Đặc sắc ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tùy bút Người Lái Đò Sông Đà
SPECIAL CHARACTERISTICS OF ART LANGUAGE OF
NGUYEN TUAN THROUGH NGUOI LAI DO SONG DA
TRẦN THỊ KIM CHI
(Trường Đại học Thủ đô Hà Nội)
TÓM TẮT
Chương trình môn Ngữ văn nói riêng và giáo dục phổ thông mới nói chung yêu cầu sự liên kết giữa các môn học. Phương pháp dạy học liên môn nên được áp dụng rộng rãi. Người dạy phải linh hoạt vận dụng nhiều biện pháp, thao tác, kỹ năng để giảng dạy tốt hơn, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh thông qua từng môn học, bài học. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi tìm hiểu đặc sắc ngôn từ nghệ thuật trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” của Nguyễn Tuân – một nhà văn đã quá quen thuộc với bạn đọc và có tác phẩm được lựa chọn giảng dạy trong chương trình mới.
Từ khóa: tính tạo hình biểu cảm, liên thông tri thức, tùy bút, Nguyễn Tuân, Người lái đò sông Đà.
ABSTRACT
The new program in literature and general education, overall, requires the connection with subjects. The method of interdisciplinary teaching should be widely applied. Teachers must apply a variety of measures, activities, skills for better lessons and improve educational quality for students in all aspects. In this article, we focused on the survey on the skill to utilize knowledge from different subjects in comprehension of the Ferryman on Da river (Nguyen Tuan) from a linguistic perspective.
Keywords: Expression, work, inter-knowledge Nguyen Tuan, the Ferryman on Da river.
x
x x
1. Đặt vấn đề
Liên thông tri thức là thao tác quan trọng nhất của phương pháp dạy học liên môn. Cách dạy học tích hợp, liên môn trong dạy đọc hiểu một văn bản nghệ thuật thực chất là sự vận dụng những nội dung và phương pháp của các lĩnh vực, các môn học có liên quan nhằm đạt hiệu quả tối ưu trong hoạt động dạy và học ở nhà trường phổ thông. Về bản chất, liên thông tri thức chính là hạt nhân của tích hợp, là nội dung quan trọng trong việc đổi mới sách giáo khoa, đổi mới phương pháp giảng dạy trong nhà trường hiện nay. Trong trường phổ thông, Ngữ văn là môn học có sự liên thông tri thức đa dạng nhất: từ sự hợp lực của ba phân môn (Văn học – Tiếng Việt – Tập làm văn) tới tích hợp kiến thức của các môn học khác (Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân…); từ kiến thức trong cuộc sống xã hội tới các tri thức kỹ năng, phương pháp giảng dạy, kinh nghiệm của thực tiễn…
Tác phẩm của Nguyễn Tuân được lựa chọn giảng dạy trong chương trình Ngữ văn mới lớp 10-12 là truyện ngắn Chữ người tử tù [1], song không riêng gì truyện ngắn, ngay trong lĩnh vực tùy bút, ông từ lâu đã nổi tiếng là một bậc thầy của nghệ thuật sáng tạo ngôn từ. Trong khuôn khổ có giới hạn, bài viết này xin được bàn thêm về khía cạnh đặc sắc ấy của ngôn từ nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tùy bút Người lái đò sông Đà.
2. Nội dung
Xuất hiện trên đàn văn vào cuối thập niên 30 và đầu 40 thế kỷ XX, ngay lập tức Nguyễn Tuân đã khẳng định tên tuổi của mình “ở một văn phẩm gần như thâu tóm và kết tinh mọi tinh hoa làm nên sự hoàn thiện và hoàn mỹ của một phong cách viết Vang bóng một thời” [2]. Ngoài truyện ký, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình và viết các chân dung văn học. Ông viết về tiếng Việt giàu và đẹp, về Truyện Kiều, về Tú Xương, Tản Đà, Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Thạch Lam, về Dostoyevsky, Sekhov, Lỗ Tấn… Với vốn hiểu biết phong phú trong nhiều lĩnh vực, với năng lực thẩm mỹ sắc sảo và lối viết tài hoa phóng túng, những bài viết đó thường giàu trí tuệ, có những phát hiện độc đáo, tâm đắc.
