Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc qua tục ngữ có yếu tố chỉ con Ngựa (Phần 1)

Tác giả bài viết: HOÀNG THỊ YẾN
(Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Hàn Quốc, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam)

TÓM TẮT

    Bài viết sử dụng phương pháp miêu tả kết hợp với các thao tác phân tích, tổng hợp với đối tượng nghiên cứu là 361 đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa1. Hình ảnh con ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn được khắc họa một cách chân thực và tượng trưng cho cuộc đời của một con người. Giá trị biểu trưng của các đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa thể hiện ở việc đề cao những giá trị chân – thiện – mĩ, những bài học mang tính chất giáo huấn và chuyển tải kinh nghiệm phong phú về cuộc sống, quan hệ ứng xử. Giá trị đả kích và phê phán cái ác, mặt tiêu cực, châm biếm những thói hư tật xấu của con người cũng thể hiện rõ nét và sâu sắc. Cuộc sống vật chất và tinh thần, dấu ấn văn hóa thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của người Hàn hàm chứa đậm đặc trong tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa. Việc liên hệ với tục ngữ tiếng Việt có yếu tố chỉ ngựa cũng cho thấy có không ít những nét tương đồng trong ngôn ngữ và văn hóa của hai dân tộc.

Từ khóa: tục ngữ tiếng Hàn, con ngựa, giá trị biểu trưng.

_____
1
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số QG.18.21. Bài viết được hoàn thiện trên cơ sở tham luận tại Hội thảo Quốc gia Nghiên cứu và giảng dạy ngoại ngữ, ngôn ngữ và quốc tế học tại Việt Nam, tháng 4/2017, Trường Đại học Ngoại ngữ – ĐHQGHN.

x
x x

Mở đầu

     Tục ngữ là đơn vị ngôn ngữ có phương thức biểu hiện giản dị, ẩn dụ và súc tích chứa đựng những chân lý về kinh nghiệm, trí tuệ mang mục đích giáo huấn của một dân tộc. Kết quả khảo sát cho thấy, ở Hàn Quốc, có khá nhiều công trình tiếng Hàn nghiên cứu về tục ngữ động vật nói chung, tiêu biểu như: tác giả Jang Jae Hwan (2009) tiến hành so sánh tục ngữ động vật trong tiếng Hàn, tiếng Nhật (trọng tâm là tục ngữ có yếu tố chỉ ngựa và chó). Tác giả Kim Myung Hwa (2011) nghiên cứu so sánh tục ngữ động vật 12 con giáp trong tiếng Hàn và tiếng Trung… Các công trình nghiên cứu đối chiếu về tục ngữ có yếu tố chỉ ngựa tiêu biểu có: tác giả Ho Nyung Nyung (2011) thực hiện nghiên cứu so sánh tục ngữ trong tiếng Hàn và tiếng Trung có yếu tố chỉ ngựa. Tác giả Byambachereng Battolga (2012) nghiên cứu so sánh tục ngữ Hàn Quốc và Mông cổ, tập trung vào tục ngữ yếu tố chỉ ngựa… Tại Việt Nam, gần đây có các nghiên cứu đối chiếu tục ngữ tiếng Hàn và tiếng Việt của Trần Văn Tiếng (2006); Nguyễn Thùy Dương (2013), Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2013)… Các công trình nghiên cứu đối chiếu, so sánh hay liên hệ giữa tục ngữ động vật trong tiếng Hàn và tiếng Việt gần đây có: Lê Thị Thương (2009), Lê Thị Hương (2015), Hoàng Thị Yến và Nguyễn Thùy Dương (2016), Hoàng Thị Yến (2017)… Tuy nhiên, nghiên cứu một cách toàn diện về tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa trong mối liên hệ với tiếng Việt còn thiếu vắng. Hi vọng, bài viết sẽ góp phần lấp bớt khoảng trống này.

