Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn

Tác giả bài viết: Phó Giáo sư, Tiến sĩ ĐỖ BANG
(Hội Sử học Thừa Thiên Huế)

     Vào cuối thế kỷ XVI, trên vùng đất Thuận Quảng của Chúa Nguyễn đã manh nha ra đời các đô thị đáp ứng cho nhu cầu lưu trú và buôn bán của thương nhân nhưng đến nay rất khó xác minh trên thực địa vì đã qua hơn 5 thế kỷ thay đổi dâu bể nên chúng tôi xem đó là tiền đề để khảo cứu và giới thiệu các phố cảng Hội An, Thanh Hà, Nước Mặn, Hà Tiên của đất Đàng Trong.

1. Hội An

     Vào năm 1980, khi bắt đầu khảo sát Hội An chúng tôi đã chú ý đến các địa danh “sông Đò”, “bàu Dầu”; với các di vật như mảnh thuyền, cột buồm, neo tàu, tre, gỗ để cừ bờ sông… Chúng tôi xác định bờ sông cũ Hội An từ Cồn Tàu ở xã Cẩm Châu cắt dọc thành phố Hội An theo đường chính diện qua đường Trần Phú hiện nay đến hai phường Cẩm Phô, Thanh Hà cách bờ sông hiện thời chừng 100 – 200 mét. Với chiều dài hơn 4 km đó, ngày xưa là nơi đỗ của các thuyền buôn mà cảng chính là ở Dương thương Hội quán, nay là Trung Hoa Hội quán ở trên con đường Trần Phú1.

     Từ nửa sau thế kỷ XVI, khi nền thương mại phương Tây đang ồ ạt dồn về phương Đông để tìm kiếm thị trường, lệnh “hải cấm” của nhà Minh cũng bị bãi bỏ (1567), chính sách mở cửa của Mạc phủ Nhật Bản được ban hành (1592). Cũng trong thời gian này, chúa Nguyễn Hoàng và trấn thủ dinh Quảng Nam là Nguyễn Phúc Nguyên đã viết nhiều thư kêu gọi thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Hội An, một địa chỉ có thương hiệu hấp dẫn “Faifo” trở thành một trung tâm thương mại hàng đầu của nước ta thu hút thương khách nhiều nước đến buôn bán và lưu trú, đặc biệt là thương nhân Nhật Bản.

     Sự thu nhận người Nhật nhập cư ở Hội An của Chúa Nguyễn trước hết nhằm giải quyết nhu cầu bức thiết cho một số thương nhân Nhật theo Thiên chúa giáo bị Nhật hoàng trục xuất và sau đó đóng cửa không cho họ quay lại chính quốc. Sau khi có chính sách mở cửa (1592), thương nhân Nhật Bản đến Hội An ngày càng đông.

     Đồng thời, thương nhân Trung Quốc thời nhà Minh bỏ lệnh “hải cấm” cũng đến Hội An và có yêu cầu ở lại lâu dài để buôn bán với thương nhân Nhật Bản. Một lý do khách quan khác để Hội An trở thành đô thị quốc tế với sự lưu trú lâu dài của giới thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc là các thương vụ tấp nập diễn ra trên đất Hội An chỉ 6 tháng đầu mỗi năm vào mùa khô. Đến cuối mùa hè các thuyền căng buồm để gió mùa tây – nam đưa về đất bắc; Hội An trở nên hoang vắng. Trước tình hình đó, phủ chúa phải có giải pháp nhằm thỏa mãn yêu cầu cho thương nhân Nhật Bản và Trung Quốc cũng chính lợi ích của chính quyền sở tại là cho phép họ chọn một nơi gần thương cảng Hội An để lập phố buôn bán và cư trú lâu dài. Từ đó ở Hội An đã hình thành hai khu phố tự trị của người Nhật và người Hoa.

     Cơ ngơi của đô thị Hội An vào năm 1618 được Cristoforo Borri mô tả như sau: “Vì cho tiện việc hội chợ, Chúa Nguyễn cho phép người Trung Quốc và Nhật Bản làm nhà cửa theo tỷ lệ người của họ để dựng nên một đô thị. Đô thị này gọi là Faifo và nó khá lớn. Chúng tôi có thể nói có hai thành phố, một của người Trung Quốc và một của người Nhật. Họ sống riêng biệt, đặt quan cai trị riêng và theo phong tục, tập quán của mỗi nước”1.

     Vào thời điểm nói trên ở vùng đất Quảng Nam, Borri cũng cho biết Chúa Nguyễn cũng tiếp nhận nhiều thuyền buôn Bồ Đào Nha và Hà Lan đến buôn bán và dự định cấp cho người Bồ ở vùng cận cảng Đà Nẵng 3-4 dặm đất để lập phố với những tiện nghi và ưu đãi như Chúa Nguyễn đã dành cho người Nhật và người Hoa2.

     Trong hội thảo quốc tế về Hội An năm 1990, Ogura Sadao đã cung cấp bản đồ có ghi vị trí chùa Hà Nam (của người Nhật) vào thế kỷ XVII tại Hội An, được xác định vị trí như sau:

– Phía đông là phố Nhật, nằm ở hạ lưu sông.

– Phía tây là Đường Nhân phố (phố người Hoa), nằm ở thượng lưu sông.

– Phía nam là sông lớn (sông Thu Bồn lúc đó).

– Phía bắc là An Nam phố (tức phố người Việt).

     Đó là diện mạo của đô thị Hội An vào đầu thế kỷ XVII.

     – Phố Nhật: Phố Nhật ở vị trí làng Hoài Phô, một làng cổ lâu đời nên con sông Thu Bồn đoạn chảy qua phố Hội An còn gọi là sông Hoài. Địa danh Faifo cũng bắt nguồn từ tên làng, tên sông đó. Làng Hoài Phô được ghi tên trong sách Ô châu cận lục (1555)3. Vào thế kỷ XVIII, làng đổi tên là Hoa Phô4; về sau đổi thành làng Sơn Phô. Sơn Phô hiện thuộc xã Cẩm Châu, thành phố Hội An.