Tuy nhiên, người ta nhớ đến nhà văn lớn này không chỉ vì phong cách ngông không ai theo được mà còn bởi những ấn tượng đậm nét về thể loại tùy bút – sở trường của nhà văn. Sở dĩ Nguyễn Tuân được mệnh danh “tùy bút gia” của văn xuôi hiện đại Việt Nam vì ở mảng sáng tác này, Nguyễn Tuân “khoe” được cá tính độc đáo đủ đầy nhất; đồng thời ông chứng tỏ mình thực sự là một bậc thầy ngôn từ mà rất lâu nữa mới có nhà văn khác sánh kịp. “Giới nghiên cứu ca tụng những bữa tiệc ngôn từ trên trang văn Nguyễn Tuân và đề cập đến việc soạn một từ điển ngôn ngữ Nguyễn Tuân bởi những gì ông đã góp vào kho từ vựng chung của tiếng Việt. Người ta hiểu rằng cả một vùng trời lung linh ngôn ngữ ấy là tinh kết của một cuộc sống từng trải, si mê góp nhặt từng mảy vàng tiếng mẹ đẻ…” [2].
Tập tùy bút Sông Đà (1960) gồm 15 bài và một bài thơ phác thảo; trong đó, đặc sắc hơn cả là tùy bút Người lái đò sông Đà. Tập tùy bút này là kết quả chuyến đi thực tế lên Tây Bắc của Nguyễn Tuân những năm 1958 – 1960. Trở lại vùng đất đã từng gắn bó với ông những năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, Nguyễn Tuân như được sống lại với những kỉ niệm thân thuộc và cảm xúc nghệ sĩ lại dâng trào trong tâm hồn ông. Cảnh vật và con người Tây Bắc đã có một sức hấp dẫn cuốn hút đặc biệt đối với Nguyễn Tuân. Ông say mê trước vẻ đẹp thơ mộng trữ tình và cả cái hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc, tự nhận mình là người “đi tìm thứ vàng của màu sắc sông núi Tây Bắc” sẵn có trong mỗi con người lao động bình dị như người lái đò trên sông Đà. Tùy bút Người lái đò sông Đà chất chứa niềm trân trọng và mê say ấy, nên có thể coi nó là áng văn nghệ thuật đầy chất thơ, một bài ca bất tuyệt về con người trong cuộc đối đầu với tự nhiên để sinh tồn.
2.1. Tính tạo hình biểu cảm của ngôn từ
Sự tài hoa của Nguyễn Tuân trong sáng tạo nghệ thuật thể hiện trước hết ở sự phát hiện các “tâm điểm” và tập trung miêu tả, nhấn mạnh nó bằng lối hành văn và hệ thống ngôn từ giàu tính thẩm mĩ, chính xác, súc tích, đặc biệt phóng khoáng và tinh tế. Người lái đò trong tùy bút là một người ở Quỳnh Nhai mà ngay từ lần gặp đầu tiên nhà văn đã cảm giác như “một người tình nhân muôn thuở, một anh Trương Chi nào của một dòng sông nhiều trữ tình này (…) một linh hồn muôn thuở của sông nước này” [3, tr.7; kể từ đây các trích dẫn đều lấy từ cuốn này]. Vẻ đẹp riêng của con người lao động trên sông nước được nhà văn cắt nghĩa: “hình như con sông đã tạo cho họ một cách cảm một cách nói vừa rắn rỏi vừa uyển chuyển âm trầm” (tr.8); câu chuyện kể của bất cứ con người nào mưu sinh trên sông nước “đều dội lên dư âm của thác đá sông Đà” (tr.8). Câu chuyện kể của người lái đò ở Quỳnh Nhai thì “gân guốc như bắp tay, bắp chân họ cuộn sóng thừng lên những lúc lao động cường độ để đánh nhau với thác nước sông Đà. Rồi hơi lại chuyển êm ru đi như dòng sông lặng tờ, sau những khúc ào ào ghềnh thác vọt nước qua mạn đò” (tr.8). Đó là những người lao động hiểu sông Đà đến mức “trí nhớ ông được rèn luyện cao độ bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Sông Đà đối với ông lái đò ấy, như một thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than chấm câu và những đoạn xuống dòng” (tr.9). Những người lái đò trên sông Đà thường có một vết bầm hình tròn trên ngực vú, bả vai vì đó là “vết nghề nghiệp của đầu con sào gởi lại đời đời cho người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân cho rằng “cái đồng tiền tụ máu cũng là cái hình ảnh quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng tặng cho người lái đò sông Đà” (tr.12)… Rất khó để lựa chọn từ/cụm từ nào thú vị nhất vì bản thân hành văn của Nguyễn Tuân đã bao gồm khâu lựa chọn đến việc sắp xếp ngôn ngữ theo một trường liên tưởng kỳ thú.
