Dịch văn học phương Tây ở Sài Gòn – Gia Định trong buổi bình minh của văn học quốc ngữ (Phần 2)

ĐOÀN LÊ GIANG *
PHẠM THỊ TỐ THY **
(PGS.TS. – Trường Đại học KHXH&NV – ĐHQG TP. Hồ Chí Minh.
** ThS – Trường Đại học Trà Vinh)

3. Một vài đặc điểm văn học dịch phương Tây ở Sài Gòn-Gia Định

     3.1. Tiên phong trong cả nước và Đông Á

     Dịch văn học ở Nam Bộ là bộ phận tiên phong của văn học quốc ngữ và của văn học dịch cả nước. Từ đầu thập niên 1880 Truyện ngụ ngôn của La Fontaine (với nhan đề Truyện Phan sa diễn ra quốc ngữ) do Trương Minh Ký dịch đăng ở Gia Định báo có thể là cái mốc khởi đầu cho văn học dịch phương Tây ở Việt Nam. Vào thời điểm ấy ở Bắc Bộ vẫn chưa biết đến báo chí, càng chưa biết đến văn học phương Tây. Văn học dịch ở Bắc Bộ sẽ diễn ra gần 30 năm sau với Truyện ngụ ngôn của La Fontaine do Nguyễn Văn Vĩnh dịch một phần trên Đại Nam đăng cổ tùng báo năm 1907, dịch đầy đủ trên Đông Dương tạp chí từ 1913 đến 1915.

     Nếu so với các nước Đông Á như Nhật, Trung Quốc, Hàn Quốc thì việc dịch văn học phương Tây ở Nam Bộ Việt Nam cũng vào loại sớm.

     Ở Nhật Bản, năm 1877 Hattori Toku dịch  Dân ước luận của Rousseaux; 1878 Kawajima Chùnosuke dịch Tám mươi ngày vòng quanh thế giới của Jules Verne; 1883 Nakae Chômin dịch và giải thích Dân ước dịch giải của Rousseaux; 1896 xuất hiện bản dịch Cha và con của nhà văn Nga Ivan Turgenev…

     Ở Trung Quốc, năm 1898 bản dịch Trà hoa nữ của nhà văn Pháp A. Dumas (con) được nhiều người coi là sự kiện mở đầu cho việc dịch văn học phương Tây ở Trung Quốc. Sau đó năm 1902 xuất hiện bản dịch Những cuộc phiêu lưu của Robinson của nhà văn Anh D. Defoe.

     Hàn Quốc đến đầu thế kỷ XX mới bắt đầu xuất hiện những bản dịch đầu tiên tiểu thuyết phương Tây(2).

     Như vậy ở Nam Bộ Việt Nam, năm 1881 Trương Minh Ký đã dịch văn học Pháp, 1886 một dịch giả nào đó đã dịch Robinson trên Gia Định báo, 1889 Trương Vĩnh Ký đã dịch Truyện ngụ ngôn Esope, thì việc dịch văn học ở Việt Nam chỉ sau Nhật Bản vài năm, nhưng trước khá xa Trung Quốc và Hàn Quốc.

     3.2. Về nội dung và thị hiếu

     Dịch văn học phương Tây ở Nam Bộ chủ yếu là dịch văn học Pháp, các nền văn học khác được dịch rất ít, mặc dù văn học Anh hay các nước Tây Âu khác cũng rất có giá trị, văn học Nga thế kỷ XIX đạt đến trình độ bậc thầy. Văn học Anh được dịch truyện Robinson của Defoekịch của Shakespeare (Nguyễn Háo Vĩnh dịch đăng trên Nam phong và in ở nhà in Xưa Nay của chính dịch giả). Văn học Nga chỉ được dịch một vài tác phẩm không tiêu biểu lắm (Lê Hoàng Mưu dịch trên Nông cổ mín đàm), hay một  danh tác của Dostoievsky (Hồ Biểu Chánh dịch tiểu thuyết Thằng ngốc). Trong khi đó ở Nhật Bản, văn học Anh, Nga rất được yêu thích; còn ở Trung Quốc thì văn học Anh, Đức – bên cạnh văn học Pháp.

