Dấu ấn đô thị Hà Nội – Huế – Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa

TRACE OF OLD HANOI – HUE – SAIGON
THROUGH INDIGENOUS BEHAVIOR-ARTS

Tác giả bài viết: NGÔ MINH HÙNG
(Trường Đại học Văn Lang)

TÓM TẮT

     Nhiều năm qua, khái niệm di sản văn hóa (kiến trúc) trong thực tế và nghiên cứu học thuật được phổ cập tương đối rộng rãi. Ở nước đang phát triển, khi đề cập đến bảo tồn dấu ấn (trong) đô thị, nhà quản lý đô thị liên tưởng tới công tác trùng tu một công trình văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng (hay) kiến trúc cổ… Tuy nhiên trong thực tế, nhiều công trình đã được bảo tồn khá thành công ở Việt Nam; song hình ảnh, nét đặc trưng của nơi chốn đó dần biến dạng và bị phá vỡ bởi nhiều nguyên nhân. Vì thế, với cách tiếp cận mới mẻ hơn về nghiên cứu mối quan hệ tương tác giữa con người với môi trường di sản (vật thể) cho thấy sự cần thiết chuyển dịch tư duy về nhận diện dấu ấn đô thị trong chính cộng đồng trước quá trình đô thị hóa mạnh mẽ tại đô thị đại diện vùng-miền như đô thị Hà Nội, Huế và thành phố Hồ Chí Minh là rất cần thiết. Tìm hiểu thêm về khu 36 phố phường, phố Gia Hội- Chợ Dinh và Sài Gòn xưa, không những thấy rõ “những dấu ấn nơi chốn” được trải nghiệm thông qua mối tương tác gìn giữ tiềm ẩn mà còn nắm bắt được quá trình biến đổi và giải nghĩa sự hình thành cấu trúc liên quan. Bài viết làm rõ một số nền tảng cốt lõi tạo dựng dấu ấn đô thị bản địa. Đây là cơ sở cho các nhà đô thị tiếp cận, xây dựng chương trình bảo tồn di sản văn hóa tích hợp với phát triển đô thị bền vững.

Từ khóa: bảo tồn di sản, đô thị di sản, nơi chốn, nghệ thuật ứng xử.

ABSTRACT

     Over the years, the concept of cultural heritage (architecture) is widely practiced in reality and academic researches . In developing countries, urban managers have paid more attention on restoring a cultural, historical, religious relic (or) an old architectural building when dealing with trace preservation in the urban context. As a matter of fact, many constructions have been successfully conserved in Vietnam. In parallel, the image and unique characteristics of those places are gradually being distorted and destructed due to various reasons. Moreover, studying affordances between users and physical heritage environment figures out awareness transition of recognizing cities’ trace is really necessary within the community under strong urbanization process in Hanoi, Hue and HCMC respectively. Further understanding of 36 Old Streets quarter, ancient Gia Hoi-Cho Ding and old Saigon, not only clearly indicates “the place’s trace” via practical experience of hidden conservational activities but also grasping such changing process and interpretation of its city structure. The paper aims to clarify such fundamental foundation making a trace of local city. This is the ground for urban managers to be approachable, build conservation program on cultural heritage, which is integrated into sustainable city development accordingly.

Keywords: city heritage, cultural heritage preservation, heritage city, place.

x
x x

1. Bối cảnh chung

     Lịch sử hình thành và phát triển đất nước Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm trên đặc điểm địa hình, khí hậu phía Bắc, miền Trung và phía Nam tương đối rõ rệt. Từ thời phong kiến, trước khi nằm dưới sự bảo hộ và cai trị của người Pháp, đất nước được phân định thành ba vùng địa giới không gian Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (từ 1861 đến 1945). Tại mỗi vùng, Hà Nội, Huế và Sài Gòn trở thành tâm điểm phát triển của bộ máy hành chính thuộc địa, để rồi hình ảnh đô thị phương Tây dần xuất hiện làm thay đổi nhiều mặt (văn hóa, xã hội, đời sống, kiến trúc, lối ứng xử giữa phương Đông-phương Tây, cũ-mới…) tại các khu vực phát triển.

