Hát bội Bình Định ở đình, miếu
LASCIVIOUSNESS’S BINH DINH IN VILLAGE COMMUNAL HOUSES, TEMPLES
Tác giả bài viết: Thạc sĩ ĐÀO THỊ NHU MÌ
(Nhạc viện TP.HCM)
TÓM TẮT
Bài viết này trình bày sinh hoạt hát bội Bình Định ở đình, miếu, là hai không gian diễn xướng tiêu biểu thuộc không gian thiêng của Hát bội Bình Định. Hát bội Bình Định phổ biến trong những sinh hoạt tế lễ tại đình, miếu; vừa để dâng cúng thần thánh, vừa để phục vụ nhu cầu giải trí của người dân trong và ngoài tỉnh Bình Định.
Từ khóa: đình, miếu, không gian diễn xướng, không gian thiêng, hát bội Bình Định…
ABSTRACT
This article provides information about the lasciviousness’s Binh Dinh in village communal houses, temples, two of the typical performing spaces in the sacred space of lasciviousness’s Binh Dinh. The lasciviousness’s Binh Dinh is popular among ceremonial activities in village communal houses temples; offering worship to the gods, satisfying the entertainment needs of the people in and outside the province of Binh Dinh.
Keywords: village communal houses, temples, performing space, scared space, lasciviousness’s Binh Dinh…
x
x x
1. Đặt vấn đề
Hát bội Bình Định (còn gọi là hát bội Đào Tấn) là một trong những phong cách của nghệ thuật sân khấu hát bội truyền thống Việt Nam. Hát bội Bình Định hình thành từ thế kỷ XVII nhờ công lao của Đào Duy Từ, phát triển rực rỡ ở thế kỷ XIX nhờ vai trò to lớn của Đào Tấn. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, hát bội Bình Định vẫn tồn tại trong đời sống của người dân Bình Định.
Hát bội Bình Định rất có giá trị trong đời sống người Bình Định. Thế kỷ XIX, hát bội Bình Định đã đạt đến cực thịnh, phổ biến, lan rộng, ảnh hưởng khắp cả miền Trung và Việt Nam. Việc nghiên cứu không gian đình, miếu – không gian diễn xướng Hát bội Bình Định để thấy được đặc điểm và giá trị của không gian đình, miếu đối với sự tồn tại của hát bội Bình Định trong đời sống tinh thần của người dân Bình Định nói riêng và người dân vùng duyên hải Nam trung bộ nói chung và để góp công lưu truyền, gìn giữ Hát bội Bình Định đến mai sau.
Bài viết này tập trung vào đối tượng nghiên cứu là không gian đình, không gian miếu (thuộc không gian diễn xướng của hát bội Bình Định). Nghiên cứu không gian diễn xướng (đình, miếu) của hát bội Bình Định ở Bình Định và ở những nơi hát bội Bình Định diễn ra (không giới hạn về mặt địa lý) trong thời gian khoảng 10 năm gần đây (2006-2015).
Bài viết sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính như sau:
Phương pháp so sánh: So sánh không gian diễn xướng (đình, miếu) của hát bội Bình Định và của hát bội ở nơi khác, như Bắc bộ, Nam bộ, Trung bộ (Bắc trung bộ và các tỉnh Nam trung bộ khác).
Phương pháp khảo sát thực địa: Tìm hiểu không gian diễn xướng hát bội Bình Định thông qua việc tham dự các buổi biểu diễn hát bội; khảo sát các hoạt động tổ chức và biểu diễn của các đoàn hát bội Bình Định…
2. Một số khái niệm cơ bản
2.1. Khái niệm “không gian diễn xướng”, “không gian thiêng”:
Không gian diễn xướng của Hát bội Bình Định chính là nơi (không gian cụ thể: đình, miếu, lăng, đền, sân khấu, nhà…), các điều kiện hình thức (lễ hội, tập tục…) cùng với thời gian (ngày giờ, tháng…) diễn ra quá trình sinh hoạt Hát bội Bình Định (ở trong và ngoài tỉnh Bình Định). Không gian diễn xướng của hát bội Bình Định gồm hai loại: không gian thiêng (không gian thờ cúng) và không gian đời thường. Không gian thiêng là không gian gắn với các hoạt động sinh hoạt hát bội ở các cơ sở thờ tự như đình, miếu, đền, chùa, lăng… Không gian đời thường là không gian tách khỏi các hoạt động ở các cơ sở thờ tự. Hát bội Bình Định gắn bó với hai không gian diễn xướng này.