Hình tượng sông Đà trong tùy bút của Nguyễn Tuân cũng được sống dậy nhờ những áng văn gợi cảm. Không khí cổ xưa của các châu lộ thời nào vẳng lại bởi tiếng trống gọi chiều về: “Trên bến Quỳnh Nhai, tiếng trống trên châu vừa thu không, các thuyền độc mộc đi làm nương bắp xa từ sáng sớm đã trở về bến gần hết…” (tr.7); có lúc sông mơ màng trong sương khói mây trời: “Con sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân” (tr.22). Cái sự độc đáo ở đây nằm ở từ “áng tóc trữ tình”, đó là sự kết hợp giữa “mái tóc” và “áng thơ”, để trong một từ “áng tóc” người đọc có thể hình dung sông đẹp như mái tóc của mĩ nữ trải dài giữa núi rừng xanh ngát hoang sơ. Dòng sông Đà qua sự miêu tả của nhà văn luôn có hồn, nó tích tụ những lớp trầm tích của lịch sử và con người Tây Bắc. Có lúc sông tươi vui trong thứ nắng mật ong “Bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm trên sông Đà. Chao ôi, trông con sông, vui như thấy nắng dòn tan sau kỳ mưa dầm, vui như nối lại chiêm bao đứt quãng”, khi thì lại hồn nhiên và đầy bí hiểm “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa” (tr.22)…
Nguyễn Tuân vốn là bậc thầy trong sáng tạo ngôn từ tiếng Việt, nên không thể không nhắc tới vô số sự kết hợp từ quen để tạo ra một từ/cụm từ mới nhằm diễn đạt sinh động một khái niệm. Nếu những khoáng sản giàu có ẩn trong lòng rừng núi Tây Bắc được nhà văn gọi là “chất vàng mười của Tổ Quốc” thì con người lao động trên vùng đất đó, con sông đó đích thị là “chất vàng mười đã qua thử lửa”. Những con người Tây Bắc bình dị như người lái đò kia, trong cuộc mưu sinh gian khó, trong những nỗ lực xây dựng, kiến thiết, làm cho Tây Bắc thêm tươi đẹp, đã được tôi luyện, đủ khả năng chống chọi và chinh phục thiên nhiên hiểm trở; họ “quý hơn tất cả những của chìm của nổi ở Tây Bắc”. Sự khẳng định này dẫn đến một sự khẳng định khác chẳng mấy ăn nhập nhưng lại rất chính xác và thú vị: “cái vốn người bản địa đưa từ đồng bằng lên tăng cường quân số lao động cho các nông trường, công trường Tây Bắc, đó là những đồng tiền vàng đem vào đầu tư đời sống Tây Bắc ngày nay” (tr.6).
