Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy

PREVENTING AND PROMOTING VIETNAMESE PEOPLES’
BROCADE PATTERN CULTURAL VALUE

Tác giả bài viết: ĐOÀN THỊ TÌNH
(Trung tâm Nghiên cứu bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc)

TÓM TẮT

     Thổ cẩm là một trong những mặt hàng dệt thủ công truyền thống với sắc màu rực rỡ bởi kỹ thuật đan kết của sợi tạo nên những dạng thức hoa văn trên bề mặt vải, đã trở thành sản phẩm mỹ nghệ của nhiều dân tộc thiểu số. Cùng với tiếng nói và chữ viết, hoa văn thổ cẩm cũng là một trong nét văn hóa đặc trưng của từng tộc người, nó hiện lên không chỉ làm đẹp, thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ ở dạng nghệ thuật hóa bằng ngôn ngữ tạo hình hay kỹ xảo thể hiện màu sắc hoa văn mà còn mang tính khoa học, tiềm ẩn một mục đích thông báo về giá trị văn hóa, tinh thần trong không gian sinh tồn của họ.

Từ khóa: Văn hóa, thổ cẩm, kế thừa, phát huy, Việt Nam.

ABSTRACT

     Brocade is one of the traditional handicraft items with sprawling colors due to the weaving technique of fibers, which forms patterns on the fabric surface, has become a fine art product of many ethnic minorities. Along with the language and writing, brocade pattern is also one of the cultural characteristics of each ethnic group, it appears not only to beautify, satisfy the artistic aesthetic needs in visual language or techniques show colors but also scientific, potentially a purpose of announcing the cultural and spiritual values in their living space.

Keywords: Culture, brocade, inheritance, promotion, Vietnam.

x
x x

1. Văn hóa sắc tộc qua thổ cẩm

     Trên thế giới, một số tộc người như ở các nước Đông Nam Á lục địa và hải đảo đều có thổ cẩm. Nhưng mỗi nước lại có những sắc thái riêng biệt không nhòa lẫn. Ở Việt Nam cũng vậy, nhiều dân tộc trong cộng đồng hay cùng ngữ hệ trong một nhóm người cũng có thổ cẩm, nhưng lại khác nhau tùy vào khu vực văn hóa, môi trường địa lý, sinh thái vùng miền, mặc dù cùng một công việc tạo tác cho ra sản phẩm chất liệu vải, và cũng trong một chu trình kỹ thuật dệt thủ công: giăng sợi, đan sợi trên khung cửi cố định hoặc không cố định, con go nhiều hay ít đều chung nguồn vật liệu từ sợi bông, lanh, tơ tằm với màu nền cơ bản gần giống nhau ở sắc độ thẫm đậm, tông màu đen, xanh chàm… Các hoa văn trang trí đều hướng tới miêu tả các đối tượng hiện thực trong thiên nhiên, đời sống của con người mà nó luôn gắn bó với họ. Những hình ảnh ấy được cách điệu hóa và trong một quy tắc đồng nhất là tạo hình mặt phẳng, phương thức thể hiện bằng đường kỷ hà (thuật ngữ mỹ học gọi là hình kỷ hà). Song mỗi sản phẩm thổ cẩm ấy lại mang cái hồn cốt riêng, bởi phong cách thể hiện đa dạng về hoa văn trang trí của tư duy mỹ cảm, ý niệm về thế giới tâm linh, sự sáng tạo kỹ thuật cũng như trong quá trình giao lưu tiếp biến… đã làm nên giá trị văn hóa đặc sắc, độc đáo mang biểu trưng của từng tộc người.