Qua kết quả khảo sát của chúng tôi từ các tờ hợp đồng diễn của các đoàn hát bội Bình Định (từ 2006 đến 2015), không gian diễn xướng hát bội Bình Định gồm có 350 địa điểm phổ biến khắp trong và ngoài tỉnh Bình Định. Trong đó, không gian thiêng gồm 308 địa điểm (chiếm 88%) và không gian đời thường gồm 42 địa điểm (chiếm 12%). Xem Hình 1. Sơ đồ không gian diễn xướng hát bội Bình Định.
Trong 308 địa điểm không gian thiêng, đình (27 cái) chiếm 9%, miếu (181 cái) chiếm 59%, lăng (75 cái) chiếm 24%, đền (8 cái) chiếm 2%), chùa (5 cái) chiếm 2%, từ đường (12 cái) chiếm 4%. Xem Hình 2. Sơ đồ không gian thiêng của hát bội Bình Định.
2.2. Khái niệm “hát bội”, “hát bội Bình Định”:
Hát bội là một trong ba loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam (Hát bội, Chèo, Cải lương). Hát bội được hình thành vào thế kỷ XIII ở miền Bắc Việt Nam; phát triển rực rỡ ở thế kỷ XIX ở miền Trung nhờ sự bảo hộ của triều đình nhà Nguyễn và suy yếu vào đầu thế kỷ XX. Đến nay, hát bội đã được nhà nước quan tâm và đang dần dần phục hồi. Hát bội thể hiện tính tổng hợp cao về hát, múa, kịch, văn học, mỹ thuật, võ thuật…
Hát bội thể hiện tính chất tượng trưng, ước lệ, cách điệu cao nhất trong ba loại hình nghệ thuật sân khấu. Trong nghệ thuật biểu diễn hát bội, nhiều quy tắc, kỹ thuật biểu diễn, trình thức, mô hình nhân vật… đã hình thành, tạo nên đặc trưng của hát bội Việt Nam.
Về thuật ngữ, hát bội còn gọi là hát bộ hay tuồng. Có nhiều người giải thích khác nhau về nguồn gốc các thuật ngữ này. Tuy nhiên, chúng đều chỉ là tên gọi của một loại hình nghệ thuật sân khấu truyền thống Việt Nam, xuất hiện từ xa xưa và tồn tại đến ngày nay ở Việt Nam.
Theo Trần Văn Khải, gọi là “hát bội” vì xuất phát từ chữ “bội” trong “gia bội”, “bội nhị” (thêm gấp hai gấp ba lần), tức chỉ loại nghệ thuật sân khấu dùng lối ca hát, múa may, làm điệu bộ được cách điệu lên rất nhiều [Trần Văn Khải 1970: 2,3].
Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng cho rằng, “bội”: là hát kịch, diễn kịch, diễn tuồng [Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng 1970: 249]. Theo Đoàn Nồng, gọi là “hát bộ” vì người ta cho rằng đây là loại nghệ thuật sân khấu “vừa hát, vừa đi và làm bộ tịch để biểu diễn cảm giác, cảm tình với câu hát”. Và tên gọi này cũng xuất phát từ “Học bộ đình” (tên của nhà dạy hát bội của Đào Tấn) mà ra [Đoàn Nồng 1942: 9].