Ngoài miêu tả thiên nhiên hoang sơ hiểm trở, Nguyễn Tuân còn có biệt tài khắc họa chân dung con người. Ông lái đò gần 70 tuổi trong tùy bút đi vào tâm trí bạn đọc với “cái đầu quắc thước đặt trên một thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng chất mun”; “khuôn mặt ông he hé một nửa miệng cười”; “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào trong sương mù…” (tr.8). “Ông giơ đôi tay lên, đôi cánh tay trẻ tráng quá…” (tr.10). Nghề lái đò trên con sông nhiều gềnh thác như sông Đà đòi hỏi những người như ông: “cứ dựng đứng lên mà luôn tay luôn chân luôn mắt luôn gân và luôn tim nữa” (tr.9). Tả xung hữu đột giữa vòng vây của đám thạch trận tai quái, ông lão lái đò vừa dũng mãnh như một vị tướng quân “nắm chặt được cái bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái” (tr.20), vừa ung dung như một kẻ nhàn tản đang đi thưởng ngoạn; vượt thác rồi, bao nhiêu “sóng thác xèo xèo tan trong trí nhớ” (tr.21).
Nếu phần tài hoa bộc lộ ở hành văn và ngôn từ biểu đạt thì sự uyên bác thể hiện ở sự am hiểu sâu và rộng về văn chương, nghệ thuật, những lĩnh vực khác nhau của đời sống. Trong tùy bút này, có nhiều đoạn văn chứa đựng vùng tri thức liên quan tới nghệ thuật được nhà văn vận dụng để tái hiện hình tượng sông Đà.
Đó là sự tinh tế trong lọc chọn ngôn từ và cách diễn đạt của văn chương giàu nghệ thuật. Những con thuyền then đuôi én được miêu tả “dài mình mới thắt bụng lại như một cô thiếu nữ thít chặt cặp xiêm chưa muốn vội làm người mẹ” (tr.14). Còn nắng trên sông Đà là cái nắng của Đường thi: “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”, của đồng dao thần thoại: “Núi cao sông hãy còn dài – năm năm báo oán đời đời đánh ghen” (tr.22), của Tản Đà: “Dải sông Đà bọt nước lênh bênh – Bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình”, “là người tình nhân chưa hề quen biết” (tr.2), của Nguyễn Quang Bích: “Lòng trung không nỡ bỏ Tây Châu – Giữ lấy Thao, Đà dải thượng lưu”, “Chúng thủy giai Đông tẩu – Đà Giang độc Bắc lưu” (tr.25)…
Nhà văn còn tỏ ra rất am hiểu về nghệ thuật điện ảnh mặc dù những năm 60 của thế kỷ XX điện ảnh không phổ biến ở Việt Nam. Ông sử dụng nhiều thuật ngữ và liên tưởng, kĩ xảo có tính nghề nghiệp trong bài tùy bút này. Chẳng hạn: “về mặt tạo hình, cảnh này (kéo thuyền vượt thác) còn phong phú hơn cả người hò đò trên sông Vôn- ga” (tr.16), hay sự hình dung về những xoáy, hút nước trên sông: “Tôi sợ hãi mà nghĩ tới một anh bạn quay phim táo tợn nào muốn truyền cảm giác lạ cho khán giả đã dũng cảm ngồi vào một cái thuyền thúng tròn vành rồi cho cả thuyền cả mình cả máy quay xuống đáy cái hút sông Đà – từ đáy cái hút nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải. Thế rồi thu ảnh. Cái thuyền xoay tít, những thước phim màu cũng quay tít, cái máy lia ngược contre- plongee lên một cái mặt giếng” (tr.17)…, nhờ vậy mà thước phim kí sự quay được ấy sẽ truyền tới người xem cảm giác chân thực tới mức khi xem phải “lấy gân ngồi giữ chặt ghế” và lên kế hoạch cho mai sau: “Tôi nghĩ sau này làm phim truyện hoặc phim ký sự màu về sông Đà (…) phải đưa ống kính quay phim lên tàu bay. Cho bay là là trên cái thác mà dí máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác” (tr.21).
