Để trở thành THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Trung tâm nghiên cứu Việt Nam của Việt Nam và Quốc tế – Phần 1
Nghiên cứu Việt Nam học ở Việt Nam
Việt Nam học (Vietnamology) hay Nghiên cứu Việt Nam (Vietnamese Studies) cũng như Đông phương học (Orientalism) hay Nghiên cứu Đông phương (Oriental Studies) với tư cách là các ngành khoa học thực sự chỉ được hình thành trong quá trình ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản ở phương Tây, trong bối cảnh chủ nghĩa tư bản phương Tây đang tìm cách mở rộng bành trướng và chiếm đoạt các nước phương Đông.
Nói một cách chính xác, nền Đông phương học của phương Tây bắt đầu hình thành và phát triển tính từ các thế kỷ XVI – XVII gắn liền với nhu cầu truyền giáo và đẩy mạnh các hoạt động thương mại trong thời đại “thương mại Biển Đông”. Việt Nam học của phương Tây, vì thế cũng manh nha từ lúc này và bước sang thế kỷ XVII đã xuất hiện nhiều tác giả và tác phẩm đáng được lưu ý như Alexandre de Rhodes với Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (1621-1648), Hành trình và truyền giáo (1653), Cristophoro Borri với Xứ Đàng Trong năm 1621, Jean Baptiste Tavernier với Tập du ký mới và kỳ thú về vương quốc Đàng Ngoài (đầu thế kỷ XVII), William Dampier với Một chuyến du hành sang Đàng Ngoài năm 1688, Samuel Baron với Mô tả vương quốc Đàng Ngoài...
Tuy nhiên phải đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình xâm lược và thống trị của thực dân Pháp thì Việt Nam học của phương Tây (mà thực chất và chủ yếu là Việt Nam học của Pháp) mới thực sự trở thành một ngành học với các học giả nổi tiếng như Henry Maspéro, Léonard Aurousseau, Paul Pelliot, Léopold Cadière, Emile Gaspardonne, André Georges Haudricourt, Madeleine Colani, Pierre Gourou… Năm 1900, Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp thành lập có trụ sở và thư viện chính đặt tại Hà Nội đã trở thành trung tâm quan trọng nhất tập hợp các nhà Việt Nam học Pháp và phương Tây.
Điều có thể dễ dàng nhận thấy là hầu hết các nhà Việt Nam học của Pháp và phương Tây đều đã từng là các chuyên gia nghiên cứu về Trung Quốc hay Ấn Độ rồi mới chuyển sang nghiên cứu Việt Nam, nên họ thường đặt Việt Nam trong mối quan hệ đối sánh với Trung Hoa hay Ấn Độ và quan trọng hơn là họ chưa thoát ra khỏi quan niệm lấy châu Âu làm trung tâm. Việt Nam học thời kỳ Pháp thuộc được phát triển trong sự phát triển chung của nền Đông phương học phương Tây, chịu ảnh hưởng sâu sắc của hai nền học thuật lớn là Trung Quốc học và Ấn Độ học, tuy có đóng góp vào việc nâng cao nhận thức về đất nước, con người Việt Nam, nhưng thực chất nó chính là công cụ của thực dân Pháp cho việc hoạch định các chính sách đô hộ và khai thác thuộc địa.
Đã từ lâu trong lịch sử Việt Nam từng xuất hiện những nhà bác học lỗi lạc như Lê Văn Hưu (thế kỷ XIII), Nguyễn Trãi (đầu thế kỷ XV), Ngô Sĩ Liên (cuối thế kỷ XV), Lê Quý Đôn (cuối thế kỷ XVIII), Phan Huy Chú (đầu thế kỷ XIX)… với những tác phẩm bất hủ về đất nước, con người Việt Nam. Hoàn toàn có thể tôn phong các vị là các Tổ sư có công đắp móng, xây nền cho Việt Nam học Việt Nam. Đến đầu thế kỷ XX, trên cơ sở nền học thuật truyền thống, nhiều trí thức Việt Nam tiếp thu được tri thức và phương pháp khoa học tiên tiến từ phương Tây đã nâng tầm các công trình khoa học của mình. Rồi ngay sau đó, hầu hết các nhà trí thức đó bằng nhiều con đường khác nhau đã đến với cách mạng, đến với phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin, và trở thành những chuyên gia đầu ngành của nền khoa học xã hội của nước Việt Nam mới. Họ chính là những người khai sáng ra nền Việt Nam học Việt Nam hiện đại.