     Trong văn hóa phương Đông, đặc biệt là các nước Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và Việt Nam, ngựa (ngọ) là một trong 12 con giáp. Chúng tôi thu thập được 361 đơn vị tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa xuất hiện trong công trình Từ điển tục ngữ động vật của tác giả Song Jae Seun (1997). Bài viết sử dụng phương pháp miêu tả nhằm làm rõ các đặc điểm ngữ nghĩa của các đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa. Các thao tác khảo sát; dịch và phân tích thành tố nghĩa, thống kê, phân loại… cũng được áp dụng nhằm giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu sau: 1) Khắc họa hình ảnh con ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn; 2) Phân tích giá trị biểu trưng của các đơn vị tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa; 3) Phân tích cuộc sống của người dân Hàn thể hiện qua tục ngữ. Chúng tôi cũng thực hiện thao tác liên hệ với tiếng Việt nhằm cố gắng phác thảo vài nét so sánh về văn hóa của hai dân tộc Hàn – Việt. Nguồn ngữ liệu tiếng Việt được lấy từ các công trình liên quan, tiêu biểu là Nguyễn Văn Nở (2008), Vũ Ngọc Phan (2008)…

1. Hình ảnh ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn

     Trong công trình của Song Jae Seun (1997), số lượng các đơn vị tục ngữ có yếu tố chỉ con ngựa là 361 đơn vị, đứng thứ tư sau tục ngữ chỉ con chó (986 đơn vị), bò (573 đơn vị), hổ (443 đơn vị). Điều này cho thấy, ngựa cũng là loài động vật gần gũi và có ảnh hưởng lớn đến đời sống vật chất và tinh thần của người Hàn. Tác giả Song Jae Seun (1997: 85-133) phân chia tục ngữ chỉ con ngựa thành các nhóm nhỏ như dưới đây:

Yếu tố
ngựa
망아지
ngựa con
늙은 말
ngựa già
천리마
thiên lí mã
용마
long mã
사나운 말
ngựa dữ
여윈 말
ngựa gầy
Tần số2881514161198

     Trong tục ngữ chỉ con ngựa, ngoài từ – mal (ngựa) còn có các yếu tố khác chỉ ngựa, ví dụ như: 준마 駿馬tuấn mã, 호마 胡馬 Hồ mã, ngựa nước Hồ… Ngoài ra, chúng ta thấy còn có 망아지ngựa con, 늙은 말 ngựa già, 사나운 말 ngựa dữ, 여윈 말 ngựa gầy ốm, 천리마thiên lí mã và 용마 long mã. Hình ảnh ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn bộc lộ các đặc điểm về sinh lí và tập quán ăn uống… khá đa dạng khi xét theo các tiểu loại như sau:

     1.1. Hình ảnh ngựa nói chung

    Qua khảo sát, trong tục ngữ tiếng Hàn, các loại ngựa xuất hiện khá phong phú. Theo giới tính, ta có: 피마/ 암말 ngựa cái, 수말 ngựa đực… Theo màu sắc, ta có: 흰 말 ngựa trắng, 백마 bạch mã, 가라말/ 검은 말 ngựa đen…

     Căn cứ vào tuổi ngựa, ta có: 갓난 말 ngựa mới sinh, 금승말 ngựa non (dưới 1 tuổi), 하룻망아지 ngựa sơ sinh, 늙은 말/ 노마 ngựa già… Theo quan hệ huyết thống của cá thể ngựa, ta có: 어미말 ngựa mẹ, 말새끼 ngựa con, 생마새끼 ngựa hoang con… Theo mục đích sử dụng, ta có: 역마 ngựa thồ, 파발마 ngựa đưa tin… Dựa vào sự sống chết của ngựa, ta có: 죽은 말 ngựa chết (tồn tại khoảng trống của 살아있는 말ngựa sống); theo môi trường sống, ta có 생마 ngựa hoang (tồn tại khoảng trống của 길들인 말ngựa nuôi, ngựa nhà). Theo giống loài, ta có các loài ngựa: 조랑말 tiểu mã, giống ngựa nhỏ, 호마 Hồ mã, ngựa Hồ, 준마 tuấn mã, 천리마 thiên lí mã, 용마 long mã..; theo quyền sở hữu, ta có: 삯말 ngựa thuê, ngựa trạm …