     Người Nhật đến mua 20 mẫu đất của làng Hoài Phô và An Mỹ để xây dựng phố xá, sinh sống; lập một ngôi chùa lấy tên là Tùng Bổn1. Trong tấm bia Phổ Đà Sơn Linh Trung Phật ở Ngũ Hành Sơn (Đà Nẵng) được khắc ghi vào năm 1640 mà chúng tôi đã khảo sát và công bố năm 1985 cho thấy có 9 lần nhắc đến địa danh dinh Nhật Bổn và một lần nhắc đến địa chỉ dinh Tùng Bổn, nơi người Nhật sinh sống tại Hội An và cúng rất nhiều tiền cho ngôi chùa này2. Đây là thời kỳ cực thịnh của phố Nhật tại Hội An nên người phương Tây gọi Hội An là đô thị Nhật Bản. Vị thị trưởng đầu tiên được công nhận vào năm 1618 là Furamoto Yashiro; có nhiều thị trưởng có quyền hành rất lớn ở Đàng Trong như Simonosera. Có vị thị trưởng đã can thiệp với Chúa Nguyễn ban đặc ân cho Alexandre de Rhodes trong thời kỳ bị cấm đạo Thiên chúa3.

     Theo một bức tranh tô màu còn giữ tại nhà dòng họ Chaya ở Nhật cho thấy phố Nhật dài khoảng 320 mét, gồm hai dãy phố và gần một cái chợ bán đủ các mặt hàng họp thành “đô thị Nhật Bản” chạy dọc theo trục một con đường nằm bên một hải cảng có nhiều tàu thuyền đang cập bến.

     Vào năm 1695, khi Thomas Bowyear, thương gia người Anh đến tại Hội An chỉ còn thấy 5 gia đình người Nhật sinh sống. Cùng thời điểm đó, nhà sư Thích Đại Sán đến Hội An không thấy ghi chép về phố Nhật, người Nhật trong tập bút ký Hải ngoại kỷ sự. Năm 1981, chúng tôi cũng tìm thấy 4 ngôi mộ cổ của người Nhật tại Hội An cũng ghi năm qua đời vào thập niên cuối cùng của thế kỷ XVII.

     Phố Nhật ở Hội An ra đời và thịnh vượng trong nửa đầu thế kỷ XVII và tồn tại đến cuối thế đó4.

     – Phố Khách: Năm 1618, lúc Cristoforo Borri mô tả về phố Nhật và phố Khách tại Hội An thì Hoa thương bắt đầu quy tụ về Hội An. Ngoài bức hoành phi có niên hiệu Thiên Khải – Tân Dậu niên (tức 1621) của một gia đình người Hoa ở trên đường Trần Phú còn giữ, được xem là di vật cổ xưa nhất của phố Khách. Tư liệu còn cho biết ở vào thời thịnh hành của phố Khách, người Hoa đã xây dựng một tổ đình lấy tên là Cẩm Hà cung vào năm 1626, ở ranh giới làng Cẩm Phô và Thanh Hà, nằm về phía tây của thành phố Hội An hiện nay. Điều đó đúng với vị trí phố Đường Nhân mà Ogura Sadao cung cấp thông tin từ ngôi chùa Hà Nam và cũng đúng với ký ức tồn cổ ở Hội An mà tiêu biểu là Châu Phi Cơ, cho rằng: Người Nhật ở đầu đường phía mặt trời mọc của thành phố còn người Trung Hoa lập phố vào phía cuối đường mặt trời lặn5.

     Từ phố Nhật lên phố Khách phải qua một con khe, người Nhật đã xây dựng nên một chiếc cầu gọi là cầu Nhật Bản (Lai Viễn kiều), người Hoa làm chùa trên đó để thờ Bắc Đế nên gọi là chùa Cầu.

     Kết quả khai quật khảo cổ học của các chuyên gia Nhật Bản vào mùa hè năm năm 1998 và 2006 ở phường Cẩm Phô (trường PTCS Nguyễn Duy Hiệu), xung quanh chùa Cầu, tìm thấy nhiều đồ gốm Cảnh Đức (Trung Quốc), gốm Hizen (Nhật Bản) lẫn với đồ gốm, đồ sành Việt Nam có niên đại thế kỷ XVII. Kết quả này cho chúng ta khẳng định về thị trường gốm thương mại quốc tế tại Hội An và dấu tích cư trú sớm của người Nhật và người Hoa chứ chưa đủ cứ liệu để xác định phố Nhật và phố Khách tại Hội An qua tư liệu khảo cổ học1.

Phố Hội An:

     Tấm bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư do Đỗ Bá vẽ (1630 – 1655) đã xuất hiện các tên Hội An phố, Hội An kiều… đã giúp cho chúng ta khẳng định phố Hội An, cầu Hội An (cầu Nhật Bản) ra đời từ nửa đầu thế kỷ XVII.

     An Nam phố tức phố Hội An trong sơ đồ chùa Hà Nam qua các tư liệu cho chúng ta xác định vị trí của làng cổ Hội An mà trung tâm là đình làng Hội An – đền Ông Voi – đường Lê Lợi hiện nay. Đó là khu đô thị của người Việt ra đời trong nửa đầu thế kỷ XVII cùng tồn tại với phố Nhật và phố Khách.