     Ví như cách bố cục, nghệ thuật sử dụng màu sắc, sự sắp xếp các hình thể, đường nét, tạo mảng khối trang trí hoa văn… Ở thổ cẩm tộc người Mông Hoa thì sử dụng màu chính sắc (xanh lơ, chàm sẫm, tím, đỏ, vàng, trắng) độ tương phản mạnh với gam màu nóng (đỏ, vàng cam) chủ đạo, tổ hợp hoa văn đối xứng trong dải băng ngang dọc, xen kẽ giữa mảng lớn, bé kế tiếp, chồng chất lên nhau tạo khối dày, đậm với các mô típ hoa văn tiêu biểu: hình con cua, con ốc (biểu tượng cho sấm chớp); chữ vạn (卐), sao 8 cánh, hoa cúc (biểu tượng của mặt trời); hoa tỏi (tỏi vừa là gia vị, vừa là thuốc chữa bệnh và theo quan niệm của người Mông, mùi hương của tỏi còn có thể trị tà ma); hình chữ thập (+), chữ (x) tượng trưng cho sừng trâu (trâu là con vật không chỉ gắn với đời sống nông nghiệp của con người trong sự sinh tồn, mà còn là biểu tượng cho sự vận hành của mặt trăng – mang tính âm dương – sự sinh sôi phát triển… Đặc biệt là đồ án hình tròn, hình xoáy ốc được biến thể tạo hình móc đối xứng của trụ quay hình chữ S (là sự biến chuyển của mặt trời, thời tiết trong không gian vũ trụ)…

    Những dạng hình tròn với sự biến ảo của sắc màu đỏ, vàng, gây cảm giác rực rỡ lan tỏa sưởi ấm cho thị giác nơi vùng cao sương giá, đã trở thành một ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình đậm sắc tộc của thổ cẩm này.

     – Thổ cẩm của người Mường lại sử dụng màu nguyên (tím, trắng, đen, đỏ, vàng, xanh) như một sự chuyển tiếp lẩn chìm làm đường biên, tạo nhịp điệu cho tổng thể đồ án hoa văn và lấy gam trầm làm chủ đạo.

     Ngoài các mô típ hoa văn thường gặp như hoa móc, sao 8 cánh, quả trám; các động vật rồng, phượng, gà lôi, con nhện… gắn với đời sống cả về quan niệm tâm linh, còn có những hoa văn mang nhiều ý nghĩa quan hệ với thơ ca và văn học dân gian:

     “Hươu đứng dưới bóng cây chu đồng” từ truyện Chặt Chu Kéo Lội, ý nghĩa của cây chu đồng.

     Hoa văn chim gáy gắn với câu chuyện “Chàng Trặt chàng Trẹng” ở ngoài bờ bãi gửi cho các cô gái những tràng hạt. Hoa văn con cò của hình ảnh “chim đỉnh bay đuối gió, chim cò bay đuối cánh” nói lên không gian xa cách nhưng tình thương vẫn gần…

    Ngôi sao và con cá (gợi cảnh thanh bình đêm trăng gắn với tình duyên của trai gái)…

     Các tổ hợp hoa văn được bố cục khác nhau tạo thành dải nối tiếp, đối xứng kết thành chuỗi, mô típ chính đặt trong khung hình vuông, xếp chéo hay hình ô trám. Lối bố cục ô chéo trong nghệ thuật tạo hình đan lát kiểu “lóng mốt”, “lóng đôi” của nghệ nhân thêu trên khung dệt, cùng với cách xử lý màu nguyên sắc kết nối với nền không màu, tạo độ nông sâu của đồ án, trong cái rậm rạp chen chúc đa hình sắc ấy, màu nguyên sắc đóng vai trò chuyển tiếp hai cực để tôn lên hình khối tạo sự tương phản về sắc độ của mảng, nét; cái rực rỡ của nó chỉ ẩn hiện cho sự cảm thụ thẩm mỹ sâu lắng, một phong cách “chơi” màu dung dị (thoáng nhìn thì tưởng như đơn giản) nhưng lại cuốn hút, làm giàu cho sự khám phá của không gian núi rừng đầy thơ mộng trên sản phẩm thổ cẩm.

     – Thổ cẩm của người Thái: Lấy màu sắc để tạo ấn tượng mạnh, dùng gam màu tươi sáng trong sự tương hỗ mờ – đậm của các cặp màu đặt cạnh nhau: đen-trắng, đỏ – xanh lá cây, trắng-xanh da trời… mang tính thống nhất về bố cục không những về màu sắc mà cả về hình khối; cũng như chủ đề miêu tả của họa tiết hoa văn, được sắp xếp khéo léo về các bình diện to – nhỏ, trên – dưới, đực -cái, trống – mái… trong quan niệm về sự hòa hợp trường tồn của cuộc sống cũng như về vũ trụ và triết lý âm dương.