     Về đặc điểm sinh lí, các bộ phận cơ thể của ngựa có: 말굽 móng ngựa, 꼬리 đuôi, 말고기 thịt ngựa, 말귀 tai ngựa, 말다리/ 말발 chân ngựa, 말 대가리/ 말머리 đầu ngựa, 말등 lưng ngựa, 말뼈 xương ngựa, 말살 thịt ngựa, 말상 mặt ngựa, lông, 말갈기bờm ngựa, 말배bụng ngựa, 말가죽 da ngựa… Về các chất bài tiết của ngựa, ta có: 말똥 phân ngựa, 말이 방귀를 뀌다 ngựa đánh rắm… Theo đặc điểm hình thức của ngựa, ta có: 큰 말 ngựa to, 작은 말 ngựa nhỏ, 애꾸말 ngựa chột mắt, 살찐 말ngựa béo, 마른 말 ngựa gầy, 여윈말 ngựa gầy ốm, 날개 달린 말 ngựa có cánh = 천리마 thiên lí mã, 네 발 가진 말 ngựa có bốn chân, 눈 먼 말 ngựa mù, 저는 말/절뚝발이 말 ngựa què…; 말이 울다 ngựa khóc = ngựa hí…; 말냄새 mùi ngựa…

      Về đặc điểm tập tính, hành động, theo các vật dụng thường dùng được gắn vào mình ngựa, ta có: 고삐를 놓은 말ngựa tháo cương, 고삐없는 말/ 굴레없는 말 ngựa không cương, 굴레 씌운 말ngựa đeo cương, 말채 roi ngựa, 재갈 hàm thiếc… Ngoài ra còn có: 수레 xe ngựa, 길마 gùi hàng, 안장/ 언치yên ngựa… Theo trạng thái, sức khỏe của ngựa, có các biểu hiện như: 굶주린 말 ngựa đói, 상사말 ngựa động đực, 밤 눈 어둔 말 ngựa không nhìn thấy trong bóng tối, 배 앓는 말 ngựa bị đau bụng… Theo sự di chuyển và cách thức di chuyển của ngựa, ta có: 가는 말 ngựa đi, 넘어지는 말 ngựa ngã, 놓아 먹인 말 ngựa thả rông, 달리는 말/ 말이 뛰다 ngựa chạy/ ngựa phi, 빠른 말 ngựa nhanh… Liên quan đến nơi ở của ngựa, ta có: 마방 chuồng ngựa, 말뚝 cọc buộc ngựa, 기둥 cột, 마굿간 chuồng ngựa… Về tập tính ăn uống và thức ăn của ngựa, ta có: 말이 콩을 그리워하다 ngựa nhớ đỗ/ đậu, 목 마른 말 ngựa khát nước, 여물 rơm cỏ khô, …소금을 먹는 말 ngựa ăn muối… Tính cách và giá trị của ngựa thể hiện trong tục ngữ khá phong phú: 게으른 말ngựa lười, 둔한 말 ngựa ngu, 못난 말 ngựa xấu, 못된 말 ngựa dở, 무는 말 ngựa hay cắn, 차는 말 ngựa háu đá, 여윈말 ngựa ốm yếu/bệnh tật, 사라운 말 ngựa dữ, 좋은 말 ngựa tốt, 센 말 ngựa khỏe, 약한 말 ngựa yếu…;말은 바람을 좋아한다 ngựa thích gió, 말은세워서 기른다 đứng nuôi ngựa, 값싼 말 ngựa rẻ…; 말의 힘 sức ngựa…

