Giới thiệu Đông Sơn huyện Thiều Thốn Từ Bi
Tác giả bài viết: HỒNG PHI – LA ĐỨC MẬU
(Đông Sơn, Thanh Hóa)
Văn bia này xưa kia thờ Đại vương Thiều Thốn. Theo gia phả, họ Thiều sống Triệu Hạ, Thiệu Đông (nay thuộc Đông Tiến, Đông Sơn, Thanh Hóa) Thủy tổ là Cụ Thiều Kim Tinh đến đời cụ Thiều Thốn thuộc hệ thứ 3, là khai quốc công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng quân, Thượng tể kiêm Kim ngô vệ, Phò mã Đô úy, Thượng trụ quốc. Đời sau, gia phong mỹ tự là Phù vận, Tế thế, An dân, Hộ quốc, Dực thánh, Hoằng hưu, Trung lộc Hiển hựu, Phổ trạch, Chí nhân, Hậu đức, Dũng cảm, Khoát đạt, Đại độ, Khoan nhân, Trung chính, Long ân, Hiển túc, Công cao, Đức mậu, Diên ứng, Hiển linh Đại Vương.
Cũng theo gia phả họ Thiều do có công dẹp loạn xâm lược Chiêm Thành, nên Ngài được vua Trần Dụ Tông gả công chúa yêu Trần húy Ngọc Chiêu. Công chúa hiền đức, nết na, chim sa, cá lặn…
Văn bia này do Tả Thị lang Bộ Hình, Bồi tụng, Lộc Duyên hầu Nguyễn Trừng soạn tháng 3 năm Canh Dần (tháng 3-1650) niên hiệu Khánh Đức thứ 2 vua Lê Thần Tông.
Sau chiến tranh chống Pháp, phần lớn đền chùa miếu mạo ở Thanh Hóa đều bị triệt phá. Đền thờ này cũng trong tình trạng đó. Bia bị mất. Đồ tế khí cũng bị mất mát! Hiện nay đền thờ này đã được khôi phục lại. Dòng họ Thiều cũng sưu tầm được 5 sắc phong của Triều Nguyễn gia phong cho Ngài và Công chúa, trong đó có 4 sắc thời Tự Đức, 1 sắc thời Duy Tân.
Hiện nay, cụm di tích đền thờ lăng mộ Đại vương Thiều Thốn đã được công nhận Di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia theo Quyết định số 53 ngày 18/01/1993 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin.
Phần văn bia khai thác trên mạng intenet. Người sưu tầm đã căn cứ theo phiên âm để phục chế lại bằng chữ Hán là Thạc sĩ La Đức Mậu cán bộ Sở Giáo dục và Đào tạo Thanh Hóa. Phần dịch thuật do dịch giả Hồng Phi nguyên Chủ nhiệm khoa Ngoại ngữ + Hán Nôm trường ĐH Hồng Đức hiệu đính và chú thích.
Do khai thác dựa trên phiên âm chắc chắn không tránh khỏi sai sót. Rất mong các vị thức giả lượng thứ, đồng thời cũng xin các quý vị độc giả ai biết gì thêm về nội dung tấm bia này xin cung cấp để tấm bia được hoàn thiện.
Phiên âm:
ĐÔNG SƠN HUYỆN THIỀU THỐN TỪ BI
Hoàng nguyệt, Anh phô, Trinh thục, Phương dung, Gia ngôn, Ý hạnh, Nhu ý, Từ thuận, Thuần nhất, Đoan trang, Lạn tư, Chiếu nghị, Quảng huệ, Cẩn tiết, Huy mụ, Tề trang, Trung chính, Tiên hoa, Xuân sắc, Phương nhan, Dung quang, Lạc đức, Y đức, Ôn hòa: Trinh thuận Công chúa.
Khai quốc công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng công, Thượng tể kiêm Kim ngô vệ, Phò mã, Đô úy, Thượng trụ quốc, gia phong Kim ngô vệ, phù vận, tế thế, an dân, hộ quốc, dực thánh, hoằng hưu, truy lộc, hiển hựu, phổ trạch, chí nhân, hậu đức, dũng cảm, khoát đạt, đại độ, khoan nhân, trung chính, long ân, hiển túc công cao, đức mậu, tế chúng, thùy hưu, diên ứng, Hiển linh đại vương.