     Cho đến ngày nay, đô thị Hà nội, Huế và Sài Gòn xưa được thế giới biết đến thông qua những dấu ấn riêng, mà ở đó chúng ta biết đến qua những đặc điểm nghệ thuật, kiến trúc công trình đã tồn tại, được bảo tồn. Tuy nhiên, hình ảnh, nét đặc trưng, nghệ thuật tổ chức không gian- cấu trúc xung quanh tạo nên dấu ấn đô thị (hay nơi chốn, “place”) dần biến dạng và bị phá vỡ bởi nhiều nguyên nhân (khách quan lẫn chủ quan).

     Với góc nhìn đa chiều tích hợp, dựa trên nền tảng kiến trúc, quy hoạch, bảo tồn di sản văn hóa (vật thể-phi vật thể), môi trường, ứng xử cộng đồng, nghiên cứu chỉ ra thêm những dấu ấn, nét đặc trưng, giá trị vật thể- phi vật thể của khu vực lõi đô thị thành phố Hà nội, Huế và Sài Gòn xưa thông qua “hồn phố cổ” Hà Nội từ không gian bên ngoài xoáy sâu vào nội tại bên trong con phố, cho đến sự “giao thoa” của vùng đất Gia Hội-Chợ Dinh cùng với giá trị tiềm ẩn trong hệ di tích đình, đền, chùa, phủ đệ đa dạng và phong phú. Xuôi về phương Nam, vùng đất của đô thị sông nước- văn hóa Nam Bộ với lịch sử hình thành ghi dấu ấn của những con người cởi mở, kết đoàn vượt qua khó khăn, đa dạng văn hóa tạo nên “hồn cốt Sài Gòn”- một “Hòn Ngọc Viễn Đông”còn mãi đến ngày nay.

2. Nội dung nghiên cứu

     2.1. Thành phố với nét đặc trưng khu phố cổ Hà Nội

     Hà Nội là vùng đất ngàn năm văn hiến với bề dày lịch sử truyền thống và trải qua nhiều thăng trầm cùng chiều dài lịch sử đất nước. Những biến đổi về không gian kiến trúc và đô thị qua các thời kỳ đã phần nào tạo dựng nên cốt cách và lối ứng xử riêng của người Hà Thành cho tới ngày nay. Lõi không gian đô thị ấy, khu phố cổ Hà nội, trở thành nền tảng phát triển và mở rộng sau này- là một thành phố Hà Nội quy mô lớn trên thế giới.

     Cho đến nay, nét văn hóa đặc trưng, “hồn vía” của Hà Nội, vẫn thể hiện đậm sắc nhất tại khu vực Phố cổ- nơi đã tồn tại lâu đời với sức ảnh hưởng lớn, đã minh chứng “mối quan hệ mật thiết” giữa các thành phần đô thị cổ ấy với người sử dụng (văn hóa ứng xử).

• Hồn phố cổ

     Cái “Hồn” phố cổ đối với bất kỳ ai, cõ lẽ là những gì đang diễn ra: một gánh hàng rong, một góc phố liêu xiêu, một ngôi nhà cổ còn xót lại đâu đó quanh ta mà ít nơi còn giữ được. Đó chính là một phần vật chất cơ bản kiến tạo nên “Hồn” phố cổ từ ngàn đời nay mà cha ông ta gìn giữ cho đến ngày nay. Để hiểu tại sao phần vật chất ấy lại gắn bó với con người Hà Nội đến như vậy, mà bất kỳ ai đều không muốn xa rời nó…và nếu phải xa nó đồng nghĩa với những nỗi nhớ da riết- như một sự thiếu hụt không thể bù đắp bởi mỗi phần vật chất đó (những người hàng xóm, con phố, loài cây, những chỗ- nơi và âm thanh ở đó ẩn chứa vị ngọt ngào của các món ăn-mà chỉ có người Hà Nội biết). Từ đâu lại có được điều này? trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, những biến động của xã hội trong một thời gian dài, với mỗi nơi lại gắn với một con ngưòi, một sự kiện cụ thể mà cho đến nay điều đó luôn được ghi lại rõ nét qua từng gốc cây cổ thụ còn xót lại bên các Phố nghề ngày ấy.