2.2. Sự liên thông tri thức qua ngôn từ, hình ảnh
Một trong hai đối tượng nghệ thuật của tùy bút là người lái đò trên Sông Đà. Để tái dựng chính xác công việc của con người lao động trên sông nước, trước hết, Nguyễn Tuân sử dụng một hệ thống các thuật ngữ, các khái niệm, cách thức hành động, lượng thông tin hiểu biết rõ ràng… mà chỉ người trong nghề mới thực sự hiểu. Bắt đầu bằng những bài học căn bản: “chỗ bằng thì chèo; chỗ dựng vách đá thì chống; ngược thác mà bờ bằng thì kéo. Ngược, tốn lực và lâu thì giờ hơn xuôi, xuôi thì nhanh vèo vèo, nhưng ngược thì đỡ nguy hiểm hơn xuôi. Sông Đà nước đục khó đi hơn là lúc nước trong” (tr.11); muốn “kéo thuyền ngược thác, chớ có kéo dài lắt nhắt ra thành nhiều hơi nghỉ. Gối mà run, vai mà mỏi, cứ nghỉ lấy sức cho đủ, thấy đủ rồi thì hô dô ta nhất tề mà kéo miết một hơi qua thác (…), cứ dềnh dàng vừa kéo vừa nghỉ hơi là nước nó xô xuống, nó thúc xuống là vỡ toi, là băng cái thuyền” (tr.12). Qua những thác hiểm trở, cảnh kéo đò thật như kéo pháo, phải dỡ hết hàng trong lòng thuyền, “tuyệt đối không để sót một sợi chỉ một cái kim trong khoang thuyền” (tr.16). Muốn xác định ai là người chèo thuyền giỏi có thể dựa vào cách mà họ vượt thác nước. Làm thế nào để biết họ vượt thác giỏi? giỏi là người “vào thác mà không trệch đường tim luồng nước sinh sống” (tr.13), người lái phải thẳng tay lái, nhạy bén, thẳng dòng, sự ước lượng của đôi mắt phải chính xác. Trong vô số cái “luồng giận dữ” của một con thác, bao giờ cũng có “một luồng êm, cứ đi đúng vào chính giữa cái luồng tương đối đằm dịu ấy, thì thuyền ta cứ muôn đời mà êm” (tr.13)…
Nhà văn cũng cung cấp cho người đọc hiểu vì sao người Tây Bắc không chuộng dùng những con thuyền có khoang bụng rộng như dưới xuôi ta thường gặp. Thuyền bụng to thì chứ được nhiều hàng nhưng người Tây Bắc không đóng thuyền bụng to dù “thiếu gì gỗ” chỉ vì có thể thuyền sẽ bị đá trong lòng sông “thắt chịt” lấy mà mắc kẹt, nên người Tây Bắc chỉ đóng những con thuyền then đuôi én. Thuyền càng thon, càng lách mau qua thác.
Ngay cả trong cách kể về đời sống và tính cách những người lái đò, nhà văn cũng thường xuyên mượn những hình ảnh so sánh gần gũi với công việc của người lái đò, xóa bỏ những khoảng cách giữa người viết và nhân vật. Thì đó, khi ông đò Lai Châu chuyển câu chuyện sang hướng khác, nhà văn thầm so sánh câu chuyện rẽ “như một tay lái ngang sông miết theo luồng thác bắt chéo” (tr.10).