     Các hoa văn tiêu biểu phải kể đến “hoa ban”, “hoa dây leo” được cách điệu gợi hình ảnh rừng hoa, thác đổ của nguồn nước suối trong, “hoa văn rái cá” (một cặp đực cái). “Hoa văn cá” gợi hình ảnh đàn cá tung tăng bơi lội thanh bình an lạc. “Hoa văn thuồng luồng nằm ngủ” theo quan niệm của người Thái là con vật thiêng. Khi ở dưới nước là thần nước, khi ở trên cạn là chủ đất, nó gắn với tín ngưỡng cúng thần nước “Văng mương” và thần đất “pom minh mương”… Trong một đồ án thường nhiều mô típ hoa văn, các mô típ được phân thành chính phụ với những vạch ngang nối thành đường đậm dài, gãy góc, tạo ra các khối tam giác, chữ nhật, hình vuông, hình quả trám. Các khối hình trên lại được chắp nối khớp nhau trên các đường thẳng song song, hoặc bố cục cân xứng trong cách phối màu tương phản nhưng rất hài hòa. Đặc biệt màu xanh lá cây (xanh lục) bên cạnh màu trắng, màu hồng cứ mơn mởn như những chồi non vươn trào sức sống của con người, hòa với cảnh sắc thiên nhiên nơi non ngàn tươi đẹp.

     – Thổ cẩm của người Chăm: Tuy sử dụng năm màu cơ bản (trắng, đen, đỏ, vàng, xanh) nhưng lại cho ta một bảng màu đa sắc phong phú. Với cách bố cục của đồ án hoa văn, kết nối là dải, nhưng nó được phân chia ra từng ô, có đường ngang, dọc giữa các đồ án như hoa văn quả trám, hạt lúa, đường zích zắc, răng cưa (tượng trưng cho sông nước) gắn với việc trồng lúa nước; hình mỏ neo, mắt lưới (nghề đi biển); hoa văn hình sao 8 cánh (thờ thần mặt trời). Hoa văn chim thần Garuda, Makla (mang biểu tượng tôn giáo Bà La Môn), hình lá hay đuôi ngỗng thần (trong kiểu thức Ăngko). Các hoa văn động vật phong phú: rồng, phượng, chim trĩ, công, con voi… trong đồ án trang trí đối xứng, đăng đối nhưng xếp so le ở dạng hình thoi liên kết trên nền màu đỏ, trắng đen dàn trải tạo nhịp điệu chỗ thưa, chỗ mau khắp bề mặt của cách phân hai mảng màu đối lập giữa hai gam nóng và lạnh. Nóng (dương), lạnh (âm), màu sắc đối chọi giữa nền và hoa văn còn thể hiện tính phồn thực của văn hóa Chăm.

     Nghệ thuật phối màu trên vải này đã làm nên độ hài hòa, mặc dù là sử dụng gam nóng (đỏ, vàng) nhưng bên cạnh lại bật lên màu sắc trắng óng ánh của chỉ kim tuyến tạo cho thổ cẩm mang tính huyền bí, sâu lắng gợi tới không gian kiến trúc đền, tháp và cái chói lòa của nắng biển cát trắng miền Trung.