     Liền kề là những ngôi nhà lúp xúp một rồi hai tầng với ô cửa ra vào rộng mở ở tầng dưới như chào đón những người khách vào một thế giới bên trong mang đặc trưng của lối sống truyền thống hoà quyện cách ứng xử nho nhã, thanh lịch của người Hà Nội. Thời gian và con người đã tạo nên một đặc điểm khó phai đối với mỗi một người từng sinh ra, lớn lên trong cái khung cảnh ấy. Cho đến nay, cái khung cảnh ấy vẫn phảng phất ở rất và rất nhiều nơi trong khu phô cổ để rồi nó trở thành cái “thần”, cốt lõi và xương sống của Hà Nội hôm nay và muôn đời sau.

     Với mỗi người Hà Nội, “Hồn” phố cổ thật khác. Hãy thử tản bộ đôi bước trên từng con phố và nhìn ngắm những hoạt động- đã tạo nên sự chuyển động của phố cổhàng loạt ký ức hiện về từ những hoạt động văn hoá truyền thống, khuôn mặt nhiều người bạn cùng phố, những trò chơi tinh quái kiểu con nít đã gây không ít phiển toái cho người xung quanh-để rồi cùng hoà vang tiếng cười của một thời đã xa ấy. Thêm vài bước nữa, vấp phải viên gạch cũ, gồ ghề không còn nguyên vẹn, mòn vẹt từng góc trải qua thời gian- lại như thấy những vất vả của người bán hàng xén sớm tối tần tảo quanh con phố- và cái viên gạch ấy đã gắn bó, chung lưng đấu cật với con người ấy không quản mưa-nắng đã đem lại niểm tự hào của người Hà Nội mình khi có những món quà nôit tiếng mà không nơi nào có; cái viên gạch ấy đã cùng họ nuôi dưỡng bao thế hệ trưởng thành cho đến ngày hôm nay. Và chính nó đã chứng kiến biết bao nhiêu biến đổi xung quanh của một thời bom đạn chiến tranh, in dấu chân của những người con đã anh dũng hy sinh để bảo vệ mảnh đất quê hương Hà Nội. Chỉ là một viên gạch nhỏ bé (ít được để ý) đã tự nói lên bao điều khó nói- mà Phố cổ đâu chỉ có thế, hàng ngàn ngôi nhà, góc phố, và các thể vật chất ấy là hàng ngàn những chứng tích của lịch sử cho đến tận hôm nay. Và không biết tự bao giờ nó đã ghi sâu vào tâm hồn của người Hà Nội nói riêng và con người Việt nói chung.

     Từ đặc điểm đã ăn sâu vào người Hà Nội, phố cổ ngày nay (tuy không còn như xưa) đã trở thành một phần không thể thiếu trong mỗi chúng ta như một đô thị cổ ẩn chứa nhiều hình ảnh một thời hào hùng đã qua – với lối sống, hoạt động văn hoá- tín ngưỡng, âm thanh và những sự chuyển mình hướng tới một tương lai tốt đẹp hơn.

