành Cổ Luy Lâu) hiện còn bảo lưu được cây cầu đá cổ khởi dựng từ thời Lê Trung Hưng, được trùng tu vào năm Quý Mão, niên hiệu Thiệu Trị 3 (1843). Cầu bắc qua một ao nước phía trước đền và là lối để đi vào khu vực đền chính. Cầu làm bằng đá xanh nguyên khối gồm 7 nhịp với chiều dài tổng cộng là 10m38, chiều rộng mặt cầu 1m67, chiều dài trung bình mỗi nhịp là 1m40. Các bộ phận cấu thành cầu gồm: tấm lát mặt, dầm cầu, cột trụ. Tất cả có hơn 20 tấm đá lát mặt cầu kích thước tấm lớn nhất rộng 60cm, dài 1m43, tấm nhỏ nhất rộng 38cm, mỗi nhịp có 3 tấm lát mặt (có nhịp gồm 4 tấm) thường tấm ở giữa để phẳng, 2 tấm bên cạnh tạo gờ nổi hai bên rìa tạo dáng thành cầu. 8 chiếc dầm cầu kích thước dài trung bình 2m25, hai bên đầu dầm cầu trang trí vân mây xoắn, tạo dáng hình đầu rồng. Phía bên trên hai đầu dầm cầu trang trí các con vật, hoa lá cách điệu như: hổ phù, cá chép, rơi, lá sen, lá đề, hoa chanh, dây lá cách điệu… Tổng cộng có 24 chiếc cột trụ đỡ cầu, cột có kích thước dài khoảng từ 2,5m đến 3m.

     – Cây Cầu đá ở làng Thuận An – Trạm Lộ:

     Hiện nay trên bờ sông Gáo địa điểm giáp ranh giữa hai làng Thuận An và Đức Nhân thuộc xã Trạm Lộ còn tồn tại một cây cầu đá cổ. Tương truyền cầu đá do cụ Nguyễn Quang Sáng là người thôn Đức Nhân bỏ tiền ra mua đá, thuê thợ làm để cung tiến cho làng cách đây gần 200 năm. Khi ấy cụ đang làm chức Xuất huyện huyện Siêu Loại dưới đời vua Minh Mệnh (1820 – 1840). Cầu đá được bắc trên con đường chính nối liền từ cửa chùa làng Đức Nhân sang làng Thuận An. Con đường này hiện nay không còn nữa nhưng cây cầu đá vẫn còn tồn tại nguyên vẹn. Cầu làm bằng đá xanh nguyên khối gồm 5 nhịp với chiều dài tổng cộng là 8m30, chiều rộng mặt cầu 1m48, chiều dài trung bình mỗi nhịp là 1m45. Các bộ phận cấu thành cầu gồm: tấm lát mặt, dầm cầu, cột trụ. Tất cả có gần 20 tấm đá lát mặt cầu kích thước tấm lớn nhất rộng 56cm, dài 1m45, tấm nhỏ nhất rộng 38cm, mỗi nhịp có 3 tấm lát mặt (có nhịp gồm 4 tấm) thường tấm ở giữa để phẳng, 2 tấm bên cạnh tạo gờ nổi hai bên rìa tạo dáng thành cầu. 6 chiếc dầm cầu kích thước dài trung bình 2m, hai bên đầu dầm cầu trang trí vân mây xoắn, tạo dáng hình đầu rồng. Tổng cộng có 14 chiếc cột trụ đỡ cầu, riêng hai bên đầu cầu mỗi bên có 3 cột trụ đỡ dầm cầu, cột có kích thước dài khoảng từ 2m đến 2,5m.

     Trong số hai cây cầu đá cổ kể trên, hiện tại chỉ còn cây cầu đá ở đền Lũng Khê nằm trong khu vực thành cổ Luy Lâu vẫn được người dân sử dụng, cũng là lối đi chính vào di tích LSVH quốc gia – Đền Lũng Khê, nơi thờ Sĩ Nhiếp ở vị trí trung tâm thành cổ Luy Lâu xưa. Còn lại cây cầu đá ở địa bàn xã Trạm Lộ, nhân dân đã không sử dụng từ rất lâu. Hiện cây cầu đang nằm chơ vơ giữa đôi bờ sông Gáo xưa, đường dẫn đến hai đầu cầu hiện tại cũng không còn.