     – Thổ cẩm một số tộc người Tây Nguyên: Thổ cẩm nơi đây, ta bắt gặp dạng bố cục thành dải quen thuộc, khá phổ biến ở nhiều thổ cẩm trong và ngoài nước. Tuy có nét tương đồng, nhưng lại hoàn toàn khác về phong cách trang trí xếp hoa văn theo dải ngang, với các hình được giản lược trong cấu trúc đồ án trang trí nét và mảng như các hoa văn: hạt dưa, cái rìu, mũi tên, gùi, cối giã gạo, chiêng ché, chim đại bàng, con rùa, voi, bướm… Hoặc các tổ hợp hình học: “Hla pơi” là hình lá quạt gồm bốn hình tam giác xếp lại với nhau (giống hình chong chóng), “Ngkao kờn tờp” gồm nhiều hình tam giác nhỏ nằm gối lên nhau (mô phỏng mảng cườm trên cổ con chim cu gáy), “Klồng loốp” là những hình quả trám có dạng to, nhỏ liên kết đặt lồng gợi khối (rỗng), mô phỏng con kỳ đà… Các chi tiết hình học được phối hợp thành dải băng ngang, dọc, dày, mỏng. Trong những dải băng lớn thường có nhiều mô típ trang trí được xếp theo ô vuông hoặc chéo, phân cách chúng là những đường kẻ chỉ màu chạy song song. Trên nền đen, đôi khi là trắng; lấy màu đỏ chủ đạo, màu trắng đan xen, màu vàng làm đường viền… Trong bảng màu chung cơ bản, song cách phối màu với liều lượng phân bổ khác nhau:

     Thổ cẩm của Ba Na: hút sắc đỏ nóng rực vào nền đen, tạo độ đậm ấm, sâu lắng.

     Thổ cẩm của Gia Rai: dùng màu trắng, vàng để bật lên độ tươi sáng, thoáng nhẹ.

     Thổ cẩm Ê Đê: có bố cục cân đối giữa màu đỏ và đen cho sự vững chãi về mảng.

    Cách bố cục dải cũng vậy, tùy vào thị hiếu thẩm mỹ mà có sự thể hiện đậm đặc, nhẹ nhàng hay đan xen giữa dải đơn thuần chỉ là màu và dải có trang trí đồ án họa tiết hoa văn.

     Nhìn chung, thổ cẩm Tây Nguyên, đặc biệt là cấu tạo dải ngang, màu sắc không chói chang rực rỡ, nhưng tinh tế về cách phối màu trong tổng thể nhịp điệu của đồ án trang trí; bố cục có trọng điểm, nhẹ thoáng, vui mắt, mang lại sự khỏe khoắn, khoáng đạt của thẩm mỹ con người nơi cao nguyên đất đỏ, ẩn tàng nhiều sản vật, giàu sức sống của đại ngàn.

     Vài nét phác họa thổ cẩm của một số tộc người, còn nhiều nữa thổ cẩm của cộng đồng 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên dải đất hình chữ S, đã kết tinh trí tuệ từ cuộc sống lao động. Với bàn tay khéo léo, sự cảm thụ thẩm mỹ của tâm hồn, cùng nhân sinh quan trong thế giới thiên nhiên, có giá trị văn hóa riêng biệt độc đáo, hòa vào sắc màu rực rỡ trong vườn hoa di sản của văn hóa mỹ thuật dân tộc Việt Nam.

2. Thổ cầm truyền thống trong mỹ thuật ứng dụng hiện đại

     Như sự dẫn giải ở trên, nhận biết chung về thổ cẩm, nó đã vượt lên tính năng của sản phẩm thực dụng, trở thành những tác phẩm nghệ thuật tạo hình dân gian, hàm chứa trong đó những giá trị văn hóa tộc người, mang đặc trưng của xã hội văn minh mà nó đại diện.

     Trước đây, giá trị mỹ thuật cũng như giá trị sử dụng sản phẩm thổ cẩm chỉ trong phạm vi tộc người, nhóm và gia đình; mang tính tự cung, tự cấp cho cái mặc (áo, quần, váy, khố…), đồ dùng sinh hoạt (chăn, gối, mũ, khăn…), một phần phục vụ cho tâm linh, làm hàng hóa trao đổi, vật phẩm quà tặng…

     Ngày nay, thổ cẩm của cộng đồng các dân tộc nói chung, đã vượt ranh giới địa phận bản làng, không những mở rộng ở phạm vi vùng miền trong nước hay khu vực, mà con vươn xa đến một số địa danh của Châu lục, có mặt trên thị trường thời trang thế giới. Nó đã đóng vai trò quan trọng trong sự giao lưu văn hóa và phát triển kinh tế của xã hội, cũng như cầu nối giữa nghiên cứu với sáng tạo để tới nghệ thuật thiết kế sản phẩm mang giá trị thẩm mỹ và công năng cao; đáp ứng nhu cầu thị hiếu của con người, trong đời sống công nghiệp phát triển mang tính toàn cầu hóa hiện nay.