• Đặc điểm ứng xử riêng ở Hà Nội phố

     Nghiên cứu về bảo tồn di sản, cụ thể đối với không gian ô phố, con phố bắt đầu bằng chữ “Hàng”, đã giúp chúng ta đi sâu vào “ứng xử của con người đối với nơi chốn qua hiện tượng xã hội” nhằm khám phá ý nghĩa của nơi chốn (mặt vật thể), xem xét khả năng hành động của người sử dụng với các thành phần kiến trúc tạo nên không gian riêng (chuyên) biệt. Quan sát cho thấy hoạt động văn hóa – xã hội phong phú bắt nguồn từ chính những cấu trúc đa dạng (từ bố cục, trật tự sắp xếp, vật liệu và màu sắc…) của không gian đó, cho thấy các hình thức ứng xử xã hội trong môi trường di sản dần điển hình hóa thông qua 2 loại hình không gian: thứ nhất, không gian đô thị hướng ra phía ngoài công trình di sản và phục vụ chung cho công đồng (được xem như: không gian đô thị di sản bên ngoài); kế đến, không gian di sản mà một số hộ gia đình gắn liền và chia sẻ sử dụng cho các mục đích khác nhau theo chiều hướng nội/vào bên trong khuôn viên/ cụm công trình di sản cụ thể (ví như là: không gian đô thị di sản chia sẻ) của các hộ gia đình nhất định, đã và đang tồn tại trong khu phố cổ Hà Nội hiện nay. Cụ thể hơn được nêu như sau:

• Không gian đô thị di sản bên ngoài

o Hình thái ứng xử giao tiếp xã hội

o Hoạt động giao thương

o Hình thái hoạt động giao thương phân tán hướng ngoại

o Hoạt động của chính quyền đô thị đối với di sản vật thể

o Hình thức dừng- đỗ

o Hình thức chiếm dụng/ hoạt động buôn bán tạm thời

o Hình thức di chuyển bộ hành

• Không gian đô thị di sản chia sẻ

o Hình thái ứng xử theo chiều sâu

o Hành vi tích trữ

o Lối sống nông thôn

     Thông qua những hình thái – hình thức – hoạt động, mối quan hệ tương hỗ tiềm năng của người sử dụng thành phần di sản sẽ phản ánh mức độ quan hệ tương quan mật thiết của họ đối với nơi chốn. Quan trọng hơn hết, ở đó – tồn tại những hành vi ứng xử có lợi cho các hoạt động bảo tồn, đặc biệt đối với các thành phần di sản (kiến trúc và đô thị). Bản chất các hành động đó biến chuyển linh hoạt, tương đồng từ nơi này sang nơi khác. Từ những phân tích mối tương tác giữa người sử dụng với các thành phần đô thị cổ trong môi trường đặc trưng đã nêu ra vấn đề cần có sự thay đổi về nhận thức và tư duy đối với (chính quyền) nhà quản lý đô thị nói chung và quy hoạch bảo tồn nói riêng. Trên cơ sở một số điểm chung về truyền thống văn hóa người Việt, phố cổ trong thành phố Huế sẽ cho thấy cách tiếp cận tập trung hơn vào hệ di tích vật thể bên dưới.

     2.2. Thành phố Huế từ góc nhìn Phố cổ Gia Hội- Chợ Dinh

     Gia Hội – Chợ Dinh đã trở thành vùng đất “giao thoa” giai đoạn lịch sử TK18 – 19 sau khi phố cổ Bao Vinh, thương cảng Thanh Hà lụi tàn vào cuối TK17. Cho nên, bảo tồn đô thị cổ này góp phần ghi lại những dấu ấn lịch sử hình thành, phát triển của vùng đất Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế, đồng thời khai thác hiệu quả những giá trị “vật thể – phi vật thể” theo phương pháp khoa học sẽ làm động lực phát triển kinh tế – xã hội và công nghiệp du lịch trong giai đoạn mới của đất nước.