     Sau khi nhà Mãn Thanh đánh bại nhà Minh (1644), lượng Hoa thương di trú ở Hội An rất đông, phố Khách ở Thanh Hà dần bị giải thể. Họ tiến dần về phía đông mua 13,5 mẫu đất của làng Cẩm Phô, Hội An, Cổ Trai để lập phố buôn bán. Lúc đầu họ lập phố từ phía tây cầu Nhật Bản, nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai đến chùa Ông (Quan Công miếu – có ghi niên đại Khánh Đức – Quý Tỵ, tức năm 1653), nay ở trên đường Trần Phú. Các văn khế mua bán nhà đất ở đường Trần Phú có niên đại vào nửa sau thế kỷ XVII đều ghi Lâm sa thổ phố. Và có sự xen cư giữa người Việt và người Hoa trên đất làng Hội An; đó là trường hợp Ngô Vãng Nương mua 3 sào đất ở xứ Hổ Bì của Trịnh Hồng Quang vào năm 1692 giá 60 lạng bạc2. Đường Trần Phú hồi đó đã trở thành khu phố đông đúc của người Hoa với hai dãy phố xuất hiện như Bowyear đã mô tả (1695): “Hải cảng này chỉ có một con đường phố lớn trên bờ sông, hai bên có hai dẫy nhà 100 nóc, toàn là người Trung Hoa ở”3. Cũng vào năm 1695, Thích Đại Sán đến Hội An đã ghi lại: “Thẳng bờ sông một con đường dài 3-4 dặm, gọi là Đại Đường Nhai. Hai bên phố ở liền khít rịt. Chủ phố thảy là người Phúc Kiến vẫn còn ăn mặc theo lối tiền triều”4.

     Vào thế kỷ XVIII, dãy nhà phố hai bên đường Trần Phú hiện nay mới được xây dựng kiên cố như một số văn khế nhà đất thời Cảnh Hưng, Thái Đức, Quang Trung, Cảnh Thịnh mà chúng tôi đã tìm được đều có ghi tường gạch, lợp ngói, bắc giáp đại lộ, nam cận đại giang…

     Phố người Hoa ở Hội An ngày được mở rộng cùng với sự tăng trưởng doanh thương của họ theo thời gian. Vào năm Gia Long 13 (1814), toàn thể đất của làng Minh Hương là 17 mẫu 7 sào 10 thước1.

2. Thanh Hà

     Với vị trí trên bến, dưới thuyền tiện lợi, cư dân ở đây có truyền thống buôn bán nên ở Thanh Hà từ trước thế kỷ XVI đã xuất hiện một chợ làng, nơi hội tụ hàng hoá của các vùng lân cận2. Sự lớn lên của trung tâm thương mại Thanh Hà đồng thời với sự phát triển kinh tế hàng hoá trong nước và tác động của luồng mậu dịch quốc tế, cùng chế độ cát cứ và công cuộc mở đất Đàng Trong thời các chúa Nguyễn. Đón được luồng thương mại thế giới nhất là Hoa thương, Thanh Hà trở thành một thương cảng lớn nhất, cửa ngõ giao thương hàng đầu của thời Kim Long – Phú Xuân thịnh trị vào thế kỷ XVII – XVIII. Thanh Hà là địa chỉ hấp dẫn thương khách nhiều nước Trung Quốc, Nhật Bản của châu á, của các nước phương Tây như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hà Lan, Anh, Pháp…

     Năm 1636, ngay lúc mới chuyển dinh từ Phước Yên vào Kim Long chúa Nguyễn Phúc Lan đã cho phép thành lập phố Thanh Hà. Trong một văn bản còn lưu tại địa phương cho biết: “Chúa Thượng vương sau khi dời phủ về Kim Long bèn cho phép tiền hiền chúng ta kiến thiết khu chợ nơi giáp giới hai xã Thanh Hà và Địa Linh3.

     Lúc mới thành lập, phố Thanh Hà chủ yếu là người Việt cư trú để buôn bán với nước ngoài phần lớn là Hoa thương. Đến giữa thế kỷ XVII, người Hoa di dân được Chúa Nguyễn cho lập phố ở Thanh Hà mà thế hệ đầu tiên có Trần Dưỡng Thuần (1610 – 1688), quê quán phủ Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến4.

     Từ đó đến cuối thế kỷ thứ XVII, nhiều Hoa thương tiếp tục đến Thanh Hà cư trú, nhất là sau năm 1685, nhà Thanh cho phép các thuyền buôn Trung Quốc xuất bến đến các nước láng giềng buôn bán.

     Trong hồ sơ lưu trữ của làng Minh Hương cho biết vào năm Thịnh Đức thứ 6 (1658), chúa Nguyễn Phúc Tần “thi ân cho lập phố tại đất đồn thổ thuộc làng Thanh Hà và Địa Linh là 1 mẫu 2 sào 5 thước 4 tấc”1. Đó chính là khu phố thương mại của Thanh Hà bước vào thời thịnh vượng.

     Vào khoảng giữa thế kỷ XVII, Giáo sĩ Alexandre de Rhodes có lưu trú ở Thanh Hà. Theo ông, đó là một thành phố, tuy không lớn bằng dinh phủ Kim Long mà ông cho là thành phố lớn; ông viết: “Tôi không dám ở thành phố lớn. Tôi thuê nhà tại thành phố nhỏ gần đó sau cơn hoả tai xãy ra lớn nhất ở đây”2.

     Trong thời kỳ thịnh đạt, phố Thanh Hà phần lớn nằm trong tay Hoa thương nên gọi là “Đại Minh khách phố”

     Năm 1685, Hoa thương xây dựng Thiên Hậu cung (còn gọi là chùa Bà) ngay trên điểm cư trú và buôn bán đầu tiên của mình để làm nơi tế tự chung cho Hoa kiều, cũng là mốc giới phía bắc của phố Thanh Hà3. Phố Thanh Hà mở rộng dần về phía nam, thương khách mua đất của làng Địa Linh để lập phố và xây dựng đền thờ Quan Thánh (còn gọi là chùa Ông) ở vị trí tận cùng phía nam của phố để làm đền thờ chung và cũng là mốc giới giữa phố Thanh Hà và làng Địa Linh4. Đây là dấu vết lâu đời của phố Thanh Hà trong thời kỳ phát triển và cũng là mốc giới có ý nghĩa lịch sử để chúng ta xác định trên thực địa của phố Thanh Hà xưa. Chiều dài của phố Thanh Hà gần 1 km (từ chùa Bà ở làng Thanh Hà đến chùa Ông ở làng Địa Linh), chu vi của phố khoảng 2 km, bao gồm cả chợ và khu dân cư, nằm ở vị trí 160 18’ vĩ độ bắc, cách phủ Kim Long ở phía tây – nam 5 km và cách cửa Thuận An 10 km ở phía đông5.