Tùy bút Người lái đò Sông Đà còn hấp dẫn người đọc bởi từng trang văn mở ra một vùng văn hóa sông nước chứa những điều thú vị mà người đọc chưa từng biết tới: Những người vượt thác sông Đà thường có nhiều người kéo đò, họ hò lên “nghe âm u ghê rợn không kém gì đoàn hò đò sông Vôn-ga thời Nga hoàng” (tr.8). Hình ảnh lạ lùng chỉ có người lái đò Lai Châu mới hiểu: “Người lái đò Lai Châu hay cởi truồng. Người lái đò sông Đà hay mặc áo mà không mặc quần. Có khi muốn đóng khố nhưng cũng không đóng được. Cát sông Đà rất hay ăn da người chở đò. Hễ mặc quần hoặc đóng khố là cát chui ngay vào bẹn rồi loét da” (tr.11). Cũng vì cát trong lòng sông mà “cứ nhìn đôi bàn chân nhau thì nhận ra ngay người lái đò sông Đà. Cát đục thủng gan bàn chân lỗ rỗ như những vệt hà đục đáy và mạn dưới các thuyền gỗ. Lái đò yếu nhất là đôi chân, họ chạy rất kém. Họ khỏe nhất hai cánh tay. Người thường ăn hai lạng rưỡi gạo, họ phải ăn đến bảy tám lạng” (tr.11). Những con thác dữ tợn hút không biết bao cái thuyền nên “thuyền qua đấy vẫn còn có tục hóa vàng, mổ gà mổ vịt cúng thần đá thác” (tr.32).
Nguyễn Tuân còn đưa vào tùy bút lượng thông tin lớn về lịch sử, địa lý của dòng sông. Về phương diện lịch sử, nhà văn cung cấp thông tin: “Sông Đà khai sinh ở huyện Cảnh Đông tỉnh Vân Nam, lấy tên là Ly Tiên (theo Dư địa chí của Nguyễn Trãi thì tên Trung Quốc của sông Đà lại là bả Biên Giang) mà đi qua một vùng núi ác, rồi đến gần nửa đường thì xin nhập quốc tịch Việt Nam, trưởng thành mãi lên và đến ngã ba Trung Hà thì chan hòa vào sông Hồng” (tr.24). Ngược dòng thời gian, người đọc biết “thời cũ tên sông Đà được dùng làm tên đạo tên lộ. Trong số 15 lộ hành chính đời Trần, có Đà Giang lộ gồm những đất đai từ tỉnh Hưng Hóa ngược lên” (tr.24). Rồi những năm kháng chiến, khánh Nhật, thời bao cấp…, người dân ở địa giới loang ra đôi bờ sông Đà đã làm bao việc có ích cho cách mạng, cho tới khi Đảng và Nhà nước quy hoạch, tính đến việc trị thủy để thắp sáng khắp nơi.
Từ góc nhìn địa lý, nhà văn mô tả chính xác kiến thức khoa học: “Từ biên giới Trung Việt tới ngã ba Trung Hà là 500 cây số lượn rồng rắn, và tính toàn thân Sông Đà thì chiều dài là 883 nghìn thước mét chảy qua hai nước Việt Nam, Trung Quốc” (tr.24). Các địa danh đánh dấu được trên bản đồ Tây Bắc: Quỳnh Nhai, Mường Chiên, Lai Châu, Chợ Bờ, bến Phà Đen; bến Sa San (trung Quốc), Mường Lay, Hòa Bình, Phương Lâm, Mường Phù Yên… 73 cái thác trên Sông Đà, có tên, tính cách khác nhau. Cách biên giới Trung Quốc phía Vân Nam khoảng mươi cây số là thác Kẻng Mỏ Trên. Rồi đến thác La Sa, thác Hát Vá, thác Mằn Hi, thác Mằn Lay. Rồi Hát Nhạt, Mằn Thắm, Hát No Kéo, Kẻng Mỏ Dưới. Rồi đến Hát Lai (…) Hát Pi, Hát Soong Pút, Hát Soong Mon, Hát Mố, Hát Kếch, Hát Moong, Hát Tiếu (…). Thác En, Thác Giăng, Bãi Chuối, Mó Sách, Bãi Lồi, Bãi Lành, Mó Tôm, Mó Nàng, Nánh Kẹp, Quai Chuông, Tà Phù, Bãi Nai, Ba Hòn Gươm, Phố Khủa, Ghềnh Đồng, Suối Bạc, O Gà, Bãi Nhạp, Cánh Cuốn, Mèo Quen, Hang Miến, Quần Cốc, Suối Trông, Bãi Ban, Diềm, Thác Rút, Thác Mẹ, Bãi Thằng Rồ, Mó Tuần, Suối Hoa, Hót Gió, Thác Bờ.