Thạch bi tịnh thi:
Thượng thư viết: Thần tử hữu công ư quốc ư dân tắc phụng tự chi. Sở dĩ biểu tôn công chiêu nguyên tự giả.
Cung duy: Công chúa tính Trần húy Chiêu, Dụ Tông hoàng đế chi diệu nữ giả. Tổ chi công tích lũy bách niên chi đức, tôn chi công bồi nhất mạch chi nhân. Thiên sinh thánh nữ lạc nhạn chi tư, trầm ngư chi sắc, nhân hậu liên chu tộc chi lân, nhân duyên vọng Đường chi tước.
Ngưỡng duy: Đại vương tính Thiều danh Thốn, Thiệu Đông, Triệu Hạ chi kỳ nam giả, phụ chi tộc thuộc vô bất thừa xa, mẫu chi tộc vô bất y cẩm, thế định lệnh công kỳ lân dị chủng, hổ báo kỳ thao quán tam quân chi dũng, đa bách chiến chi lao, công danh cái thiên hạ, trung dũng mãn triều đình.
Ngưỡng kiến: Long môn cấp đạt, nhạn miệt lễ hoàn, hữu thành loan phượng, tường ứng hùng bưu, niên niên phú quý, nhật nhật vinh hoa, vị đô tam thái, lộc thực vạn chung, vinh phong chúng tử, sủng quán quần thần, khâm thừa triều mệnh, xuất trấn Bình Giang, thế tổ hữu úy an chi chiếu, công tôn vô hiềm cụ chi tâm, tước di tử tính, lộc hưởng chung thân.
Duy: Công tại xã tắc đức bị sinh dân, cung phụng quốc ân, nhất như hoàng ân, anh linh tại thiên, diệp tứ kim tiền, gia tặng nhất dĩ vương tá, tinh trung huyền nhật, lũy ban tứ cáo, bao phong trước nhập tự điển, kiến lập linh từ, thiên niên quang trở đậu, vạn cổ trần càn khôn, dục ký thực sự nhân trung thiểm văn thiểm, tuy phú vinh kỳ thân ư tiền, bất nhược hiển kỳ danh ư hậu.
Công chúa thượng thiên ngọc nữ, hạ giới thần tiên, tam quang chính khí, vạn đại phúc thần. Đại vương nhân trung hào kiệt, thế thượng anh hùng, tinh chữ ngũ nhạc, huyết thực thiên thu, xuân thu tải hạ, mục tư minh giả. Đoan bái công chúa chi anh phong lẫm lẫm, nhược tồn khấu tư văn giả, cảnh nhường Đại vương nguy nguy kỳ đức, thị phất kiến, thính phất văn, ư thị lặc kim thạch bá thanh thi dĩ thọ kỳ truyền văn.
Quyến quyến Trần công chúa
Toàn cư họa đế trụ
Thanh thanh phượng thái ngang
Uyển uyển nga mi tú
Quy bốc khiết chu giao
Phượng hoàng hài Quách thú
Tử linh nhuận kim chi
Tôn từ vi ngọc thụ
Anh anh sương khí lãng
Miếu thực càn khôn thọ
Am khởi tự Đông Sơn
Quy lân kê vọng phan
Lục thao Khương giảng tập
Bách chiến Tín gian nan
Phong định công thần thưởng
Vinh tiến thượng tể ban
Phượng từ tác giai phối
Lân nhi bố hảo quan
Nam thiên nguy nga miếu
Mặc tướng quốc gia an.
Long hiệu Khánh Đức vạn vạn tuế Canh Dần tam nguyệt
Phủ liêu bồi tụng tham hộ quốc gia sự vụ. Dực vận tán trị công thần Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu. Hình bộ Tả thị lang Lộc Diên hầu Nguyễn Công soạn.