     Về quan điểm dịch thuật, dịch văn học ở Nam Bộ khởi đi từ dịch để học chữ quốc ngữ, đến chỗ dịch để mô phỏng, rồi đến dịch để thưởng lãm và dịch để khai minh.

     Trương Vĩnh Ký dịch ngụ ngôn Esope trong Thông loại khóa trình, thì chỉ cần đọc tên tạp chí đã thấy mục đích học tập của tờ học báo này rồi: Giáo trình học tập theo từng loại thông thường. Mục đích ấy được nói rất rõ trong lời mở đầu tạp chí: “Coi sách dạy lắm nó cũng nhàm, nên phải có cái chi vui pha vào một hai khi, nó mới thú”.

     Trong Chuyện giải buồn, Huỳnh Tịnh Của ghi rõ ngay mục đích ở trang bìa: “Để giúp trong các trường học cùng những người học tiếng Annam” (bản in Quản hạt, 1886).

     Sang đến đầu thế kỷ XX, các nhà văn dịch để mô phỏng mà từ đó sáng tác ra tiểu thuyết của mình. Đó là trường hợp Trần Chánh Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Hồ Biểu Chánh, Trương Duy Toản, Nguyễn Chánh Sắt, Biến Ngũ Nhy… Cùng với mục đích mô phỏng và sau giai đoạn mô phỏng là dịch để giới thiệu cái hay của nền văn học các nước để thưởng lãm. Ta có thể đọc được quan niệm này trong lời nói đầu do Trần Chánh Chiếu viết trong tác phẩm dịch Tiền căn báo hậu:

     “Đọc các truyện tiểu thuyết Lang-sa thấy được truyện “Tiền căn báo hậu” này rất thú vị vô cùng. Nên ta chịu khó dịch ra cho bạn đồng bang nhàn lãm (…).

     Vậy có thơ rằng:

Nghĩ ngán đời sao những bất bằng,

Thù sâu thề quyết trả phăng phăng.

Nước còn chau mặt cùng Đăng-Lạc (Danglars)

Đá vẫn câm gan với Phec-Năng (Fernand)

Một túi càn khôn thay xác quỷ,

Ngàn trùng ba lãng hiện hình trăng.

Nghiêng mình đứng giữa hòn vô chủ,

Hỡi lũ quyền gian có biết chăng?

                                       (bản in nhà in Nguyễn Văn Của, 1914)

     Bên cạnh đó có bộ phận văn học dịch để khai minh, để làm cách mạng. Đó là trường hợp Phan Thị Bạch Vân, Nguyễn An Ninh, Nam Kiều Trần Huy Liệu. Tư tưởng khai sáng ít nhiều đã được nói đến trong trường Đông Kinh Nghĩa Thục và phong trào Duy tân, nhưng dịch, giới thiệu một cách nghiêm túc, cho quốc dân đồng bào xem thì phải đến các dịch giả này.

     Về các trào lưu văn học, quan sát việc dịch văn học ở Nam Bộ, người ta có cảm giác như nó diễn lại tiến trình lịch sử văn học Pháp: Bắt đầu từ việc dịch các tác phẩm có tính tôn giáo, đạo đức (Phú bần truyện, Gia hun ca lão Vincent do Trương Minh Ký dịch) – sau đó là các truyện ngụ ngôn, phiêu lưu, các truyện tình cảm (Truyện ngụ ngôn La Fontaine, Télémaque, Ronbinson, Không gia đình…) – sau đó mới là tiểu thuyết lãng mạn (Những người khốn khổ), hiện thực và tự nhiên chủ nghĩa (Thằng ngốc).