    1.2. Hình ảnh ngựa con

     Ngựa con 망아지xuất hiện trong tục ngữ giống như những đứa trẻ. Chúng được ngựa mẹ sinh ra: 말 씹으로 빠진 것은 다망아지다 rơi ra từ âm hộ ngựa đều là ngựa con. Lúc thì chúng là những con ngựa con ghẻ lở, ốm yếu 비루먹는 망아지 trong lữ quán tồi tàn, khi lại tung tăng là những chú ngựa được tháo dây cương고삐 풀린 망아지/ 굴레벗는 망아지…, có chú ngựa con côi cút, lang thang 놓아 기른 망아지 hay ngựa hoang con 생마새끼, có chú ngựa con mù 눈 먼 망아지 đi theo tiếng chuông, có chú ngựa con ngơ ngác, lạc mẹ giữa bầy 뗏말에 망아지

     1.3. Hình ảnh ngựa già

     Ngựa già 늙은 말 cũng giống như người cao tuổi, có những hạn chế của tuổi cao sức yếu nhưng lại có cái trải đời, hiểu biết và kinh nghiệm: 늙은 말은 길을 잃지 않는다 ngựa già không lạc đường, 늙은 말은 짐작으로길을 안다ngựa già có thể định hướng tìm đường, 늙은 말의 지혜다trí tuệ của ngựa già… Vốn thích đỗ, ngựa già cũng không chê đỗ 늙은 말은 콩은 마다 않는다, thậm chí có phần hơi tham lam: ngựa già đòi thêm đỗ 늙은 말이 콩 더 달란다. Tuy nhiên, 젊어서잘 뛰던 말도 늙으면 못 뛴다ngựa già không thể chạy như thuở trẻ, 늙으면 용마도삯말보다도 못한다già thì long mã cũng không bằng ngựa trạm cho thuê

     1.4. Hình ảnh ngựa dữ

     Ngựa dữ 사나운 말 cũng như kẻ bất trị, phá phách, tính cách hung dữ. 사나운 말은 물고 찬다 ngựa dữ cắn và đá, 사나운 말이말뚝이 상한다 ngựa dữ làm hỏng cọc buộc. Để trị ngựa dữ, dân tộc Hàn có khá nhiều biện pháp hay, ví như: 사나운 말에 지우는길마는 따로 있다 với ngựa dữ, có gùi thồ hàng riêng; 사나운 말에는 무거운 길마지운다chất hàng nặng cho ngựa dữ, 사나운말은 고삐와 채찍으로 길 들인다 dùng dây cương và roi để trị ngựa dữ, dùng roi vọt để sửa đổi, uốn nắn tật xấn. Con người, nếu không chịu sửa mình, thì khó có thể tự do: 사나운 말재갈 떠날 날 없다 ngựa dữ không có ngày tháo bỏ hàm thiếc… Tuy nhiên, cũng như người Việt coi ngựa chứng là ngựa hay, người Hàn có câu: 사나운 말이 천리 간다 ngựa dữ đi ngàn dặm: Đôi khi, người hung dữ cũng giống như ngựa dữ, là người có sức khỏe tốt, làm việc hăng hái, rất hiệu quả, học cũng có thể làm những việc lớn, phi thường…