     Với tính năng của vật liệu từ sợi tự nhiên, cho độ bền đẹp, thoáng, cùng ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình phong phú, đa dạng về bố cục, mảng khối, đường nét, họa tiết hoa văn trang trí… Thổ cẩm đang được khai thác ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của thiết kế hiện đại. Các sản phẩm dân dụng, đồ chơi trẻ em, đồ lưu niệm, vào trang trí nội, ngoại thất, kiến trúc, thiết kế đồ họa, bìa sách, lô gô, sự kiện, tranh thổ cẩm (thư pháp, sơn dầu, thêu…).

     Một trong lĩnh vực của ngành mỹ thuật ứng dụng, có mối tương tác với thổ cẩm trong quy luật sáng tạo của cái đẹp tôn vinh con người, đó là mỹ thuật trang phục.

     Đã bao đời nay, từ thổ cẩm mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam đã tạo dựng cho mình những bộ trang phục truyền thống độc đáo đậm sắc tộc, mỗi bộ một vẻ, có bộ nền nã nhẹ nhàng, đơn giản từ hình thức đến màu sắc (như trang phục phụ nữ Tày, Nùng, Ê Đê, Ba Na…). Có bộ lại rực rỡ, mang nhiều chi tiết rất đa dạng phong phú, gây ấn tượng mạnh (như trang phục phụ nữ Pà Thẻn, Dao Đỏ, Lô Lô, Mông…) đang hiện hữu và vẫn tiếp tục duy trì sự trao truyền ấy.

     Ngoài kiểu dáng, màu sắc và bố cục cộng hưởng để làm nên cái dấu ấn của sắc phục tộc người mang những thông điệp có sức truyền cảm bằng ngôn ngữ hình tượng nghệ thuật thì phải kể đến thành tố hoa văn. Hoa văn thổ cẩm là nguồn cảm hứng vô tận cho các nhà thiết kế trang phục hiện đại không những ở trong nước mà cả nhiều nhà thiết kế nước ngoài của châu Á, châu Âu cũng đều say mê ngợp trào cảm xúc trước kho tàng tiềm năng giàu có của họa tiết hoa văn chứa đựng những dấu ấn văn hóa đặc trưng này. Họ đã bắt gặp tính nhân văn, những giá trị thẩm mỹ tương đồng về cá tính sáng tạo, tính ứng dụng đa chiều để đưa cái đẹp truyền thống vào cuộc sống hiện đại, mang một phong cách mới, với những ý tưởng mới trên bình diện rộng cả về không gian và thời gian, phổ cập nhiều đối tượng, thị trường tiêu dùng mang đến sự hài hòa giữa lý trí và cảm xúc của đối tượng sáng tạo và đối tượng cảm thụ cùng thăng hoa.

     Dưới góc độ của mỹ thuật, với nhiều phương thức ứng dụng: kết hợp giữa chất liệu cùng kỹ thuật hiện đại, hoặc tích hợp một vài bố cục về màu sắc hay các đồ hình hoa văn đặc trưng của thổ cẩm, để làm phong phú cho các thể loại trang phục, phù hợp với mọi lứa tuổi. Từ tà áo dài truyền thống của người Kinh (cách tân), đến áo, váy quần kiểu châu Âu, trang phục công sở, thể thao, dạ hội; các phụ trang: túi sách, giày, đai lưng cùng các bộ sưu tập trên sàn diễn thời trang trong và ngoài nước…Thổ cẩm trở thành nhân tố phổ biến, nhập vào với xu hướng thời trang quốc tế, hòa trộn nhiều họa tiết, (mixed prints), hay đối lập về màu sắc để tạo độ nhấn tương phản bắt mắt… Ta có thể thấy những nét chấm phá hay đậm đặc của nó ở bất cứ nơi đâu trên thị trường thời trang giữa thời hiện đại.