     Về thị hiếu văn học dịch, ở Nam Bộ văn học phiêu lưu, hành động, kết thúc có hậu có vẻ được yêu thích. Điều ấy thể hiện ở nhiều bản dịch từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX: Télémaque, Le comte de Monté Cristo (Bá tước Monté Cristo), Sans Famille (Không gia đình), En Famille (Trong gia đình), hay các truyện trinh thám do Biến Ngũ Nhy, Nguyễn Cánh Sắt dịch, phóng tác…Các tiểu thuyết dã sử đề cao lòng trung nghĩa cũng rất được yêu thích, trong đó tác phẩm được yêu thích nhất là bộ Ba người ngự lâm pháo thủ (phỏng dịch Les trois mousquetaires của A.Dumas (cha)). Sở dĩ như vậy vì trong văn học Nam Bộ từ trước đã có truyền thống văn học bình dân và truyền thống đề cao lòng trung nghĩa (Lục Vân Tiên và các truyện Nôm khác).

     Trong văn học dịch ở Nam Bộ, các tác phẩm văn học yêu nước và cách mạng được dịch khá nhiều và tương đối tự do. Tiêu biểu là sách của 3 dịch giả: Phan Thị Bạch Vân với tủ sách Nữ lưu thơ quán Gò Công, Nguyễn An Ninh với tờ La Cloche Fêlée (Chuông rè) và Nam Kiều Trần Huy Liệu với tủ sách Cường học thư xã. Được như vậy vì Nam Kỳ là xứ trực trị nên được hưởng quy chế tự do hơn Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

     3.3. Về hình thức dịch

     Trong giai đoạn đầu tiên của việc dịch thuật, hình thức thể loại còn bị chi phối bởi thị hiếu trung đại: thích thơ ca. Vì vậy Aventures de Télémaque của Fénelon cũng được Trương Minh Ký dịch ra thơ lục bát. Tác phẩm mở đầu thế này:

Thanh nhàn coi truyện Phansa,

Suy đi xét lại ngâm nga nên lời.

Từ khi Ulysse (U-lịch) đi rồi,

Nàng tiên Calypso (Ca-lýp-so) nguôi đặng nào.

Trong khi sát ruột tợ bào,

Trường sanh bất tử xiết bao nỗi phiền.

Vẳng nghe ngâm ngợi cung tiên,

Các nàng hầu hạ dám lên tiếng gì.

Một mình thơ thẩn ra đi,

Dạo xem hoa cỏ xanh rì cù lao.

Nàng càng ủ liễu phai đào,

Nhớ chàng Ulysse ra vào đâu đây.

                           (Chuyện Télémaque gặp tình cờ)

     Rồi Riche et Pauvre cũng được “diễn ca” thành thơ lục bát Phú bần truyện diễn ca:

    Việc đời nhơn lúc thảnh thơi,

Phangsa ngoại truyện diễn lời quốc âm.

Trời kia cao, biển nọ thâm,

Để ai độ lượng khỏi làm vậy vay.

Điều nghi rủi, chẳng ngờ may,

Cho hay muôn sự ở tay thợ trời.

Có người phú quý trên đời,

Wildstrom (Huình–Trôm) viên ngoại ở nơi Tây thành.

Chồng nhơn đức, vợ hiền lành,

Nơi xa đẹp dạ, chung quanh bằng lòng.

                                                                              (Phú bần truyện)

     Ý thức về dịch văn học của Trương Minh Ký cũng như các dịch giả khác, rất khác quan niệm dịch văn học hiện nay. Ngày nay cho Tín, Đạt, Nhã – 3 từ khóa do Nghiêm Phục đề xướng là 3 tiêu chuẩn vàng của việc dịch văn học. Nếu nhìn như thế thì trong cái gọi là dịch văn học ngày trước có nhiều tác phẩm là Chuyển thể (2 tác phẩm nói trên của Trương Minh Ký), Phóng tác (như trường hợp Hồ Biểu Chánh), các trường hợp còn lại có khi là “Tác dịch”, “Phóng dịch”, “Phỏng dịch” hơn là dịch trực tiếp, nghiêm cẩn – dịch như một nghệ thuật, một khoa học.