     1.5. Hình ảnh thiên lí mã

     Thiên lí mã là ngựa hay, ngựa tốt. 천리마는 날마다 천리를 뛴다Thiên lí mã mỗi ngày có thể đi ngàn dặm. Tuy nhiên, người Hàn quan niệm: Một con ngựa muốn trở thành thiên lí mã, ngoài tư chất bẩm sinh khác thường, cần có những điều kiện như: Phải đến độ tuổi nào đó mới có thể thành tựu được (cần thời gian): 천리마는 나이가 들어서이루어진다 phải có tuổi mới thành thiên lí mã; phải có môi trường đủ rộng lớn mới có thể huấn luyện, trưởng thành được (cần giáo dục tốt): 천리마는 뜰 안에서 길 들일 수없다 không thể thành thiên lí mã trên cánh đồng được: Môi trường của thiên lí mã phải là thảo nguyên bao la, rộng lớn… Thiên lí mã là ngựa hay, chứ không phải ngựa thần, có sức mạnh siêu nhiên, vì thế: 천리마도 단번에열 발자국은 못 뛴다 thiên lí mã không có nghĩa là mỗi lần nhảy là nhảy được 10 bước, 천리마라고 단번에 뛰어 천리를 가는 것은아니다 thiên lí mã không phải là một lần nhảy có thể đi ngàn dặm: Về đại thể, thiên lí mã cũng bình thường như bao con ngựa khác, vì thế, mỗi lần nhảy chỉ có thể nhảy một sải chân… Khi về già, thiên lí mã hay hồi tưởng về thời huy hoàng có thể đi ngàn dặm 천리마는늙었어도 천리 가던 생각만 한다thiên lí mã già cũng chỉ ngủ 늙은 천리마가 잠만잔다. Nếu không gặp được thời vận, thiên tài cũng chỉ là người bình thường chết già nơi xóm vắng, phố thưa. 천리마가 마굿간에서늙는다 thiên lí mã già trong chuồng ngựa. Người Việt quan niệm: người tài nhiều tật. Người Hàn cũng không thiên vị và chỉ ra: 천리마에도 못 된 버릇이 있다 thiên lí mã cũng có tật xấu của nó

     1.6. Hình ảnh long mã

     Long mã là giống ngựa quí nên 말이 천마리면 용마가 하나 있다ngàn con ngựa mới có một long mã, 말도 용마라면 좋아하고소도 대우라면 좋아한다 ngựa thì thích long mã, bò thì thích bò mộng. Cuộc đời mỗi con người, lịch sử mỗi gia tộc hay một đất nước… đều biến đổi thăng trầm theo qui luật: 되는집은 말을 낳아도 용마만 낳는다 nhà phát đạt thì có ngựa đẻ cũng đẻ ra long mã: Nếu đang ở vận tốt thì mọi việc đều diễn ra tốt đẹp. Tục ngữ Hàn nhấn mạnh đến yếu tố cần yếu để sự vật hiện tượng có bước nhảy vọt về chất: 용마도 장수를 만나야 하늘을 난다 long mã phải gặp tướng giỏi mới bay lên trời được, 용마도 주인을 못 만나면 삯말로 늙는다 long mã không gặp chủ thì chết già như ngựa thuê: Với long mã, yếu tố để tạo thành cặp là gặp được người chủ là tướng giỏi, kị sĩ tài ba…, khi đó, long mã mới có thể phát huy sức mạnh, có thể bay lên trời như rồng. Giống như hai mặt của một vấn đề, như âm với dương, người Hàn cho rằng: 장수 나면 용마 난다 nếu có tướng giỏi sẽ có long mã

     1.7. Hình ảnh ngựa gầy

      Ngựa gầy ốm có các đặc điểm riêng, dễ nhận thấy, ví như: đuôi dài: 마른 말 꼬리가 길다/ 여윈 말이 꼬리는 길다 ngựa gầy thì đuôi dài; hay có nhiều ruồi muỗi bám theo: 여윈 말에 파리 덤비듯 한다 như ruồi tấn công ngựa gầy… Ngựa gầy mà lại chất nhiều đồ trông rất đáng thương: 마른 말에 짐 많이싣는다 chất nhiều đồ lên ngựa gầy

     Hình ảnh ngựa trong tục ngữ tiếng Hàn cũng gần gũi như các giai đoạn cuộc đời một con người, có sinh, lão, bệnh, tử; có thời vận thăng trầm, cần bí quyết và hội đủ các điều kiện mới có thể thành công… Với vài nét phác họa hình ảnh của ngựa con, ngựa già, ngựa gầy, ngựa dữ, thiên lí mã hay long mã trong tục ngữ, có thể thấy dân tộc Hàn có cái nhìn đa chiều, khá toàn diện và sâu sắc về cuộc sống của con người.