Đôi lúc, người đọc tùy bút của Nguyễn Tuân có cảm giác dễ bị “bội thực” thông tin bởi trong cùng một đặc điểm của dòng sông, nhà văn “kéo” vô số những liên tưởng – thuật ngữ – chi tiết thuộc các ngành, nghề khác nhau của đời sống, buộc người đọc phải nhận ra thật rõ đặc điểm của đối tượng nghệ thuật. Miêu tả cuộc chiến không khoan nhượng diễn ra mỗi ngày giữa nhà đò với sông Đà, nhà văn sử dụng vô số thuật ngữ quân sự: “thủy chiến” trên sông Đà; đá ở đây “ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông”, mỗi lần có con thuyền nào đi qua “là một số hòn đều nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”, “mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông”; “Đám tảng đám hòn chia làm ba hàng chặn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền”; “một cuộc giáp lá cà đá dàn trận địa”, “dụ thuyền đối phương”, “cái thuyền du kích”, “đánh khuýp quật vu hồi”, “những bong-ke chìm, những pháo đài nổi”, “giao chiến”… Những “luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm”, “hỗn chiến”, “chỉ huy”, “phá xong cái trùng vi thạch trận”, “đổi chiến thuật”, “nắm chắc binh pháp”, “thuộc quy luật phục kích”, “cửa sinh, của tử”, “tập đoàn cửa tử”, “tướng dữ quân tợn”…
Rất nhiều thuật ngữ thuộc về công nghiệp khai thác khoáng sản, địa chất: “phát hiện vỉa quặng mỏ kim”; “Chỗ nào cũng có vàng cốm, nhỏ thì bằng gạo tấm, lớn thì bằng hạt ngô, có con vịt bầu mổ ra là lấy được trong mề vịt hàng mấy đồng cân vàng” (tr.5); những “quặng, có đồng, có đá bông, than mỡ và vỉa than ăn từ bến nào đén bến nào”; anh bạn trẻ Cục khoáng chất “vừa tìm được cái luồng đi liên tục của mỏ quặng, mỏ kim qua các triền núi ven sông” (tr.7)…
Để người đọc hình dung rõ cái hiểm trở ghê rợn của con thuyền vượt thác ghềnh trên sông, nhà văn mô tả nhờ sự liên tưởng tới thuật ngữ của dân lái xe đường bộ: “Đường bộ ô tô xuống đèo, đường thủy thuyền xuống thác nó khác nhau ở cái điểm ô tô có máy pham hãm lại mà thuyền thì không. Một cái đèo ngùng ngoằng chữ chi gấp góc vừa thuận vừa nghịch có liên hồi đến chín mươi đợt cấp sát mép vực, có bị mùa mưa rê đít xe hoặc bánh quay không, cũng không khó bằng xuống thác” (tr.10), hay “lao xe xuống dốc thì dùng phanh chân phanh tay, những góc ác, thì tiến lên lùi lại, một đỏ không lọt thì hai đỏ, xe mà mười bánh thì ba đỏ. Còn như cái thuyền xuống thác thì chả có cái phanh nào, chỉ có lao đi chứ không lùi gì cả, chờ gì cả, hãm chậm gì cả” (tr.11)… Các con thuyền vượt thác ghềnh được miêu tả khác nào những chiếc thuyền đua, xe đua: “Thuyền nào qua cũng chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực” (tr.17).