     Về việc phiên âm tên trong tác phẩm, các dịch giả Nam Bộ không lựa chọn cách phiên âm Hán hóa (trừ 2 trường hợp trên Tinh thần phụ nữ nói trên) mà lựa chọn dùng nguyên ngữ hay cách phiên âm trực tiếp từ nguyên tác, thậm chí nhiều trường hợp khá khoa học: phiên âm rồi mở ngoặc nguyên ngữ hoặc ngược lại. Ví dụ:

     Trương Vĩnh Ký dùng nguyên ngữ: “Ông Esope là người xứ Phrygia, sanh ra 200 năm sau khi khai sáng thành Rôma”  (Tích ông Esope).

     Trương Minh Ký để nguyên ngữ trước, mở ngoặc cách đọc sau: “Từ khi Ulysse (U-lịch) đi rồi/ Nàng tiên Calypso (Ca-lýp-so) nguôi đặng nào” (Chuyện Télémaque gặp tình cờ).

     Kỳ Lân Các (Trần Chánh Chiếu) thì chọn phiên âm trước mở ngoặc nguyên ngữ sau: “Mạt-xây-thành (Marseille) tấn khẩu. (…) Có một chiếc tàu Pha-ra-ông ba cột ở xứ Xi-miệt (Simyrae) Tri-e (Trieste) và Nap (Naples) mới vào cửa biển. Theo lệ thường thì có một tên hoa tiêu chạy ghe ra đó mà dắt, mà cũng thường lệ khi ấy hễ có tàu vào cửa biển Mạt-xây.” (Tiền căn báo hậu)

     Về chất lượng bản dịch, có thể nói các bản dịch Việt khá hay, ngôn ngữ sáng rõ, sáng tạo, có tính nghệ thuật cao. Đơn cử bài Con ve và con kiến để so sánhĐây là bản dịch của Nguyễn Văn Vĩnh trên Đại Nam đăng cổ tùng báo (1907):

Trên cây có một con Ve

Hát hết mùa hè, mùa lạnh kiết so

Âu là đành phận đem đầu

Chạy sang chị Kiến kêu cầu lân bang

Nhờ bà hàng xóm lòng thương

Cho vay dăm hột thóc lương trợ thì

Khi nào hết lạnh sang hè

Lại xin đem nốt lãi lời phân minh

Nhược bà có bụng nghi tình

Xin thề giời, phật chứng minh việc này

Kiến bà tính ghét mượn vay

Trong nghìn thói độc thói này nhỏ nhen

Lắc đầu rồi lại còn chèn

Lúc trời nắng ráo anh em làm gì?

Ve rằng tôi ngâm phú thi

Đêm ngày nhai nhải, cái gì cũng ngâm

Kiến bà chúa tệ độc tâm

Đáp rằng xưa hát, nhảy đầm nay coi!

     Gần ¼ thế kỷ trước, trên Gia Định báo Trương Minh Ký dịch cũng khá hay:

Con ve, mùa hạ, ngâm nga,

Sang đông, thốn thiếu xót xa trăm phần.

Than van với kiến ở gần:

“Xin giùm ít hột đỡ thân cơ hàn.

Đến mùa bổn lợi lai hoàn,

Lòng đâu há dám tính đàng sai ngoa”

Cho vay đặt nợ gần xa,

Kiến không nghề đấy hỏi ra tức thì:

“Mùa khô khi ấy làm chi? –

Ve rằng: ca xướng nhọc khi đêm ngày. –

Kiến rằng: nghề hát vui thay!

Nào, ra múa thử thì hay bây giờ.”

Đây khuyên tích cốc phòng cơ

Ở đời liệu trước chớ chờ khó khăn

                                   (Gia Định báo số 17thứ bảy 16 Juin 1883)

     Ngôn ngữ dịch của Trương Minh Ký khá lưu loát, trong sáng, ít có yếu tố thừa thãi, đôi chỗ dịch rất sáng tạo.