2. Giá trị giáo huấn – truyền kinh nghiệm và giá trị phê phán, châm biếm của tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ ngựa

      2.1. Giá trị giáo huấn – truyền kinh nghiệm, cảnh báo

     2.1.1. Giá trị giáo huấn – truyền kinh nghiệm

     Về quan điểm giáo dục

     Tục ngữ tiếng Hàn có yếu tố chỉ con ngựa hàm chứa giá trị giáo huấn – truyền kinh nghiệm khá phong phú và sâu sắc. Khi ca ngợi những người tài giỏi khác thường, người Hàn ví với hình ảnh ngựa chạy nhanh lại có thêm đôi cánh có thể bay được: 날개 달린말이다 như ngựa thêm cánh; ca ngợi các anh hùng chinh phục thiên hạ, tạo lập quốc gia bằng hình ảnh đầy khí thế, hào hùng: 말 타고천하를 얻는다 cưỡi ngựa giành thiên hạ; ca ngợi phẩm chất, khí tiết vững vàng của bậc quân tử trong khó khăn bằng hình ảnh 저는말도 길은 바로 간다 ngựa què vẫn đi đúng đường, con người dù có rơi vào hoàn cảnh nào cũng không nhụt chí, kiên trì nỗ lực sẽ thành công: 절뚝발이 말이 천리를 간다 ngựa què vẫn đi ngàn dặm. Dân tộc Hàn coi trọng gia đình, quê hương bản quán: 말은 마방으로가야 한다 ngựa phải về chuồng ngựa, đề cao sự rõ ràng, sòng phẳng trong giao dịch, xử thế: 말이 먹은 물 값도 준다 trả tiền nước ngựa đã uống. Trong thành ngữ, tục ngữ Việt, câu một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ ca ngợi tình đoàn kết, tương thân, tương ái giữa con người với con người; hình ảnh khuyển mã chi tình ca ngợi sự gắn bó, tình nghĩa, trung thành; câu thẳng như ruột ngựa nói về tính cách thẳng thắn, bộc trực của con người

     Giá trị giáo huấn thường truyền tải các bài học làm người, khuyên răn con người hướng tới giá trị chân – thiện – mỹ. Con người cần tự lập, chăm chỉ làm việc kiếm sống bởi lao động giúp loài người tiến hóa, giúp con người lương thiện: 굽 쳐먹는 말이라 hãy là con ngựa biết dùng móng bới đất tìm thức ăn, cho dù làm không tốt nhưng nếu chúng ta kiên trì, nhẫn nại, vẫn có thể hoàn thành công việc, đạt mục đích: 둔한 말도 열흘 가면 천리를간다 ngựa dở đi 10 ngày cũng được ngàn dặm, không nên kén việc tốt hay xấu, việc gì cũng làm: 말 갈 데 소 갈 떼 가리지 않는다 không kén chọn nơi ngựa đi hay bò đi. Tục ngữ Hàn thể hiện quan điểm đánh giá con người không thể chỉ xét bề ngoài: Khi nhận định, đánh giá về đối tượng nào đó, ta cần qua thử thách, thận trọng, bởi vì: 털만 보고는 말좋은 줄 모른다 chỉ nhìn lông không thể biết được ngựa tốt. Nếu chỉ đơn thuần 털 보고말 고르기다 nhìn lông chọn ngựa, có thể sẽ phạm sai lầm. Nếu như người Việt có câu: Đường dài mới hay sức ngựa thì người Hàn cũng vậy: 말은 먼길을 타봐야 힘을 안다 đường xa mới biết sức ngựa, 길이 멀면 말의힘을 알고, 날이 오래면 사람의 마음을안다 đường dài mới biết sức ngựa, ngày dài mới biết lòng người. Khi đánh giá con người, ta cần nhìn qua hành động, chứ không đơn thuần là nghe lời nói hay. Cùng biểu đạt về quan điểm này, tục ngữ Hàn có các đơn vị sau: 말갈기가 외로 질지 바로 질지는 봐야 안다 ngựa cày tốt hay dở phải thử mới biết, 내 말이 좋으니 네 말이 좋으니 해도타봐야 안다 ngựa tôi tốt, ngựa anh tốt phải cưỡi thử mới biết. 여물을 많이 먹은 말은똥을 줄 때 안다 ngựa ăn nhiều cỏ, khi xem phân sẽ biết…