     Thổ cẩm đã góp phần vào sự phát triển của thời trang nói chung và trang phục hiện đại nói riêng. Trên cơ sở những thế mạnh vốn có của hoa văn thổ cẩm truyền thống trong sự biến tấu linh hoạt, sống động tương thích với nhu cầu phát triển về cái mặc của con người. Đồng thời nó đã mang lại cho trang phục hiện đại một giá trị thẩm mỹ mới mẻ, độc đáo về phong cách, có tính kế thừa, phát huy nhưng vẫn mang hơi thở của thời đại.

     Vẻ đẹp của trang phục hiện đại còn mang trong nó việc bảo tồn di sản văn hóa thổ cẩm làm phong phú tinh thần cảm xúc trong mối tổng hòa giữa con người với môi trường thiên nhiên, con người với văn minh, văn hóa và sự phát triển kinh tế của đời sống xã hội.

3. Một số ý kiến gợi mở

     Hoa văn trang trí của thổ cẩm là những nét riêng độc đáo, mang tín hiệu biểu trưng trên trang phục, bằng ngôn ngữ nghệ thuật tạo hình, hàm chứa những giá trị biểu tượng thông tin về lịch sử, văn hóa, nó luôn ẩn tàng sức sống trong tâm thức của mỗi tộc người.

     Trong đời sống hôm nay, trang phục là một trong những hoạt động văn hóa sôi động bằng những con đường thông qua hội nhập, gia thương, quảng bá du lịch… Qua đó mà những đặc trưng về văn hóa để thế giới biết đến đất nước con người Việt Nam là ở những sản phẩm trang phục. Ngoài trang phục truyền thống thì trang phục hiện đại, lấy ý tưởng từ hoa văn thổ cẩm của các dân tộc thiểu số, ứng dụng cho những thiết kế mới đã thu hút được thị trường thời trang. Từ thực tiễn trong cuộc sống thường nhật, trên sàn diễn hội chợ triển lãm, đến nơi kinh đô thời trang thế giới, các bộ sưu tập đầy ấn tượng với các tác phẩm dành được giải thưởng quốc tế, đậm sắc thái Á Đông – Việt Nam. Nhiều sản phẩm may mặc được đánh giá cao về sự tinh tế, khác biệt, mới lạ mang sức hấp dẫn trong xu hướng chung tìm về truyền thống. Bên cạnh đó nó cũng góp phần cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước.

     Tuy nhiên, để bảo tồn và giữ gìn phát huy được những di sản văn hóa thổ cẩm truyền thống của từng tộc người, trong xu hướng biến đổi hiện nay, cần có những định hướng mang tính bền vững như nguồn vật liệu: trước kia, đồng bào thường dành những mảnh đất màu mỡ nhất để trồng bông, đay, lanh… lấy sợi dệt thành thổ cẩm. Chất vải này nó có cái đẹp tự thân, trong sản phẩm đồ mặc, làm lợi cho sức khỏe con người, thân thiện với môi trường. Phẩm màu thiên nhiên với sợi chỉ tơ tằm óng mượt, tiếp nhận ánh sáng mặt trời – tạo nên hiệu ứng chuyển màu đa sắc, cùng bàn tay khối óc tài hoa, tinh khéo, sáng tạo đầy biểu cảm của con người.

     Sợi công nghiệp hiện nay ngày càng phát triển, ta phải thừa nhận mặt tích cực của nó đối với sản phẩm mỹ thuật ứng dụng, đã làm cho các mặt hàng thêm phong phú, đa dạng. Đặc biệt là công lao động ít, nhanh, giá thành rẻ so với hàng dệt thủ công với chất liệu truyền thống. Song cái “giá đắt” của những bất cập cũng không phải là nhỏ – nếu không có sự tham gia đồng tâm hiệp lực liên ngành, liên cấp, cân bằng về chính sách quy hoạch, đãi ngộ cũng như việc đào tạo lớp người kế cận cho nghề dệt thủ công. Bên cạnh đó, cũng cần có đội ngũ nghiên cứu, hệ thống khoa học giải mã những giá trị văn hóa của kho tàng hoa văn này, cung cấp những hiểu biết nhất định cho đội ngũ sáng tạo, sản xuất cũng như người tiêu dùng, thì liệu thổ cẩm truyền thống Việt Nam có còn duy trì và phát triển?