     Thực tế cho thấy, phần lớn các di tích đều đang bị xâm hại và bê tông hoá do các yếu tố khách quan và chủ quan đang đánh mất dần giá trị vốn có tích tụ qua các giai đoạn chuyển mình của vùng Thuận Hóa – Phú Xuân. Trong đó các cấu kiện và các loại vật liệu xây dựng đã tồn tại quá niên hạn, hầu hết trên trăm tuổi nên hư hỏng nhiều và hiện nay mái, kết cấu, mặt tiền, các chi tiết kiến trúc, v.v… dần bị thay thế bằng các loại vật liệu kém chất lượng, rẻ tiền làm giảm thẩm mỹ kiến trúc, giá trị tâm linh, chất lượng và sự vĩnh cửu của số công trình đó. Số lượng di tích hiện có lên tới cả trăm công trình được chia thành bốn đối tượng: (1) Đình – Đền – Chùa; (2) Phủ đệ; (3) Công trình kiến trúc cổ truyền thống; (4) Dinh thự nhà vườn Huế, tập trung chủ yếu trên hai phường Phú Cát và Phú Hiệp. Nguyên nhân phá hoại di tích rất đa dạng, dưới nhiều hình thức và ở mức độ khác nhau theo ba hướng hư hỏng từ: (i) trên xuống dưới; (ii) trong ra ngoài và (iii) hạ tầng kỹ thuật thấp kém.

• Bảo tồn những giá trị “vật thể”

     Từ kinh nghiệm về bảo tồn các di sản thế giới ở Việt Nam và thế giới cùng các tác nhân hủy hoại di tích ở Gia Hội -Chợ Dinh, thì định hướng tu bổ di tích từ top – down (theo mặt đứng công trình) rất thích hợp và đem lại hiệu quả cao bởi khả năng làm tăng tuổi thọ công trình về kết cấu, thành phần cấu tạo và các chi tiết kiến trúc theo nguyên gốc ban đầu.

     Hơn nữa, nguyên tắc cơ bản của xu hướng này luôn được gắn kết với từng đối tượng cụ thể, tương thích với hình thức sở hữu phức tạp và cụ thể là: (i) duy trì tối đa; (ii) khôi phục hợp lý và (iii) tiến hành chỉnh trang một cách cẩn thận, tỉ mỉ nhằm phát huy tối đa yếu tố chân- xác thực của di tích và đem lại những giá trị văn hóa – lịch sử trong không gian cổ kính hòa hợp với không khí thành phố đang phát triển.

• Bảo tồn những giá trị “phi vật thể”

     Là một phần không thể thiếu trong công tác bảo tồn bởi nó đem lại không gian truyền thống bằng việc khôi phục các hoạt động đặc sắc của cộng đồng hoà quyện vào tiến trình phát triển đô thị cổ. Những giá trị ấy được chuyển tải qua các sinh hoạt lễ hội và sản phẩm truyền thống ông cha để lại. Ở đây, các sản phẩm truyền thống (châm nón, mộc, mây tre đan, nghệ thuật ẩm thực) là yếu tố quan trọng duy trì bản sắc dân tộc, đồng thời phát triển kinh tế hộ gia đình (informal sector) và đặc biệt là khả năng truyền bá thông tin, văn hoá, tín ngưỡng khu vực tới các dân tộc muôn phương. Điều lo ngại bắt nguồn từ tiến trình hiện đại hóa đã xóa nhòa nhiều giá trị “phi vật thể” bởi quá trình “lôi kéo – thúc đẩy” diễn ra mạnh mẽ giữa thành thị và nông thôn. Việc khôi phục lại các ngành nghề truyền thống thất truyền thực sự cần thiết và cấp bách. Khác với Huế, một Sài Gòn xưa với nhiều đặc điểm là kết tinh của một quá trình ứng xử lâu dài của cộng đồng với hình thái đô thị được duy trì và phảng phất cho đến ngày nay.