Việt Nam học lúc đầu được hiểu theo nghĩa rộng bao gồm tất cả các chuyên ngành khoa học (chủ yếu là khoa học xã hội và nhân văn) nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam như Lịch sử Việt Nam, Văn hoá Việt Nam, Văn học Việt Nam, Nghệ thuật Việt Nam, Ngôn ngữ Việt Nam, Kinh tế Việt Nam, Luật pháp Việt Nam, Dân tộc Việt Nam, Địa lý Việt Nam, Môi trường Việt Nam… Trên tinh thần ấy có thể lấy ngày 10 tháng 10 năm 1945 khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 45 thiết lập Ban Đại học Văn khoa tại Hà Nội (tiền thân của trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội hiện nay) làm mốc đánh dấu sự xuất hiện của Việt Nam học Việt Nam hiện đại. Năm 1953 với sự ra đời Ban Văn Sử Địa và tiếp đó là sự thành lập các Viện nghiên cứu, các khoa khoa học xã hội thuộc các trường Đại học Tổng hợp, Đại học Sư phạm và từ năm 1995 đến nay là các trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu các bước phát triển mới của Việt Nam học Việt Nam theo hướng chuyên ngành.
Phải khẳng định trong thời kỳ đầu mới xây dựng, Việt Nam học không thể không dựa vào các chuyên ngành nghiên cứu về Việt Nam có trước làm cơ sở nền tảng cho quá trình hình thành và phát triển của mình. Sự trưởng thành của mỗi một ngành học cụ thể nghiên cứu về Việt Nam ở cả trong nước và ngoài nước đều có thể xem là một cơ hội cho sự phát triển của Việt Nam học. Việt Nam học ở đâu thì cũng là nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam học Việt Nam hiện đại khác căn bản so với Việt Nam học thời kỳ đầu mới hình thành ở phương Tây là ở chỗ nó nghiên cứu Việt Nam với mục đích và yêu cầu tự thân. Các nhà Việt Nam học của Việt Nam nghiên cứu mình là để tự hiểu mình, để tìm ra cái mạnh, cái yếu của mình nhằm phục vụ nhu cầu xây dựng và phát triển của chính đất nước và con người Việt Nam.
Điều có thể dễ dàng nhận thấy là khoa học càng đi vào chuyên sâu thì càng bộc lộ những khó khăn và hạn chế của nó trong việc nhìn nhận và đánh giá sự vật, hiện tượng với tư cách là một hệ thống tổng thể. Yêu cầu phát triển của khoa học là quá trình chuyên môn hoá, chuyên ngành hoá phải đồng thời với quá trình mở rộng liên kết, thâm nhập vào nhau, hoà quyện lẫn nhau giữa các chuyên ngành khoa học. Phương pháp tiếp cận liên ngành (Inter-disciplinary) nẩy sinh trong bối cảnh như thế và càng ngày càng trở thành xu thế quan trọng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Liên ngành cũng có các mức độ rộng hẹp khác nhau và trình độ nghiên cứu liên ngành tuỳ thuộc vào khả năng sử dụng đồng thời, tổng thể và hiệu quả của nhiều phương pháp đặc thù cho một đối tượng nghiên cứu và đem đến một nhận thức khoa học chung.
Cùng với sự phát triển của phương pháp nghiên cứu liên ngành là phương pháp khu vực học (Area Studies). Khu vực học lấy không gian văn hoá – xã hội bao gồm các lĩnh vực hoạt động của con người và quan hệ tương tác giữa con người và điều kiện tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu. Mục đích của khu vực học là đạt tới những nhận thức tổng hợp về một không gian, tìm ra những đặc điểm của tự nhiên và của đời sống con người trong không gian đó.