     Thông qua việc đánh giá ngựa, chọn và mua ngựa, nuôi ngựa, tục ngữ Hàn chứa đựng nhiều kinh nghiệm quí giá trong giáo dục, dạy dỗ thế hệ tương lai. Thông thường, chúng ta thường thấy hai tai ngựa dựng lên làm thành hình chữ V, nhưng nếu 말 귀가 위로쫑긋하면 성미가 급하다 tai ngựa dựng đứng là ngựa dữ. Từ việc quan sát đặc điểm ngựa, người Hàn khái quát thành kết luận sau: 말은 마르면 털이 길어지고 사람은가난하면 무식해진다 ngựa gầy thì lông dài, người nghèo thì vô học. Bên cạnh đó, cũng như người Việt coi của rẻ là của ôi, tiền nào của ấy, người Hàn cho rằng đồ rẻ thì chất lượng không ra gì: 값싼 말은 이도 들쳐보지말랬다 ngựa rẻ, răng cũng không nhìn. Khi đi chợ, nếu muốn biết thời giá của mặt hàng nào đó, nên hỏi giá của vật/ hàng hóa gần với nó: 말 값을 알려면 먼저 개값을 물어보랬다 muốn biết giá ngựa, hãy hỏi giá chó. Một số kinh nghiệm khác liên quan đến việc mua bán, giao dịch cũng khá thú vị, ví như: 말 난 장에소도 난다 chợ ngựa tất có bò: Bò và ngựa thường gắn với nhau, nên có cái này, tất có cái kia; 말 많은 데서 말 못 고른다 nhiều ngựa khó chọn: Vì thế, cần hết sức thận trọng mới mua được ngựa hay; kinh nghiệm chọn ngựa của người Hàn: 말을 살 때는 어미말을 보고 사랬다 mua ngựa phải nhìn ngựa mẹ: Nhìn bố mẹ sẽ biết con cái. Người Việt cũng nhấn mạnh yếu tố di truyền trong quan niệm của mình bằng các hình ảnh như: Họ nhà tông không giống lông, giống cánh. giỏ nhà ai quai nhà nấy… Tập tính ăn uống của động vật thể hiện qua câu 물 마다는 말 없고여물 마다는 소 없다 không có ngựa chê nước, không có bò chê cỏ: Cũng như vậy, con người có những điều yêu thích riêng. Khi dạy người cũng như khi rèn ngựa, người Hàn cho rằng, cần tùy đặc điểm của mỗi đối tượng để có biện pháp xử lí thích hợp: 좋은 말은 한 번채찍질하면 그만이다 với ngựa tốt, chỉ cần thúc một lần là đủ, với người ngoan/ thông minh, nói một lần là nghe/ là làm tốt. Thông thường, người ít học không thể làm việc độc lập, tự mình tìm tòi khám phá nhưng có thể dễ dàng bắt chước người khác: 눈 먼 말이 워낭소리 듣고 따라간다 ngựa mù đi theo tiếng chuông, cái khó khăn của việc dùng người mà không có điều kiện hay phương tiện khống chế được coi là 굴레 없는 말 몰기다 khó như điều khiển ngựa mà không có dây cươngVới những đối tượng đặc biệt, con người ra cần có cách xử trí đặc biệt, phải biết lựa tính cách để giao việc thì mới có hiệu quả: 말은끌어야 잘 가고, 소는 몰아야 잘 간다 ngựa phải kéo mới đi, bò phải đẩy mới đi. Đôi khi cũng phải dùng biện pháp cứng rắn, mang tính chất cưỡng chế, ví như: 말 약 먹이듯 한다 như cho ngựa uống thuốc…