     2.3. Sài Gòn xưa (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay)

     Đô thị Sài Gòn với hơn 320 năm phát triển đã và đang chứa đựng một quỹ di sản kiến trúc đồ sộ và quý giá phản ánh giai đoạn hình thành và phát triển, đặc biệt trong không gian của một đô thị sông nước – văn hóa Nam Bộ độc đáo. Theo dòng lịch sử, Sài Gòn hình thành trên vùng đất hoang sơ được chuyển đổi và cải tạo bởi người Khơ-me, để rồi trở thành vùng đất trù phú trên các khu vực đất cao. Sau đó, người Việt đến mở rộng phạm vi và khai khẩn xuống phía Nam vào cuối TK 16 và đầu TK 17. Từ khi hai trạm thuế quan được lập tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé), nơi đây đã cư tụ thêm nhiều thành phần (nông dân, người giàu- nghèo, tù nhân, quan quân…) người Việt từ miền Trung đến để: (1) sinh sống- làm ăn- buôn bán; (2) tránh những hà khắc phong kiến và; (3) những cuộc tranh giành nội bộ. Nhiều người di cư đến đây đều có điểm chung “thích” đương đầu với thử thách để kiến tạo cuộc sống mới; cũng như, làm giàu trên khu vực được khai khẩn. Khi kết tạo thành nhóm, họ làm việc và giúp đỡ nhau với tinh thần “tứ hải giai huynh đệ” trong mọi hoạt động. Cho nên, họ (được xem như người Sài Gòn gốc) là những con người cởi mở và đoàn kết vượt qua khó khăn.

     Sau khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đặt chân tới vùng đất này năm 1698 và lập ra phủ Gia Định, những giao thoa và tiếp biến văn hóa dưới triều Nguyễn tạo nên một Sài Gòn đặc trưng bản địa. Thêm nữa, cộng đồng duy trì nguyên tắc “bán anh em xa, mua láng giềng gần” (hay) “làm chơi ăn thật” và “cứ làm” để mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhìn chung, những người bản địa luôn năng động, sáng tạo và cởi mở, thực tế và có cách ăn nói khá tự do.

     Từ đó về sau, nhiều thế hệ người Sài Gòn vẫn luôn gìn giữ trong mình tình cảm yêu mến không gian cảnh quan đô thị và công trình kiến trúc Việt – Pháp – Ấn – Trung với thành phần kiến tạo nơi chốn cụ thể cho dù nhiều thứ đã đổi thay. Với Sài Gòn, một số công trình kiến trúc Pháp tiêu biểu như: dinh Norodom xưa (nay là dinh Độc Lập), dinh Xã Tây- Hotel de Ville (này là trụ sở UBND Tp. HCM), tòa án Nhân dân thành phố; dinh Thống đốc Nam Kỳ (nay bảo tàng); bưu điện trung tâm, chùa Giác Lâm, chùa Ông và chợ Lớn v.v… là nơi lưu giữ đầy ắp kỷ niệm trong ký ức họ với nhiều câu chuyện thú vị khó phai. Hơn nữa, nhiều công trình tín ngưỡng (nhà thờ Đức Bà), văn hóa (nhà hát thành phố, Nouveau Theatre), giáo dục (trường Lê Quý Đôn, Chasseloup Laubac; trường Nguyễn Thị Minh Khai) và bệnh viện (Nhi đồng 2, từng là bệnh viện quân đội Pháp) đang nắm giữ một phần hơi thở – “hồn cốt của Sài Gòn”. Thú vị hơn, nhiều chi tiết của Sài Gòn còn lưu tụ tại góc không gian cụ thể. Một vài nơi như thế vẫn thường được nhắc đến một cách nuối tiếc.

o Trung tâm thương mại Eden, góc Đồng Khởi và Lê Lợi – nơi có rạp chiếu phim hiện đại, cửa hàng cà phê Tây và cung cấp thông tin nóng thời cuộc trong thời kỳ Việt Nam cộng hòa. Nay đã mất một cách đáng tiếc!