     Phố Thanh Hà phát triển trên cơ sở phồn thịnh của cảng và chợ Thanh Hà cùng tầng lớp cư dân mà chủ yếu là Hoa thương chuyên nghề buôn bán.

     Thanh Hà trong thế kỷ XVII, chỉ hai dãy phố lợp tranh nằm về phía tây con đường làng Minh Thanh hiện nay, hướng chính quay mặt ra bờ sông. Sau khi chiếm được bãi đất bồi, Hoa thương dựng lên một dãy nhà đối diện quay lưng ra bờ sông, lấy con đường của làng Thanh Hà làm đường phố chính. Năm 1700, Hoa thương mới được phép xây phố bằng gạch và lợp ngói để tránh hoả hoạn. Phố bao gồm những cửa hàng, cửa hiệu, các đại lý xuất nhập khẩu và những nhà cho thuê dành cho thương khách ở xa, chủ yếu là thương nhân Trung Quốc mới đến, hoặc thương nhân giữa hai mùa mậu dịch trong thời áp đông (từ tháng 10 cuối năm đến tháng 3 năm sau).

     Vào giữa thế kỷ XVIII, Pierre Poivre đến Huế và khảo sát tình hình buôn bán ở Thanh Hà, có nhận xét: “Vào mùa mưa, các đường phố chật hẹp, lầy lội, chỉ có phố hay khu Trung Hoa có một lối đi rộng và lát gạch. Dọc hai bên đường người ta dựng lên những nhà gạch lợp ngói khá sung túc1.

     Phố Thanh Hà xây dựng theo lối đơn tuyến trên một trục giao thông có sẵn làm đường phố chính. Hai dãy phố đối diện dần dần được hình thành, phía sau là đồng ruộng, trước mặt là bến cảng của sông Hương; một điều kiện chủ yếu cho phố cảng ra đời2.

     Hồi ức về phố Thanh Hà vào đầu thế kỷ XIX, thời kỳ thoái trào của khu thương mại này nhưng nhà phố vẫn giữ được dáng vẽ của thời thịnh vượng, Michel Đức Chaigneau đã mô tả khá chi tiết: “Nhà cửa vừa là cửa hàng, vừa là nhà kho, phòng ngủ cũng chính là để tiếp khách. Rộng hẹp có khác nhau, nhưng cấu trúc nhà phố Thanh Hà thường theo một mẫu thống nhất là hẹp về bề ngang và mở sâu ra đàng sau… Nhà cửa phần lớn lợp ngói, có cái là một tòa nhà, xung quanh có hành lang. Có cái chỉ một gian phòng, đàng sau có sân vườn và nhà bếp. Cách xây cất phòng ốc và trang hoàng bên trong theo một lối giống nhau. Phòng chính khoảng nửa chiều dài và mở một cửa ra vào. Đàng trước chia làm hai gian hàng, đàng sau chia làm hai chái để làm phòng ngủ và kho chứa”3.

3. Nước Mặn

     Ở Đàng Trong, sau hai đô thị cảng Hội An và Thanh Hà là Nước Mặn ra đời rất sớm được ghi trong Hồng Đức bản đồ với tên gọi “Nước Mặn hải môn”, là trung tâm buôn bán xuất nhập khẩu không những cho phủ Quy Nhơn mà cả các dinh, phủ ở phía nam.

     Nước Mặn đ-ợc Alexandre de Rhodes vẽ trên bản đồ vào giữa thế kỷ XVII với tên phiên âm là Nehorman. Tên gọi này xuất phát từ chữ của Cristoforo Borri ghi lại trong tập ký sự của mình vào năm 1618. Borri chỉ đích danh đó là một thành phố (ville). Ông viết: “Vị tổng trấn liền ra lệnh xây dựng cho chúng tôi một cái nhà rất tiện nghi ở thành phố (ville) Nehorman1.

     Tên gọi Nước Mặn không được ghi trong các bộ chính sử Việt Nam thời phong kiến nhưng được ghi trong gia phả nhiều người Hoa sinh sống ở đây.

     Đầu thế kỷ XVII, chúng ta thấy có luồng buôn bán giữa Hội An và Nước Mặn với một số trung tâm thương mại quốc tế được thể hiện trên bản đồ số 24 vẽ vào năm 1608 có ghi hai địa danh được thương nhân nước ngoài thường đến buôn bán là Hải Phố (tức Hội An) và Thị Nại (tức Nước Mặn hồi bấy giờ) nằm trên đường hàng hải đến với Vuconva2.

     P.B.Lafont cũng cho biết, trong các cảng ở Đàng Trong thì Binai (tức Thị Nại) thuyền buôn các nước Phương Tây, Malasia và một số nước khác thường đến buôn bán3.

     Tháng 7 năm 1618, C. Borri đến Nước Mặn, dưới con mắt của vị Giáo sĩ này Nước Mặn đã là một thành phố. Ông viết: “Chúng tôi lại leo lên lưng voi và lên đường với một đoàn tùy tùng đông đảo để đi đến thành phố Nước Mặn”4. Ông cũng cho biết đây là thành phố khá rộng: “Thành phố trải dài 5 dặm và rộng 0,5 dăm”5. Đó là thời kỳ thịnh vượng của phố cảng Nước Mặn.

     Vào giữa thế kỷ XVIII, Pierre Poivre đến Đàng Trong còn đánh giá rất cao về phố cảng Nước Mặn, ông viết: “Tại tỉnh Quy Nhơn có một thương cảng khác gọi là Nước Mặn là một cảng tốt, an toàn được thương nhân lui tới nhiều nhưng kém hơn Faifo, lại không thuận tiện vì quá xa kinh thành mà các thuyền trưởng thì nhất thiết phải đi đến kinh thành nhiều lần và phải đi ròng rả 6 ngày đường”1.