     Sang thế kỷ XX, hầu như các dịch giả không dịch từ văn xuôi sang thơ nữa, mà dịch ra văn xuôi luôn. Tiền căn báo hậu – Công tước Mông-tê Cà-rit-tô sự tích (của Alexandre Dumas cha) do Trần Chánh Chiếu dịch, một trong những dịch phẩm được yêu thích nhất ở Nam Bộ đầu thế kỷ XX, mở  đầu thế này:

     “Mạt-xây-thành (Marseille) tấn khẩu

     Ngày 24 Février 1815 lính thường xuyên canh trên lầu chuông nhà thờ cho hay rằng: có chiếc tàu Pha-ra-ông ba cột ở xứ Xi-miệt (Simyrae) Tri-e (Trieste) và Nap (Naples) mới vào cửa biển. Theo lệ thường thì có một tên hoa tiêu chạy ghe ra đó mà dắt, mà cũng thường lệ khi ấy hễ có tàu nào vào cửa biển Mạt-xây thì thiên hạ áp lại coi đông đảo, mà nhứt là chiếc Pha-ra-ông, vì là tàu đóng trong bổn xứ, chủ cũng người ở bổn xứ. Song tàu cứ việc chỉ mũi mà vào cửa, xơm tới một cách chậm chạp buồn bã, làm trên bờ ai cũng nghi chắc đây dưới tàu có xảy ra chuyện chi bất tường, chớ chẳng không. Nhiều người thạo việc vượt biển nói tàu không hư hao chi, vì bộ lướt tới vững vàng, buồm lạt cột chằng chi còn y lé. Gần tay lái lại có một vị thiếu niên con mắt đen như mắt quạ,hễ hoa tiêu dạy bát hô cạy thế nào thì va cứ đó mà hô chuyền cho bạn thi hành.”

                                                                               (Nhà in Nguyễn Văn Của, 1914)

     Bản dịch khá hay, ngôn ngữ phong phú, đậm chất đời. Nếu chú thích một vài từ cổ, từ địa phương thì tác phẩm sẽ trở nên dễ dàng thưởng thức với tất cả những người ở địa phương khác.

Kết luận

     Dịch văn học ở Nam Bộ là một bộ phận tiên phong trong văn học cả nước. Bên cạnh việc dịch truyện Tàu (đến hàng trăm bộ) thì việc dịch văn học phương Tây cũng có vai trò hết sức quan trọng. Dịch văn học ở Nam Bộ từ chỗ là để học tiếng, đến chỗ dịch để mô phỏng mà sáng tác, rồi dịch để thưởng lãm và khai minh. Quan sát quá trình dịch thuật, chúng ta có thể biết được thị hiếu thẩm mỹ của độc giả Nam Bộ cũng như sự tiếp biến những ảnh hưởng từ phương Tây. Nhiều tác phẩm dịch khá hay, đến nay vẫn còn nguyên giá trị thưởng lãm. Việc nghiên cứu dịch văn học ở Nam Bộ với những tư liệu gốc, khiến cho chúng ta có thể vẽ ra chính xác hơn, đúng đắn, đầy đủ hơn hơn bức tranh dịch văn học trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc(3).

__________
(1) Theo Huỳnh Tịnh Của: Chuyện giải buồn, Tái bản. Nxb. Thanh niên, H., 2002, tr.5.

(2) Niên biểu quá trình hiện đại hoá văn học Đông Á, trong Văn học cận đại Đông Á từ góc nhìn so sánh (Đoàn Lê Giang chủ biên). Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2011, tr.796.

(3) Xin xem: – Đoàn Lê Giang (Chủ nhiệm): Khảo sát, đánh giá, bảo tồn văn học quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, Đề tài NCKH cấp trọng điểm Đại học Quốc gia, Mã số: B2005-18b-07-TĐ, nghiệm thu 2009.

– Đoàn Lê Giang (Chủ nhiệm): Khảo sát, đánh giá, bảo tồn di sản văn học Nam Bộ 1930-1945, Đề tài NCKH cấp trọng điểm Đại học Quốc gia, Mã số: B2008-08b-01TĐ, nghiệm thu 2012.

– Phạm Thị Tố Nhy: Sự nghiệp sáng tác, nghiên cứu và dịch thuật của Trương Minh Ký, Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam, Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, 2007 (Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Đoàn Lê Giang).

Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu văn họcsố 1/2018, ISSN 1859-2856, tr.56-69

Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com)