Việt Nam học nói như học giả Trần Bạch Đằng trong Hội thảo khoa học Quốc tế về Việt Nam học lần thứ nhất (năm 1998) là một ngành khoa học “nghiên cứu một Việt Nam trong tính tổng thể của nó”, một ngành khoa học “nghiên cứu về một vùng đất, về con người ở vùng đất ấy với tất cả mối quan hệ với thiên nhiên, với lịch sử và xã hội về mọi mặt, làm nổi rõ những đặc điểm, đặc thù của Việt Nam”2. Một ngành khoa học như thế sẽ khó có thể phát triển, thực hiện được đúng mục tiêu và chức năng của nó nếu như vẫn cứ giữ nguyên các phương pháp tiếp cận chuyên ngành truyền thống và không chủ động chuyển dần sang hướng tiếp cận liên ngành và khu vực học. Như thế có thể hình dung Việt Nam học Việt Nam bắt đầu được hình thành từ các khoa học chuyên ngành về Việt Nam, trưởng thành trong môi trường nghiên cứu chuyên ngành, rồi từ thành tựu của các khoa học chuyên ngành hay trên bệ đỡ của các khoa học chuyên ngành mà dần dần hướng tới liên ngành và khu vực học. Nói như thế, cũng cần phải loại trừ các khuynh hướng cực đoan hoặc coi Việt Nam học trùm lên các khoa học hay coi tất cả các chuyên ngành nghiên cứu, tất cả những đề tài, dự án có liên quan đến Việt Nam đều là Việt Nam học. Đã đến lúc chúng ta phải xây dựng Việt Nam học trở thành một ngành khoa học đích thực trong phạm vi của học thuật, có đối tượng và phương pháp nghiên cứu cụ thể, rõ ràng. (theo Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội)3
Nghiên cứu quốc tế về Việt Nam trong lĩnh vực Khoa học Xã hội & Nhân văn
Nghiên cứu đất nước, con người, giá trị và các tính chất hàm chứa của các quốc gia luôn là mối quan tâm lớn của các nhà khoa học ở trên thế giới. Lĩnh vực nghiên cứu ngày có thể gọi chung là lĩnh vực “quốc học”.
Trong các cơ sở dữ liệu quốc tế như ISI1, Scopus2… chỉ cần gõ tìm tên của một nước trong tên bài báo, tóm tắt hoặc từ khóa có thể tìm được ngay tất cả thông tin. Ví dụ như thử tìm kiếm theo từ khóa “Trung Quốc” hoặc “Nghiên cứu Trung Quốc” trong cơ sở dữ liệu Scopus2 có thể tìm được đến hơn 600.000 bài báo, bao gồm các nghiên cứu từ khoa học xã hội, khoa học nhân văn, kinh tế; khoa học tự nhiên, y học; công nghệ và môi trường… Tương tự đối với từ khóa “Thái Lan” cũng tìm được hơn 60.000 bài. Trong cơ sở dữ liệu này, có gần 40.000 bài nghiên cứu về Việt Nam. Như vậy, Việt Nam đã là một đối tượng nghiên cứu được các nhà khoa học trên thế giới rất quan tâm.
Theo số liệu khảo sát thì bức tranh công bố quốc tế đối với các nghiên cứu về Việt Nam trong 30 năm đổi mới không khác bức tranh chung nhiều lắm. Nhưng tính riêng trong khoảng 5 năm trở lại đây tình hình có một vài chuyển biến quan trọng. Mặc dù số lượng công bố quốc tế còn khiêm tốn, nhưng xuất hiện trong top 10 các cơ sở nghiên cứu Việt Nam đã có nhiều hơn các trường đại học của Việt Nam, trong đó Trường Đai học Quốc gia Việt Nam đã vươn lên đứng đầu và Trường Đại học Kinh tế quốc dân xếp thứ 3. Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận xu thể phát triển chung về nghiên cứu “quốc học”, đã vươn lên dẫn đầu và đang cố gắng trở thành “thánh địa” của nghiên cứu Việt Nam học. Chúng ta nghiên cứu Việt Nam để hỗ trợ cho sự phát triển của quốc gia, chứ không chỉ có các đồng nghiệp của ta nghiên cứu để tìm hiểu Việt Nam theo mục đích của họ.