Dịch nghĩa:
BIA ĐỀN THỜ THIỀU THỐN Ở HUYỆN ĐÔNG SƠN (*)
Hoàng nguyệt, Anh phô, Trinh thục, Phương dung, Gia ngôn, Ý hạnh, Nhu ý, Từ thuận, Thuần nhất, Đoan trang, Lạn tư, Chiếu nghị, Quảng huệ, Cẩn tiết, Huy mụ, Tề trang, Trung chính, Tiên hoa, Xuân sắc, Phương nhan, Dung quang, Lạc đức, Y đức, Ôn hòa: Trinh thuận Công chúa.
Khai quốc công thần, Đặc tiến Phụ quốc Thượng tướng công, Thượng tể kiêm Kim ngô vệ, Phò mã, Đô úy, Thượng trụ quốc gia phong Kim ngô vệ, phù vận, tế thế, an dân, hộ quốc, dực thánh, hoằng hưu, truy lộc, hiển hựu, phổ trạch, chí nhân, hậu đức, dũng cảm, khoát đạt, đại độ, khoan nhân, trung chính, long ân, hiển túc công cao, đức mậu, tế chúng, thùy hưu, diên ứng: Hiển linh đại vương.
Bia đá và thơ:
Sách Thượng thư viết: Những bậc thần tử có công với nước với dân thì phải phụng thờ để biểu thị công lao cao cả soi rõ việc thờ cúng đầu tiên.
Cung kính nghĩ:
Công chúa họ Trần tên húy Chiêu là con gái yêu quý của vua Trần Dụ Tông. Công tích của tổ tiên đã từng tích đức hàng trăm năm. Công lao của dòng dõi đã từng vun đắp nhân đạo theo cùng một mạch. Trời sinh thánh nữ, nhan sắc cá lặn chim sa. Nhân hậu như kỳ lân đời Chu. Duyên đẹp như chim sẻ đậu trên bức bình phong của nhà Đường(1).
Ngẩng trông: Đại vương họ Thiều tên Thốn – Người con trai kỳ lạ, ở Triệu Hạ, Thiệu Đông. Tộc thuộc cha không ai là không cưỡi xe. Họ của mẹ không người nào là không mặc áo gấm. Trời sinh ra lệnh công giống khác của Kỳ Lân lạ, thao lược thần kỳ của loài hổ báo, dũng mảnh nhất ba quân. Công lao bách chiến, danh tiếng trùm thiên hạ, trung dũng nức triều đình.
Ngẩng thấy: Cửa rồng vượt bậc(2), nhạn rẽ lễ xong, duyên nên loan phượng, điềm ứng gấu hùm, năm năm phú quý, ngày ngày vinh hoa, ngôi hàng Tam thái(3), lộc hưởng muôn chung. Vinh phong nhiều con cháu, sủng ái nhất quần thần. Khâm mệnh triều đình trấn thủ Bình Giang. Thế tổ được chiếu nhà vua an ủi. Cháu con ông không có lòng sợ hãi. Phẩm tước để lại cho con cháu họ hàng. Lộc hưởng trọn đời…
Kính nghĩ: Công tại xã tắc, đức khắp sinh dân, kính vâng ơn nước, một mực ơn vua, anh linh trong trời đất, sắc ban kim tiền gia tặng vì một lòng phò tá nhà vua. Lòng tinh trung treo cao như vầng nhật nguyệt. Bao lần ban thưởng, sắc tứ bao phong được ghi vào tự điển, được xây dựng linh từ, ngàn năm sáng đồ thờ phụng, muôn thuở giữa đất trời. Muốn ghi lại sự thực: nhân nghĩa, trung trinh. Tôi ghi lại bài văn này. Để thấy rõ tuy phú quý vinh hoa ở đời trước chi bằng để làm rạng rỡ cái danh ở đời sau.
Công chúa là Ngọc Nữ trên trời, là Thần Tiên hạ giới, tam quang chính khí(4), muôn thuở phúc thần.