Trong nhiều tài liệu, các nhà nghiên cứu cho rằng, tên gọi “hát bộ” chỉ xuất hiện sau “hát bội”, khi cải lương mới hình thành, nhằm phân biệt với cải lương (thời kỳ đầu chỉ có hát mà ít làm điệu bộ) [Vũ Ngọc Liễn 2001: tr.75-80]. Tuy nhiên, cải lương hoặc chèo cũng vừa hát vừa làm điệu bộ. Vì thế tên gọi này cũng chưa hợp lý. Còn tên gọi “tuồng” xuất hiện những năm đầu thế kỷ XX ở miền Bắc, chỉ cách biểu diễn có tuồng tích, cốt truyện, được xem là cách gọi không hợp lý vì cải lương hay chèo cũng có tuồng tích. Tên gọi “tuồng” xuất hiện sau cùng, chỉ lối biểu diễn có tuồng có tích của loại hình nghệ thuật sân khấu này.
Như vậy, chúng tôi cho rằng, “hát bội” là tên gọi hợp lý nhất vì nó chỉ sự cách điệu cao về điệu bộ – đây là nét đặc trưng loại hình nghệ thuật này. Tên gọi này cũng là tên gọi xuất hiện sớm nhất ở Việt Nam và cũng phổ biến ở Bình Định (phát âm theo tiếng địa phương Bình Định là “hát bậu”). Vì thế, trong bài viết này, chúng tôi sử dụng tên gọi “hát bội” thay cho “hát bộ”/ “tuồng” vì xét trên ý nghĩa của tên gọi gắn với đặc trưng của nghệ thuật sân khấu hát bội.
Hiện nay, ở Việt Nam, có ba phong cách hát bội chính: phong cách hát bội (tuồng) miền Bắc, phong cách hát bội miền Nam và phong cách hát bội (hát bộ) miền Trung. Hát bội Bình Định/ Hát bội Đào Tấn là thuật ngữ chỉ tên gọi của một trong những phong cách hát bội của miền Trung, tiêu biểu cho dòng hát bội Trung bộ ở Việt Nam. Hát bội Bình Định là tên gọi của phong cách hát bội được hình thành và tồn tại ở Bình Định. Đào Tấn là người có công lớn trong việc hình thành dòng Hát bội này ở Bình Định mà đến nay nó được lưu truyền qua các thế hệ học trò của Đào Tấn ở Bình Định. Vì vậy, để chỉ một phong cách hát bội được hình thành nhờ góp công to lớn của Đào Tấn mà hát bội Bình Định cũng được gọi tên là hát bội Đào Tấn.
3. Phân bố và tổ chức biểu diễn hát bội Bình Định ở đình làng
Đình là một tòa nhà năm gian hai chái. Mái đình lợp ngói âm dương. Nóc đình đắp lưỡng long chầu nguyệt. Mặt tiền của đình sau một lần cửa võng là lớp cửa bàn khoa. Nội thất đình gồm hoành phi, liễn đối, long ngai, thần chủ rực rỡ vàng son. Nhiều hoa văn, họa tiết chạm khắc trên mái, trên rui, trên kèo, trên trính… Bên cạnh đình là những nhà tả gian, hữu gian và những hành lang. Đình có sân rộng ở trước, có bình phong, trụ biểu với nhiều nghè đá, sư tử đá ở trong sân và ngoài cùng là cửa Tam quan. Làng lớn như làng An Ngãi, làng Biểu Chánh, đình làng 7 gian 2 chái, có ao sen trước đình rộng tới mấy mẫu đất. Đa số các ngôi đình ở Bình Định đều hướng mặt vào Nam, chỉ có một ít đình do thuật phong thủy mới quay mặt hướng khác, như đình Thái Thuận quay mặt ra hướng Bắc…(1) Đình làng là nơi được người dân lập ra là để thờ vị Thành hoàng. Tượng Thành hoàng ngồi trên long ngai đặt trên bàn thờ giữa, các