     Nhưng rất tiếc vào thế kỷ sau không thấy sử sách nào còn ghi về phố cảng Nước Mặn. Sách Đại Nam nhất thống chí bản soạn thời Tự Đức không ghi chép về phố Nước Mặn, cũng không có tên trong danh mục 63 chợ lớn nhỏ trong tỉnh Bình Định2.

     Cho đến tháng 4 năm 1986, trong đợt khảo sát về đô thị cổ ở các tỉnh miền Trung, chúng tôi mới phát hiện dấu tích của phố cảng Nước Mặn và thông báo kết quả tại ủy ban Nhân dân tỉnh Nghĩa Bình (Quy Nhơn – 1986) và trong hội nghị thông báo khảo cổ học năm 1991 tại Hà Nội3.

     Từ tấm bia bằng gỗ chúng tôi phát hiện ở đền Quan Thánh lập năm 1837 (đường Bạch Đằng, thành phố Quy Nhơn) có ghi tên một người họ Nguyễn ở phố Nước Mặn cúng tiền để xây dựng ngôi đền này, chúng tôi phải rất khó khăn mới lần tìm đến xã Phước Quang, huyện Tuy Phước vì không một tấm bản đồ nào ghi tên Nước Mặn; đến đây mới biết còn lưu truyền chiếc cầu ngói và ngôi chợ mang tên Nước Mặn. Cạnh chợ, một bãi hoang nhưng chúng tôi phát hiện ra dấu tích của phố cổ tại ngôi nhà ông Huỳnh Xưng Chiến còn một bức tường dài 5,2 mét, cao 0,9 mét và dày 0,3 mét làm bằng vôi, gạch, đá ong, mật mía, mạch bằng vôi… Tìm thấy dấu tích đền Quan Thánh (chùa Ông) chỉ còn lại bức bình phong, trước cửa còn ba trụ đá tán, một chiếc đỉnh lư bị hỏng nhưng còn 3 chữ Quan Thánh đế.

     Thiên Hậu cung (chùa Bà) được xây dựng ở về phía đông của phố. Tuy bị hỏng hơn 80% do chiến tranh nhưng đây là di tích quan trọng nhất của phố Nước Mặn còn lại. Chúng tôi tìm thấy một chiếc đỉnh lư bằng hợp kim có 3 chân cao 47 cm, đường kính 46 cm, được đúc từ lò Vạn Minh (Trung Quốc) vào năm Đinh Tỵ niên hiệu Gia Khánh (1797). Mới biết đến cuối thế kỷ XVIII, phố Nước Mặn vẫn còn hoạt động và có quan hệ giao lưu thương mại với Trung Quốc4.

     Về phía đông – bắc của chợ là khu mộ cổ.

     Khuôn viên của phố Nước Mặn từ bờ Cầu Ngói đến bến Cây Da. Bến cảng từ Cầu Ngói đến chùa Bà của con sông Âm phủ. Khu phố được khoanh vùng trên thực địa chiều dài hơm 1 km, chiều ngang khoảng 500 m; ngày xưa thuộc làng Lạc Hòa và Vĩnh An (trước đó gọi là Minh Hương) sau nhập chung gọi là An Hòa.

     Từ thế kỷ XVIII trở về trước khi cửa Kẻ Thử còn tấp nập thuyền ghe ra vào buôn bán. Tàu thuyền qua đầm Thị Nại vào sông Côn đi qua các nhánh sông Âm Phủ, Cây Da rồi lên tận Cầu Ngói để trao đổi hàng hóa với thương nhân ở phố Nước Mặn. Các Giáo sĩ Bozomi, Pina, Augustin… đến đây truyền giáo (7-1618) cũng kể lại về xây dựng ngôi nhà thờ ở phố Nước Mặn như sau: “Quan trấn thủ cho các thừa sai một ngôi nhà bằng gỗ rộng rãi ở phố Nước Mặn. Ông dùng voi đưa các linh mục đến nhà mới, từ đó các linh mục có cơ sở hoạt động và được dân chúng kính nể. Cũng năm đó, thánh đường được dựng sẵn ở phố Nước Mặn và ráp trong vòng một ngày trước sự bỡ ngỡ và thán phục của các nhà truyền giáo”1.

     Vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX khi mạch đứt gãy ở duyên hải Bình Định hoạt động, cửa Kẻ Thử bị cát bồi ghe thuyền không ra vào được, phù sa của sông Côn cũng không thoát ra biển làm lắng tụ ở phía bắc đầm Thị Nại, các nhánh sông Âm Phủ, Cây Da bị cạn nước mặn không lên đến chợ, thuyền không đến được Cầu Ngói, phố Nước Mặn suy tàn. Những thương nhân ở phố Nước Mặn tản về Gò Bồi, vào Quy Nhơn hoặc lên An Thái để kinh doanh2.

     Nước Mặn ngày nay là một làng quê, không còn phố – cảng; chợ là một bãi đất hoang trống trải lều quán tiêu điều. Nhưng âm vang về các họ đại phú như Ngụy, Từ, Khưu, Lý, Khổng, Lâm, Huỳnh… trong đó có ông Khách Sáu chuyên buôn bạc được nhân dân truyền tụng về một ông Khách Bạc họ Ngụy giàu có ở Nước Mặn xa xưa.

     Năm 2005, Bảo tàng tỉnh Bình Định tổ chức đào thám sát khảo cổ học phố cảng Nước Mặn đã phát hiện nhiều gốm sứ của Trung Quốc có nguồn gốc từ Phúc Kiến và gốm sứ Hizen của Nhật Bản đều có niên đại thế kỷ XVII – XVIII là một sự thừa nhận về phố cảng Nước Mặn với vai trò mậu dịch quốc tế dưới thời các chúa Nguyễn3.