Đại vương là bậc anh hùng trong loài người, là bậc hào kiệt trong thế gian, tinh anh tích trữ trong ngũ nhạc(5), được hưởng huyết thực ngàn năm hương khói. Mắt ai nhìn bài minh này hãy nghiêm trang sùng kính công chúa như thấy cả phong thái tinh anh lẫm liệt như đang tồn tại. Nhìn vào bài văn này tưởng niệm tôn thờ đức độ của Đại vương cao vòi vọi, trông chẳng thấy nghe chẳng hay. Mênh mang linh thiêng còn đó cầu tất ứng, cảm tất thông. Cho nên phải khắc vào bảng vàng bia đá bài văn thơ này mãi mãi thọ kỳ truyền:
Thơ rằng:
Trần Công chúa quý yêu
Vốn dòng dõi đế vương
Duyên dáng cặp mày ngài
Thanh thanh đôi mắt phượng
Bói rùa Châu tộc(6) ước,
Duyên phượng Quách gia đường (7).
Cháu con tươi cây ngọc
Dòng dõi đượm cành vàng
Anh linh sương khí giáng
Miếu mạo đất trời quang
Rùa lân quay múa lượn
Quanh am dựng Đông san
Lục thao Khương(8) giảng tập,
Trăm trận Tín(9) gian nan.
Công thần phong định thưởng,
Thượng tể chức vinh ban.
Lân nhi giỏi việc quan.
Phượng tử vui duyên lứa,
Trời nam nguy nga miếu,
Giúp nước nhà bình an.
Niên hiệu Khánh Đức, Lê triều Thần Tông thứ 2, tháng 3 năm Canh Dần (3-1650).
Phủ liêu Bồi tụng, Tham hộ quốc gia sự vụ. Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến Kim tử Vinh đại lộc phu, Tả Thị lang Bộ Hình, Lộc Diên hầu Nguyễn Trừng soạn.
Hồng Phi dịch
Chú thích:
(*) Thiều Thốn (sinh ngày 03/3/1326 – mất ngày 08/8/1380. Thọ 55 tuổi).
(1) Chim sẻ: Theo Đường thư, Lý Uyên lúc còn trẻ tuổi có tài mạo khác thường, từng bắn trúng con chim sẻ trong bức bình phong nên lấy được vợ hiền, sau làm nên nghiệp lớn.
(2) Cửa rồng vượt bậc: Tức vũ môn tam cấp lãng ở sông Trường Giang Trung Quốc, chân núi có cái vực rất sâu. Mùa Thu đến, cá đua nhau tới đó nhảy thi. Còn nào nhảy qua ba bậc sóng thì sẽ hóa rồng. Tích này dùng để nói những người thi cử đỗ đạt. Trong Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu) có câu: “Vũ môn ba bậc rắp hầu nhảy qua”.
(3) Tam Thái cũng như Tam Công: Ba chức lớn nhất của triều đình phong kiến xưa gồm Thái sư, Thái phó, Thái bảo.
(4) Tam quang chính khí: Ba chính khí sáng rực gồm mặt trời, mặt trăng, các vì sao.
(5) Ngũ nhạc: 5 ngọn núi cao, tiêu biểu cho ngũ phương: Hành Sơn, Nam Nhạc, Hoa Sơn, Trung Sơn, Thái Sơn.
(6) Châu Trần: Chỉ hai họ Châu và họ Trần đời đời hẹn ước hôn nhân với nhau. Truyện Kiều có câu: “Châu Trần nào có Châu Trần nào hơn”.
(7) Họ Quách ở Trung Quốc. Có nhiều dòng họ Quách, qua nhiều triều đại, đều là dòng dõi lá ngọc cành vàng như: Quách Uy nhà Hậu Chu (904-953), Quách Thái (128-169) đời Đông Hán, Quách Gia (170-207) thời Tam Quốc, Quách Tử Nghi đời Đường…
(8) Khương: tức bà Khương Nữ nước Tề, có tài đức, giúp vua giữ vững triều chính.
(9) Tín: tức Hàn Tín một danh tướng thời Hán Cao Tổ Lưu Bang. Sau bị Lữ Hậu vợ Hán Cao tổ giết hại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
– Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy chú.
– Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn.
– Khảo sát truyền thống văn hóa Đông Sơn của Trần Thị Liên./.
Nguồn: Tạp chí Hán Nôm, Số 2(93) 2009; Tr. 79 – 83
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)