o Trung tâm thương mại Tax, xây dựng năm 1880 tại ngã tư Nguyễn Huệ và Lê Lợi- từng là nơi bán hàng hóa tiêu dùng có tiếng Sài Thành và tồn tại 134 năm.

o Tòa nhà Crystal palace- nơi chốn dành cho các thế hệ nghệ sỹ, tại góc đường Lê Lợi- Nam Kỳ Khởi Nghĩa- Trương Công Định và Lê Thánh Tôn, đã không còn tồn tại nữa.

o Hàng cây cổ thụ di sản trước nhà hát thành phố và dọc đường Tôn Đức Thắng.

     Tiếp đến, các chợ truyền thống là những hình ảnh thân thuộc với cộng đồng. Ngôi chợ mang dấu ấn quan trọng nhất đó là chợ Bến Thành được xây dựng năm 1914 bởi chính quyền thuộc địa (hay) chợ Lớn xưa (nay là chợ Bình Tây, tên gọi khác: chợ Lớn mới). Ngoài ra, hình ảnh thành phố được “ký ức hóa” qua hệ cây xanh- mặt nước xưa như: kênh Cây Cầm, Chợ Vải, rạch Thị Nghè, Cầu Sấu, bến Nghé (Chinois), Xóm Dầu ở Sài Gòn. Còn ở Chợ Lớn, đó là rạch Chợ Lớn, Lò Gốm và Ông Bưởng; kênh Tàu Hũ, Hàng Bàng v.v..

     Thật tiếc khi nguồn di sản kiến trúc, trong bối cảnh phát triển đô thị mạnh mẽ của Tp. HCM như hiện nay, đã dần bị thay thế. Một trong những khiếm khuyết, qua nghiên cứu, cho thấy đó chính là tìm hiểu và làm rõ ngôn ngữ đô thị và thành phần “không gian, cấu trúc và đối tượng gốc” của Sài Gòn xưa – một mô hình thu nhỏ hoàn hảo về tổ chức đô thị “thượng lưu” và “quân sự phòng thủ” (Ngô Minh Hùng và Logan, 2015) của Paris (Pháp) dưới thời Napoleon đệ tam.

     Tuy nhiên, trước áp lực phát triển của đô thị sau thời kỳ thuộc địa, thống nhất, hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, mà chúng ta đã vô tình phá vỡ cấu trúc vốn có cùng với thành phần đô thị “hàm chứa nhiều ngữ nghĩa” của “Hòn Ngọc Viễn Đông” một thời mà người Pháp đã để lại. Do đó, hình ảnh “Paris của Phương Đông” đã lui dần vào quá khứ và sớm lãng quên nếu Thành phố tiếp tục thiếu đi những kế hoạch bảo tồn khẩn thiết những nguồn di sản còn xót lại.

     Nhìn chung, nét đặc trưng khu phố cổ Hà Nội được bộc bạch thông qua phương pháp nghiên cứu khoa học, khai mở các giá trị thẩm thấu trong cộng đồng, dân phố cổ gắn với nơi chốn (công trình, không gian đô thị di sản bên ngoài, chia sẻ và các hình thái riêng khu vực) và hình ảnh đặc trưng của từng con đường, góc phố khu 36 phố phường. Xa hơn tới vùng đất giao thoa Gia Hội-Chợ Dinh (thành phố Huế), hệ di tích trong phạm vi nghiên cứu này đang đòi hỏi những hướng tu bổ di tích (top – down, bottom – up, hỗn hợp) nhằm bảo tồn những giá trị “vật thể – phi vật thể” và phát huy giá trị vốn có của khu vực ngày càng bền vững hơn. Trước quá trình đô thị hóa, đô thị Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh) vẫn nắm giữ hơi thở mang đậm chất, hồn cốt Sài thành với những nơi chốn một thời gắn liền với cộng đồng (trung tâm thương mại Eden, tòa nhà Crystal Palace, thương xá Tax…) và rất cần kế hoạch bảo tồn và phát triển đối với quỹ di sản văn hóa Thành phố giai đoạn CMCN 4.0 và chuyển đổi số.