     Vì đang diễn ra hiện tượng: đến các phiên chợ hay một số lễ hội vùng cao, ta bắt gặp không ít những bộ trang phục của bà con (đa phần là người trẻ) thường mặc, thoáng nhìn về phom dáng khá là “truyền thống” nhưng sử dụng chất vải “thổ cẩm” thêu máy lập trình công nghiệp hoa văn mới lạ với chỉ kim tuyến lóng lánh, bảng màu pha tạp như vàng chanh “chát chúa”, xanh lơ cô ban (gam lạnh) lấn át, làm nhạt nhòa sắc màu ấm đậm, chiều sâu tinh tế vốn có đặc trưng của thổ cẩm từng tộc người. Hoặc hoa văn thổ cẩm của dân tộc này lại lắp ghép tùy tiện vào trang phục của tộc người khác, làm khó khăn cho việc tìm hiểu giá trị mạch nguồn văn hóa, tính thẩm mỹ nguyên bản của nó.

     Thổ cẩm là một phần không thể thiếu trong đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào các dân tộc, nó thuộc lĩnh vực văn hóa, có vai trò quan trọng góp vào sự đa dạng văn hóa cộng đồng. Vì vậy, việc bảo tồn các giá trị di sản văn hóa thổ cẩm cần đặc biệt quan tâm toàn diện hơn nữa, để thổ cẩm truyền thống của từng vùng miền, địa phương, tộc người vốn dĩ đã đẹp lại càng hoàn mỹ hơn trong bức tranh văn hóa chung của Việt Nam. Và đó cũng là thực hiện tiêu chí có tính nhân loại trong kỷ nguyên hội nhập toàn cầu về văn hóa mà UNESCO quan tâm: “giáo dục”, “biến đổi khí hậu”, “đa dạng văn hóa” – mà đa dạng văn hóa là sự sinh tồn của văn hóa trong mỗi quốc gia./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1. Diệp Trung Bình (1997), Hoa văn trên vải các dân tộc thiểu số vùng Đông Bắc Bộ Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     2. Diệp Trung Bình (2005), Hoa văn trên vải Dân tộc HMông, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     3. Từ Chi (2004), Góp phần tìm hiểu văn hóa tộc người, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     4. Bế Viết Đẳng (2006), Dân tộc học Việt Nam – Định hướng thành tựu nghiên cứu (1973 – 1998), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

     5. Đỗ Thị Hòa (2003), Trang phục các dân tộc thiểu số nhóm ngôn ngữ Việt – Mường và Tày – Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     6. Hải Liên (2001), Trang phục cổ truyền Raglai, Nxb Đại học quốc gia.

     7. Hoàng Lương (1988), Hoa văn Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     8. Hoàng Thị Mong, Ma Thị Tiên (1994), Trang trí dân tộc thiểu số, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     9. Linh Nga Nie Kdam (2010), Nghề thủ công truyền thống của các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Văn học.

     10. Nhiều tác giả (1984), Các dân tộc ít người ở Bình Trị Thiên, Nxb Thuận Hóa.

     11. Nhiều tác giả (2012), Người Gia Rai ở Tây Nguyên, Nxb Thông tấn.

     12. Lò Văn Sủn (2001), Hoa văn thổ cẩm, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     13. Chu Thái Sơn chủ biên(2000), Hoa văn cổ truyền Dăclăk, Nxb Khoa học Xã hội.

     14. Lê Ngọc Thắng – Lâm Bá Nam (1990), Bản sắc văn hóa các dân tộc ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     15. Lê Ngọc Thắng (1990), Nghệ thuật trang phục Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

     16. Đoàn Thị Tình (2017), Tính dân tộc trong trang phục sân khấu, Nxb Sân khấu, Hà Nội.

     17. Trần Từ (1996), Hoa văn Mường ở Hòa Bình, Nxb Thời đại, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 54 (04/2019) 1-8

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Giá trị văn hóa thổ cẩm các dân tộc Việt Nam kế thừa và phát huy
(Tác giả: Đoàn Thị Tình)