4. Hà Tiên

     Mạc Cửu – một trung thần của nhà Minh đã rời Trung Quốc sang Hà Tiên kinh doanh và trở nên giàu có. Mạc Cửu đã chiêu dân các vùng Cà Mau, Rạch Giá và đảo Phú Quốc lập thành 7 xã thôn4. Trước uy thế của chính quyền Đàng Trong, vào năm 1708, Mạc Cửu ra Phú Xuân gặp Chúa Nguyễn và xin được thần phục. Chúa Nguyễn Phúc Chu đồng ý và trao cho Mạc Cửu chức Tổng binh trấn Hà Tiên5. Hà Tiên, một vị trí chiến lược kinh tế và quân sự ở vùng đất tây – nam đất nước, một khu đô thị mới ra đời vào cuối thế kỷ XVII, một cảnh quan cẩm tú trở thành một bộ phận lãnh thổ của xứ Đàng Trong.

     Ngày 18 tháng 8 năm 2003, khi chúng tôi đến khảo sát đền thờ “Mạc Linh Công” ở Hà Tiên. Ngoài văn bia ghi về Mạc Cửu và con cháu họ Mạc lập nên đất Hà Tiên, chúng tôi chú ý phần chép tiểu sử Mạc Cửu như sau: “Ông người huyện Hải Phong, phủ Lôi Châu, tỉnh Quảng Đông. Sau khi nhà Minh dứt, năm 1680 Mạc Cửu 17 tuổi đã vượt biển đến Chân Lạp, được giao chức ốc Nha. Thấy đất Mang Khảm đông đảo, người các nước buôn bán sầm uất, ông xin vua Chân Lạp đến đó để buôn bán và khuyến khích mở mang nông nghiệp, chiêu tập lưu dân lập 7 xã thôn Phú Quốc, Vũng Thơm, Trảng Kè, Cần Vọt, Rạch Giá, Cà Mau và Hà Tiên1, không mấy chốc trở nên giàu có.

     Năm 1687, quân Xiêm cướp phá Hà Tiên, ông bị bắt đưa về Xiêm 13 năm sống ở cảng Vạn Tuế Sơn.

     Năm 1700, nhân lúc Xiêm có loạn, ông trốn về.

     Năm 1705, ông ở tại Hà Tiên.

     Năm 1708, chúa Nguyễn tiếp đoàn sứ giả của Mạc Cửu, chúa chấp nhận cho ông làm quan trưởng Hà Tiên, ban cho ông chức Tổng binh. Ông lập thành quách, bảo vệ đất đai thành một nơi trấn nhậm”.

     Hà Tiên còn được gọi là Phương Thành, một phố thị đông vui, tấp nập khách thương nhiều nước ra vào buôn bán. Mạc Cửu cho lập chùa Tam Bảo (1720 – 1730) và đền Quan Công (1725 – 1730) hiện là hai cổ tự danh tiếng của đất Hà Tiên2.

     Năm 1735, Mạc Cửu chết3, được Chúa Nguyễn tặng Khai tướng Thượng trụ quốc đại tướng quân Vũ nghị công. Lăng mộ của ông được xây dựng ở Hà Tiên rất uy nghiêm và đã được công nhận di tích Quốc gia vào ngày 6-2-1989.

     Con của Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ được Chúa Nguyễn cử làm Đô đốc trấn thủ Hà Tiên. Chúa Nguyễn Phúc Chú cấp cho 3 chiếc thuyền long bài được miễn thuế, sai xuất dương để mua các của vật quý báu để nộp. Lại sai mở cục đúc tiền để tiện việc trao đổi4. Thiên Tứ cho đặt nha thuộc, kén bổ quân ngũ, đắp thành xây luỹ, mở phố chợ, khách buôn các nước đều họp đông. Lại với những người văn học, mở Chiêu anh các, ngày ngày cùng nhau giảng bàn và xướng hoạ, có 10 bài vịnh Hà Tiên1. Lê Quý Đôn có viết: “Tôi từng thấy bản khắc 10 bài vịnh Hà Tiên, đều do Tứ đề mà các văn nhân Thuận Hoá – Quảng Nam cùng nhau hoạ vần, không thể bảo rằng hải ngoại không có văn chương được2.

     Là một người có khả năng kinh doanh, Mạc Cửu đến đất Hà Tiên lúc tuổi còn thanh niên, ông đã chiêu dân từ Cà Mau, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc… để lập làng dựng phố, buôn bán làm ăn. Từ năm 1708, khi Hà Tiên trở thành lãnh thổ của chúa Nguyễn ở Đàng Trong và dòng họ Mạc được Chúa Nguyễn trao cho con cháu kế thế giữ chức Tổng trấn, Hà Tiên nhanh chóng trở thành một đô thị lớn ở đất phương Nam. Thành quách được xây dựng, chùa chiền được tạo lập, phố xá được mở rộng, chợ búa tấp nập thương khách nhiều nước đến mua bán. Chúa Nguyễn còn cấp thuyền, miễn thuế để đi buôn bán với ngoại quốc và ưu tiên cho họ Mạc được phép đúc tiền để tiện tiêu dùng trong bối cảnh sự phát triển thương mại quốc tế. Hà Tiên trở thành vùng đô thị trọng điểm của khu vực với sự phát triển văn học, hình thành một nền văn hóa đô thị đặc sắc.

*
* *

     Trước đây các bộ sách giáo khoa lịch sử các cấp học đều phê phán Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh do tham vọng cầm quyền đã gây ra họa chia cắt đất nước và nội chiến; điều đó đúng nhưng chưa đủ. Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn cũng là một trong những động lực tự cường, tự vệ để các chúa Nguyễn không ngừng mở đất về phương nam, phát triển kinh tế, xây dựng đô thị, mở cửa giao lưu với nhiều nước trên thế giới.

     Đô thị Đàng Trong ra đời là hệ quả của chính sách tiến bộ của các chúa Nguyễn đón nhận đúng thời cơ thương mại quốc tế và di dân đô thị đang phát triển.Tầm nhìn đó đã vượt xa các nguyên thủ phương Đông cùng thời lấy làng xã làm nền tảng, nông dân làm chỗ dựa, nông nghiệp làm trọng tâm và cấm vận là chủ yếu. Sự ra đời và phát triển đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn là một hiện tượng lịch sử đáng được ghi nhận để tìm ra nguyên nhân và đặc điểm của nó.