… mời xem tiếp phần 2 …
MỜI XEM:
◊ Để trở thành THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Trung tâm nghiên cứu Việt Nam của Việt Nam và Quốc tế – Phần 2
GHI CHÚ:
1 Viện Thông tin Khoa học (Institute for Scientific Information, viết tắt: ISI) được thành lập bởi Eugene Garfield vào năm 1960, và Thomson Scientific & Healthcare mua lại vào năm 1992, được biết đến với tên Thomson ISI và hiện nay là một phần của Intellectual Property & Science business thuộc Thomson Reuters.
ISI cung cấp các dịch vụ cơ sở dữ liệu thư mục, chỉ mục trích dẫn và phân tích, bao gồm hàng ngàn tạp chí khoa học, lập chỉ mục dựa trên chỉ số trích dẫn khoa học (SCI), cũng như chỉ số trích dẫn khoa học xã hội (SSCI), và Nghệ thuật và Nhân văn Citation Index (AHCI), cơ sở dữ liệu ISI cho phép xác định được bài báo đã được trích dẫn thường xuyên nhất, và những người đã trích dẫn chúng.
ISI cũng xuất bản các báo cáo trích dẫn Tạp chí hàng năm mà danh sách Impact Factor của mỗi tạp chí mà nó theo dõi. Trong cộng đồng khoa học, Impact Factor đóng một vai trò lớn trong việc xác định danh tiếng gắn liền với nghiên cứu được công bố của một nhà khoa học. Danh sách hơn 14.000 tạp chí được duy trì bởi ISI. Danh sách bao gồm hơn 1100 các tạp chí nghệ thuật và nhân văn cũng như các tạp chí khoa học. Danh sách được dựa trên tiêu chí lựa chọn công bố và là một chỉ số quan trọng của chất lượng tạp chí và tác động.
ISI còn xuất bản Science Watch, một bản tin mỗi hai tháng trong đó xác định các bài báo công bố trong hai năm trước đó như là “bài báo tiềm năng” trong mỗi 22 lĩnh vực rộng lớn của khoa học, như: Toán học (bao gồm cả Thống kê), Kỹ thuật, Sinh học, Hóa học, và Vật lý. Chỉ định được dựa trên số lượng trích dẫn và sự gia tăng lớn nhất từ một hai tháng một lần cập nhật tiếp theo. Bài viết về các bài thường bao gồm ý kiến của các tác giả.
ISI cũng xuất bản một danh sách các nhà nghiên cứu được trích dẫn nhiều, một trong những yếu tố bao gồm trong Bảng xếp hạng học thuật của trường Đại học Thế giới được xuất bản bởi trường Jiao Tong Thượng Hải University. (theo Wikipedia)
2 Scopus là một cơ sở dữ liệu thư mục chứa bản tóm tắt và trích dẫn các bài báo khoa học, chứa 57 triệu bản tóm tắt, gần 22.000 danh mục từ hơn 5.000 nhà xuất bản, trong đó 20.000 là tập san đánh giá chuyên ngành trong khoa học, kỹ thuật, y tế, và xã hội (bao gồm cả nghệ thuật và nhân văn). Scopus thuộc sở hữu của Elsevier từ năm 2004 và dành cho thuê bao trực tuyến, có trả phí – scopus.com (theo Wikipedia)
3 Nguyễn Quang Ngọc, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, Đại học Quốc gia Việt Nam, Hà Nội – Nguồn: vietnamnet.vn.
BAN TU THƯ
02 /2020
MỜI XEM:
◊ THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Ý nghĩa
◊ THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Khái niệm
◊ THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Vùng đất thánh
◊ THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Thế giới số hoá vạn vật
◊ THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Tứ giáo đồng trụ
◊ THÁNH ĐỊA VIỆT NAM HỌC – Sống đồng tịch, đồng sàng – Chết đồng quan, đồng quách