3. Thay cho lời kết

    Qua nghiên cứu về di sản văn hóa, di sản đô thị và kiến trúc trong và ngoài nước cho thấy sự cần thiết chuyển dịch về tư duy hướng tới đô thị di sản trước quá trình đô thị hóa và toàn cầu hóa mạnh mẽ tại thành phố Hà Nội, Huế và Hồ Chí Minh. Những tương tác qua lại trong khu Phố cổ Hà Nội, nhân tố tiềm năng trong đô thị cổ Gia Hội- Chợ Dinh và bản chất ngữ nghĩa, dấu ấn đô thị “bị lãng quên” của Sài Gòn xưa dần được đúc rút làm tiền đề tạo dựng lại nét đặc trưng của các đô thị. Do đó, đây là cơ sở cho các nhà quy hoạch – quản lý đô thị và khoa học – bảo tồn tiếp cận, xây dựng chương trình bảo tồn di sản văn hóa tích hợp với phát triển đô thị; đồng thời, sớm hòa nhập môi trường quốc tế./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] . Ahmad Y (2006). The scope and definitions of heritage: from tangible to intangible. Heritage studies, Vol. 12, No.3, May 2006.

[2] . CAND (2012). Chậm trễ bảo tồn di sản kiến trúc đô thị bị xâm hại. Cong An Nhan Dan Online, Website: http://www.cand.com.vn/vi-VN/vanhoa/2012/12/187666.cand.

[3] . Ngô Minh Hùng (2014). Bảo tồn môi trường Di sản. NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, ISBN: 978-604-73-2087-5.

[4] . Ngô Minh Hùng và Logan (2015). Re-identifying Ho Chi Minh City’s Heritage Resources In the Context of Vietnam’s Transformation, ICAS9, Adelaide, Australia.

[5] . Ngô Minh Hùng (2006). Comprehensive written examination paper, National University of Singapore. Singapore.

[6] . Nguyễn Bảo (2015). TP. HCM vào top 10 thành phố năng động nhất thế giới. Cổng thông tin điện tử Chính Phủ Thành phố Hồ Chí Minh. Internet:
http://tphcm.chinhphu.vn/tphcm-vaotop-10-thanh-pho-nang-dong-nhat-the-gioi

[7] . Jokilehto J (1999). A Century of Heritage Conservation. In: Journal of Architectural Conservation. No.3, November 1999. United Kingdom.

[8] . Paddi (2015). Vietnam maps online, Website: http://virtual-saigon.net.

[9] . Powell P (2005). Towards an underlying principle of cultural heritage. In: Conservation of Urban Form and Space. Singapore.

[10] . SGTT (2012). Hội thảo di sản kiến trúc đô thị. Saigon Tiep Thi Online, Internet:
http://sgtt.vn/Kien-truc-doi-song/Chi-tiet/174184/Hoi-thao-di-san-kien-truc-do-thi.html.

[11] . TNO (2012). Di sản đô thị TP. HCM đang bị xâm hại, Thanh Nien Online. Website:
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20121214/di-san-do-thi-tp-hcm-dang-bi-xamhai.aspx.

[12] . Trần Lan Anh (2004). Study on Urban conservation and Development Methodology for the City of Hanoi, University of Tokyo. Japan.

[13] . Tú Anh (2016), Dân số Hà Nội đạt 7.558.965 người, Đại biểu nhân dân TP Hà Nội Online. Website: http://www.dbndhanoi.gov.vn.

Nguồn: Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học,
Đại học Huế, tập 18, số 1 (2021)

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Dấu ấn đô thị Hà Nội – Huế – Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa
(Tác giả: Ngô Minh Hùng)