      Đàng Trong là nơi giàu về tài nguyên thiên nhiên, có nhiều tiềm năng kinh tế, có nhiều sông ngòi và nhiều cảng biển thuận tiện cho việc lập cảng và ghe thuyền cập bến. Các chúa Nguyễn đã tận dụng mọi khả năng lao động trong nhân dân kể cả chính sách ưu ái với nguồn lao động và đầu tư của người nước ngoài để phát triển kinh tế và đô thị. Các đô thị đều dựa trên cảng sông để phát triển đã tạo ra một thế hệ phố cảng rất đặc sắc nhưng chủ yếu dựa vào thiên nhiên của thời tiền công nghiệp. Khi cảng sông, cửa biển có biến đổi thì phố cũng thay đổi theo và cuối cùng bị suy tàn. Chỉ còn lại Hội An và Hà Tiên là duy trì được sức sống của một dạng đô thị có dáng dấp thời trung đại cần đ-ợc trân trọng bảo tồn và phát huy giá trị lịch sử trong tương lai.

_________
1 Đỗ Bang, Thương cảng Hội An – Từ nhận thức đến thực tiễn nghiên cứu, Thông tin Khoa học Trường Đại học Tổng hợp Huế, số 5, 1983, tr. 74.

1 Cristoforo Borri, Relation de la nouvelle Mission des Pères de la Compagnie de Jesus au Roiyaume de la Cochinchine, BAVH, 1931, p. 334.

2 Cristoforo Borri, Sđd, p. 336.

3 Dương Văn An, Ô châu cận lục, bản dịch Bùi Lương, Văn hóa á châu, Sài Gòn, 1961, tr. 41.

4 Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học, Hà Nội, 1964, tr. 82; Địa bộ làng Cẩm Phô năm Gia Long 11 (1912) cũng ghi về phía đông giáp làng Hoa Phô.

1 Chùa này có thể là ngôi chùa mang tên Hà Nam do Shichirobei xây dựng năm 1670.

2 Đỗ Bang, Phố cảng Hội An – Thời gian và không gian lịch sử, Hội thảo khoa học về Đô thị cổ Hội An, 1985.

3 Phan Phát Huồn, Việt Nam giáo sử, Q.1, NXB Khai Trí, Sài Gòn, 1965, tr. 158.

4 Sau lệnh cấm vận năm 1635, phần lớn người Nhật ở Hội An được lệnh về nước; số còn lại kết hôn với người Hoa, người Việt và dần bị lai hóa thành thiểu số.

5 Châu Phi Cơ, Hội An 400 năm sự tích, bản thảo viết tay.

1 Tạ Thị Hoàng Vân, Di tích kiến trúc tại Hội An trong tiến trình lịch sử, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2007, tr. 84-86.

2 Văn khế mua đất ngày 12-9 năm Chính Hòa thứ 13 (1692), vị trí cạnh đường Lê Lợi ngày nay.

3 Léopole Cadiere, Les Européens qui ont vu le vieux Hue, Thomas Bowyear, BAVH, 1920.

4 Thích Đại Sán, Hải ngoại kỷ sự, bản dịch Viện Đại Học Huế, 1963, tr. 154.

1 Do hiện tượng đất bồi ở bờ sông nên đến năm 1841 mới lập thêm phố Quảng Đông (tức đường Nguyễn Thái Học hiện nay) và năm 1878 mới lập thêm phố Bạch Đằng ở sát bờ sông hiện nay.

2 Theo nhà Cổ tiền học Nguyễn Anh Huy (bài Tổ chức đúc tiền và lưu hành tiền tệ tại Thừa Thiên Huế trước 1945, kỷ yếu Hội thảo khoa học 700 năm Thuận Hóa-Phú Xuân- Thừa Thiên Huế, Hội KHLS Thừa Thiên Huế tổ chức tháng 6 năm 2006, tr. 183), tác giả cho rằng: có thể từ thời Trần – Lê, Thanh Hà là một trung tâm thương mại của Hóa châu. Năm 1998, ở dọc theo bờ sông gần Thanh Hà và thành Hóa Châu tìm được hàng trăm đồng tiền thời Trần mang niên hiệu Thiệu Phong (1341-1357) và Đại Trị (1358-1369).

3 Theo đơn thỉnh nguyện của dân làng năm Bảo Thái thứ 7 (1716).

4 Gia phả họ Trần lưu tại nhà ông Trần Đạt (Bao Vinh) và Trần Tiễn Hy (Minh Thanh) do Trần Ích soạn năm 1800. Cùng thời với họ Trần đến Thanh Hà có họ Lý và họ Lưu nhưng nay không tìm thấy gia phả và di duệ.

1 Khế ước mua đất của làng Minh Hương được duyệt lại năm Cảnh Hưng thứ 14 (1753).

2 Dẫn và chú thích theo Linh mục Nguyễn Văn Ngọc, bài Hình ảnh con người Quảng Trị qua sử liệu của các giáo sĩ ngoại quốc, tạp chí Cửa Việt số 15 (1992), tr .84.

3 Cổ vật lâu đời còn giữ được tại Thiên Hậu cung là lư hương bằng sứ có niên đại Ung Chính năm thứ nhất (1723).

4 Chùa Ông bây giờ thuộc chủ quản của dân làng Địa Linh do thắng lợi của vụ kiện đất dưới thời Tây Sơn năm 1787. Trong chùa Ông có tượng Quan Thánh rất lớn, có nhiều bức hoành do các hội quán của người Hoa cúng là Quảng Triệu, Triều Châu, Hải Nam. Trước sân có lư gang lớn đúc tại lò Long Thạnh ( Trung Quốc) vào năm Càn Long thứ 45 (1780) cúng cho đền cùng thời điểm chiếc long đình do Hoa thưng cúng cho chùa Bà.