3. Kết luận:

     Qua thực tế khảo sát, chúng tôi thấy những cây cầu cổ Việt Nam nói chung còn rất nhiều cây cầu khác có giá trị lịch sử, văn hóa, tâm linh, nghệ thuật đều có biểu hiện xuống cấp như: Nhiều tấm lát mặt cầu bị sứt vỡ, hoặc đã bị gãy làm đôi, các nhịp cầu bị xô lệch, không gian môi trường không được chú ý tôn tạo, quy hoạch cảnh quan… Đặc biệt là cây cầu đá, cầu ngói ở địa điểm giáp ranh với dân sinh. Các ngành chức năng cùng chính quyền và nhân dân địa phương nơi sở tại có những cây cầu cổ cần phải có các giải pháp chính sách môi trường nhằm khắc phục, bảo tồn, tôn tạo thêm những di sản văn hóa này, phải có các quy định cứng rắn nhằm ngăn chặn mọi hành vi có biểu hiện xâm lấn, phá hoại cầu. Trong tương lai, khi có dự án trùng tu tôn tạo các di tích cổ cũng cần quan tâm đến việc trùng tu các di tích cầu cổ nói trên cũng như nhiều cây cầu cổ khác trên lãnh thổ Việt Nam Di tích cầu cổ Việt Nam đã thực sự có những nét văn hóa đặc trưng và giá trị đặc sắc về nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc, trang trí. Giá trị đặc sắc của di tích cầu cổ thể hiện ở nhiều thành tố. Ở mỗi vùng quê cũng đã chất chứa trong nó những mối liên hệ cộng đồng, làng xóm, chất phác và bền chặt. Những hình ảnh cây cầu ngói, cầu đá cổ nói riêng và những cây cầu giúp cho việc sinh hoạt của người dân ở mỗi địa phương nói chung đều có những gắn bó về mặt tinh thần, tâm linh hay những kỷ niệm ngay cả trong thơ ca như “qua cầu gió bay”, “cầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó đi” đã hình thành rất lâu trong dân ca, ca dao thôn quê và được lưu giữ trong tâm hồn Việt, để rồi hồi sinh khi những cây cầu ra đời đã phác họa lại được những vẻ đẹp văn hóa truyền thống từ nghệ thuật tạo hình đến chất liệu xây dựng bền vững như đá, gỗ; thể hiện ở sự công phu khéo léo của bàn tay nghệ nhân nghề mộc, nghề nề, ngõa; thể hiện ở cách bố cục sắp xếp không gian cầu kết hợp với cảnh quan, gắn với những biểu tượng ý nghĩa văn hóa trong đời sống với dấu ấn thời gian còn lưu trong văn bia nói lên lịch sử những cây cầu ngói, cầu đá cổ Việt Nam xứng đáng là những công trình kiến trúc, điêu khắc dân gian có giá trị về văn hóa nghệ thuật cần được bảo tồn và phát huy trong cuộc sống, đảm bảo sự phù hợp giữa việc bảo vệ giá trị di sản văn hóa với nhu cầu quản lý môi trường sinh thái với môi trường nhân văn trong điều kiện phát triển xã hội đương đại./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     [1]. Trần Văn Anh (2015), Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cầu Ngói, chùa Lương – Nam Định, Luận văn thạc sĩ, Đại học Mỹ thuật công nghiệp.

     [2]. Vũ Vân Anh (2018), Bí ẩn về cây cầu trấn yểm thủy quái ở Hội An, Báo pháp luật Việt Nam.

     [3]. Nguyễn Du Chi (2000), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

     [4]. Nguyễn Thị Phương Duyên (2006), Cây câu trong văn hóa Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo “Đồ ng bằ ng sông Cử u Long: thự c trạ ng và giải pháp để trở thành vùng trọng điểm phát triển kinh tế giai đoạ n 2006-2010”. Nxb Đại học Quốc gia Tp.HCM, 2006).

     [5]. Nguyễn Thị Thu Hương (2017), Biểu tượng cây cầu – từ đời sống văn hóa đến ca do trữ tình người Việt, Khóa luận tốt nghiệp ngành Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nộ i 2017.

     [6]. Bùi Văn Long (2017), Độc đáo Cầu ngói xứ Nam, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 397- 2017. Bộ Văn hóa Thể thao & Du lịch.

     [7]. Bùi Văn Long (2017), Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc cầu ngói khu vực Châu thổ Sông Hồng, Tạp chí mỹ thuật số 2017-2018, Hội Mỹ thuật Việt Nam.

     [8]. Chu Quang Trứ (2002), “Cây cầu trong văn hóa Việt cổ”, Văn hóa Việt Nam nhìn từ Mỹ thuật, tập I, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Mở Hà Nội, 66 (4/2020), 74-84

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Cầu cổ Việt Nam nhìn từ góc độ văn hóa (Tác giả: Bùi Văn Long)