     Trong giáo dục con người, từ xưa, dân tộc Hàn đã ý thức được vai trò quan trọng của yếu tố xã hội: 금승말 갈기가 외로 갈지 바로갈지 모른다 ngựa non 1 tuổi khi cày ruộng không biết sẽ đi lệch luống hay đi đúng hướng: Điều này không thể biết trước được vì tùy thuộc vào việc di chuyển của ngựa hay hướng gió thổi. Con người lớn lên cũng vậy, trở thành người tốt hay xấu tùy thuộc vào ý thức và bản lĩnh của cá nhân, ảnh hưởng và tác động của xã hội, con người cần môi trường xã hội và giáo dục tốt để phát triển, cũng như ngựa cần môi trường tự nhiên để lớn lên khỏe mạnh: 말새끼는 시골로 보내고 사람 새끼는서울로 보내라 ngựa con gửi về nông thôn, trẻ con gửi lên Seoul. Về việc sử dụng bạo lực trong giáo dục, qua hành động dùng roi thúc ngựa, tục ngữ thể hiện quan niệm của người Hàn khá đa dạng. Bên cạnh ý kiến cho rằng: 가는 말에도 채찍을 치랬다 ngựa đang đi cũng quất roi thúc, 닫는 말에도 채질하랬다 ngựa đang chạy, khi cần cũng cần quất roi thúc: Ngựa là con vật, phải dùng roi vọt để dạy bảo, rèn tập. Tuy nhiên, việc làm này đôi khi lại phản tác dụng: 가는 말에 채질하면똥만 싼다 ngựa đang đi quất roi thúc thì chỉ có vãi cứt. Khi ngựa đói, chúng sẽ không sợ roi: 굶주린 말이 채질을 두러워할까? ngựa đói biết sợ roi sao? Hơn nữa, năng lực/ khả năng mỗi cá thể là có hạn, không thể đòi hỏi quá đáng: 닫는 말 채질한다고 경상도를당일 갈까? thúc ngựa đang phi hết sức liệu quất roi có đến được Gyeongsangdo trong ngày không? Khi giáo dục con người hay lãnh đạo một tập thể, ta cần có một sự linh hoạt, tùy cơ ứng biến cho phù hợp để đạt hiệu quả cao…

     Quan điểm về ý thức trách nhiệm của người Hàn cũng được thể hiện một phần trong tục ngữ chỉ ngựa. Con người sống, cần có cách đối nhân xử thế hợp tình, hợp lí, có trách nhiệm: 말은 빌려도 꼴 값은 말 빌린사람이 낸다 mượn ngựa thì người mượn trả giá mượn, người mượn cần biết điều, trả cho người chủ ngựa chi phí trong thời gian mượn, ai làm sai thì tự chịu trách nhiệm, phải tìm cách khắc phục hậu quả: 말 잃은 놈은 말찾고, 소 잃은 놈은 소 찾는다 người mất ngựa thì tìm ngựa, người mất bò thì tìm bò. Trong cuộc sống, mỗi người đều có những nhu cầu khác nhau, cần biết ứng xử phù hợp, tránh có những hành động không phù hợp với hoàn cảnh, thân phận của mình, dễ thất bại và phải chịu sự phê phán, chê cười của người đời, ví như: 말 탄 거지다 người ăn xin cưỡi ngựa

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 138-152

 Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Còn tiếp. Mời Quý độc giả đón xem:
Đặc trưng văn hóa Hàn Quốc qua tục ngữ có yếu tố chỉ con Ngựa (Phần 2)
đang được cập nhật