5 Những hiện vật khảo cổ học phát hiện ở Thanh Hà có rất nhiều đồ gốm, sứ sớm nhất là chân bát có niên hiệu Thành Hóa nhà Minh (1465-1488), phổ biến là niên hiệu thời Khang Hy (1662-1723), Ung Chính (1723-1736), có cả gốm Hizen sản xuất ở đảo Kyuihu, Nhật Bản (1650-1680); trong nước không những có rất nhiều gốm Phước Tích (Thừa Thiên) mà có nhiều gốm Bát Tràng, được đưa vào trao đổi. Về tiền đồng, ngoài các đồng tiền có niên hiệu vua Việt Nam còn tìm thấy nhiều đồng tiền ghi niên hiệu Khang Hy (1662-1723), Càn Long (1736- 1796), cũng tìm thấy nhiều đồng tiền Piastres của Pháp và đồng Mexiques… Hiện đang lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử và Cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế cùng các bộ sưu tập tư nhân ở địa phương.

1 Cordiere. H, Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine , description de la Cochinchine, REO, T.III. 1887.

2 Tại vườn nhà ông Huỳnh Quỳnh có một giếng cổ hình vuông, là chứng tích của khu chợ Thanh Hà. Trước đây gia đình ông đãi đất tìm được vàng đó là dấu vết của phố thợ bạc. ở chung quanh khu vực này khi sản xuất nhân dân gặp nhiều mảnh gốm vỡ, gạch ngói vôi vữa, đó dấu tích hoang phế của khu phố cổ ngày xưa. Đỗ Bang, sđd, tr. 101.

3 Michel Đức Chaigneau, Souvenir de Hue, Paris,1867, tr. 114.

1 Cristoforo Borri, Sđd, p. 350.

2 Pratier de la carte Général Asie de Bleau (1608), T.XXIX, N04, E.Trimestre, 1954 – trong luồng mậu dịch của Tây Ban Nha. Vuconva là Lữ Tống, tức Luçon ở bắc Philippin (Yves Mangin, Les Portugais sur le côtes du Vietnam et du Campa, BEFEO, Paris, 1972, bản đồ số 1, phần phụ lục.

3 P.B. Lafont,  Aperçu sur le queques relations maritimes et commerciales entre le monde
Indochinois,et la Peninsules Malaise du XVe au XVIIIe siecle
, trong Le monde Indochinois et la peninsules Malaise, Kula Lumpur, 1990, tr. 4.

4 C. Borri, Sđd, tr. 351.

5 Ấn bản tiếng Pháp [r Rennes ghi là dài 2 dặm, rộng 1,5 dặm (tr.128). Các số đo này đều quá lớn so với dấu vết còn tìm thấy được trên thực địa hiện nay.

1 Cordiere. H, Voyage de Pierre Poivre en Cochinchine, description de la Cochinchine, REO, T.III, 1887, tr.167.

2 Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, tỉnh Bình Định, Bản dịch Nguyễn Tạo, Sài Gòn,1964, tr. 42.

3 Đỗ Bang, Dấu tích của cảng thị Nước Mặn, Những phát hiện mới khảo cổ học năm 1991, Viện Khảo cổ học. Những phát hiện này đã cung cấp thêm nhiều ư liệu để tôi thực hiện đề tài luận án PTS bảo vệ năm 1993 và xuất bản năm 1996 trong tập sách Phố cảng vùng Thuận Quảng thế kỷ XVII-XVIII, Hội KHLSVN – NXB Thuận Hóa, tr. 139-165.

4 Sau đợt phát hiện này, đỉnh l- trên đ-ợc đ-a về Bảo tàng Quang Trung để ghi dấu về hiện vật thời Tây Sơn.

1 Theo Bastoli, Istowa della compogne di Jisus, Napoli 1859, Tài liệu Chúng viện Quy Nhơn.

2 Gia phả họ Lâm ở An Thái (An Nhơn, Bình Định) cho biết Thủy tổ là Lâm Văn Hanh người tỉnh Phúc Kiến rời nước thời Khang Hy năm 1679 đến Đàng Trong, lúc đầu ông trú ở phố Nước Mặn, trang Vĩnh An, xã Minh Hương.

3 Đinh Bá Hòa, Đào thám sát thương cảng Nước Mặn, Tư liệu Bảo tàng Bình Định.

4 Mạc Cửu cùng Trần Thượng Xuyên rời Trung Hoa vào năm 1679 và ông có con gái gả cho Trần Hoàn là con trai của Trần Thượng Xuyên.

5 Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, tr.167.

1 Theo Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, tr.167; Các xã thôn đó là: Phú Quốc, Cần Bột, Giá Khê, Luống Cày, Hương úc, Cà Mau (thiếu tên một đơn vị) và 2 vị sứ giả đó là Trương Cầu và Lý Xã.

2 Cùng tham gia khảo cứu có Thựơng toạ Thích Vân Phong, Nguyễn Thanh Tòng, Phan Văn Bé Tư và Đinh Văn Phi.

3 Theo Mạc thị gia phả, Mạc Cửu sinh năm ất Mùi (1655), chết năm 1735, thọ 81 tuổi (Hà Tiên hiệp trấn Mạc thị gia phả, Hà Tiên – Kiên Giang, Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, NXB Thế giới, 2006, tr. 36).

4 Hà Tiên là cơ sở đầu tiên của nhà nước được cử thuyền đi buôn ở nước ngoài và là nơi xa nhất của triều đình được nhận nhiệm vụ đúc tiền để lưu hành. Hiện nay anh Nguyễn Thanh Tòng – người quản lý khu lăng mộ họ Mạc còn giữ được nhiều đồng tiền được đúc dưới thời Mạc Thiên Tứ.

1 Đại Nam thực lục tiền biên, Sđd, tr.198-199.

2 Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, Khoa học, Hà Nội, 1964, tr. 299.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX,
Tại Thanh Hóa, ngày 18-19/10/2008

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Đô thị Đàng Trong dưới thời các chúa Nguyễn (Tác giả: PGS.TS Đỗ Bang)