Ngoài ra, sự tổng hợp vốn kiến thức phong phú của đời sống, sự am hiểu tỉ mỉ những chi tiết nhỏ nhất của đời sống cũng giúp nhà văn miêu tả tỉ mỉ, vừa chân thực vừa gợi nhiều liên tưởng những gian khổ hiểm nguy khôn lường của dòng sông Đà và những người thường xuyên gắn bó với nó, sống trên sông Đà: “nước Sông Đà reo như đun sôi lên một trăm độ muốn hất tung đi một cái thuyền đang đóng vai một cái nắp ấm một ấm nước sôi khổng lồ”; quãng sông khác, “mặt sông cũng có ổ gà như mặt đường cạn, đi vào ổ gà sông là thuyền bị giật xuống bị dồi lên” (tr.12). Ghềnh Hát Loóng hung bạo tới nỗi quanh năm gầm gào “như muốn đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đó”.
Quãng này mà khinh suất tay lái “thì cũng đã lật ngửa bụng thuyền ra”… Thậm chí, “trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống chuẩn bị làm móng cầu” (…). Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” (tr.17)… Thạch trận bày ra chẳng khác sự bố trí của một trận bóng quyết liệt, có “hàng tiền vệ”, “bọn đá hậu vệ”, “tuyến giữa”, “chọc thủng tuyến hai”, “lưới đá tuyến trên”, có lúc chẳng khác nào ông đò đang tham dự một keo đấu vật với sóng nước hung tợn, trong đó sóng nước liều mạng “đá trái, thúc gối vào bụng và hông thuyền (…). Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra”. Nó ghê gớm tới mức sóng nước “bóp chặt hạ bộ người lái đò, hột sinh dục vụt muốn thọt lên cổ” (tr.19)… Cách dụng ngôn mang tính chiến thuật quân sự này khiến sông Đà không còn là một thực thể tự nhiên, mà trở thành một sinh thể có tính cách – thứ tính cách hung bạo, hiện rõ hình “kẻ thù số một của con người Tây Bắc”.
3. Kết luận
Như phần trên đã đề cập, với cách dạy học tích hợp liên môn, giáo viên có thể giúp học sinh tiếp cận một văn bản ở rất nhiều góc độ. Với văn bản Người lái đò sông Đà, tri thức lịch sử – địa lý – văn học vùng đất Tây Bắc là rất hữu ích. Thời kỳ cách mạng và kháng chiến, vùng đất này là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ của Tố Hữu, Quang Dũng, Chế Lan Viên; văn xuôi của Tô Hoài, Hữu Mai… âm nhạc của Đỗ Nhuận, Cầm Giang – Bùi Đức Hạnh, họa phẩm của Nguyễn Gia Trí, Bùi Xuân Phái…
Người lái đò sông Đà chau chuốt và phóng khoáng về ngôn từ, có ngôn từ khoa học, có ngôn từ thể thao, có ngôn từ quân sự, có ngôn từ đời thường… Dù là kiểu ngôn từ nào thì nét nổi bật vẫn là chất tài hoa uyên bác. Khai thác nét đặc sắc này trong giờ dạy tác giả, tác phẩm vừa mang lại xúc cảm thẩm mĩ tinh tế cho học sinh, vừa thấy được những sáng tạo đặc biệt của nhà văn về trí tuệ và ngôn từ. Nguyễn Tuân trong tùy bút hay truyện ngắn là vậy, và Nguyễn Tuân xưa nay trong cảm nhận của độc giả vẫn là vậy.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn, – Dự thảo ngày 19 tháng 1 năm 2018.
2. Thanh Hoa, Nguyễn Tuân, bậc thầy về tùy bút, – Https://baotintuc.vn.
3. Nguyễn Tuân, Nguyễn Tuân tuyển tập, – Nxb Văn học, Hà Nội, 2012.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô Hà Nội, ISSN 2354-1512
Số 33, Khoa học Xã hội & Giáo dục, Tháng 8, Năm 2019
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Đặc sắc ngôn ngữ nghệ thuật Nguyễn Tuân qua tùy bút Người Lái Đò Sông Đà (Tác giả: Trần Thị Kim Chi) |