bàn hai bên thờ các bộ hạ của Thành hoàng. Nếu không có tượng Thành hoàng thì có thần chủ, bài vị thay thế. Khác với đình làng Bắc bộ chỉ thờ vọng Thành hoàng. Ở Bình Định, mỗi làng có vị Thành hoàng riêng, thường xuất thân từ dân gian, rất gần gũi với dân. Mỗi làng nghề thờ mỗi vị. Làng nghề dệt thờ người có công dạy dân nghề canh cửi. Làng đúc đồng thờ người đem nghề đúc đồng về làng. Tuy nhiên, cũng có làng như làng Háo Đức, đình làng thờ ông Quan Vân Trường và các ông Quan Bình, Châu Xương (thời Tam quốc). Làng An Định thờ thầy đồ Trần Văn Huấn, quê ở đâu không rõ, đến đây mở trường ngồi dạy học, bên cạnh đình có lập nhà thờ “Ông Lớn” (là Lê Đình Xuân, người ở trong làng, nhờ đỗ khoa thi võ mà được ra làm quan võ triều Nguyễn). Dân coi vị Thành hoàng nào cũng là Phúc thần, luôn phù hộ độ trì cho những dân làng lương thiện.(2)
Các nơi khác mỗi làng là một dòng họ và lập nên một đình làng. Riêng ở Bình Định, một làng thường có nhiều dòng họ sinh sống nên 9 thôn (hoặc 5 thôn) sẽ lập nên một đình làng(3). Ngày nay, số đình làng hiện còn không nhiều. Tuy nhiên, nơi nào ở Bình Định còn đình làng thì nơi ấy vẫn còn giữ tục hát bội cúng đình.
Từ xưa đến nay, Bình Định có lệ cúng đình “Xuân Thu nhị kỳ” – mỗi năm 2 lần vào mùa Xuân (lễ kỳ yên / cầu an) và mùa Thu (lễ tạ ơn) vào khoảng tháng 1 và tháng 8 ÂL. Ở Nam bộ thì thường 3 năm cúng một lần. Vào những dịp này, dân làng Bình Định thường mời gánh hát bội về diễn nhiều đêm liền. Giờ khởi ca (hát thứ lễ) là để cúng thần thánh. Những đêm hát tiếp sau mới để cho dân xem.
Theo kết quả khảo sát địa điểm diễn hát bội Bình Định của chúng tôi từ các tờ hợp đồng diễn của các đoàn hát bội Bình Định ở đình làng (từ 2006 đến 2015), có 27 đình làng diễn ra hát bội Bình Định hàng năm, trong đó, 23 đình ở Bình Định (chiếm 85%) và 4 đình (chiếm 15%) ở ngoài tỉnh Bình Định. (Xem Hình 4. Tỉ lệ phân bố đình làng diễn ra hát bội Bình Định ở trong và ngoài tỉnh Bình Định).
Theo số liệu thống kê gần đây nhất vào năm 2012 của tỉnh Bình Định, tổng số đình làng được nhà nước công nhận là di sản văn hóa còn tồn tại ở Bình Định gồm có 9 đình. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi, hiện nay, Bình Định có khoảng 23 đình làng (kể cả các đình làng chưa lập hồ sơ công nhận di sản) trong cả tỉnh. Hát bội Bình Định gắn liền với nghi lễ cúng tế ở các đình này. Các đình làng Bình Định tập trung ở các nơi như: Tuy Phước, An Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Quy Nhơn… Ví dụ: Đình An Quang (x. Cát Khánh, h. Phù Cát), Đình An Thường (x. Ân Thạnh, h. Hoài Ân), Đình Hưng Lương (x. Nhơn Lý, TP. Quy Nhơn), Đình Lạch (KV8, Nhơn Bình, TP. Quy Nhơn); Đình làng An Phú (th. Phú Mỹ 2, x. Phước Lộc, h. Tuy Phước)… Tổng số 23 đình làng trên được phân bố ở: Tuy Phước (7 đình), Quy Nhơn (5 đình), An Nhơn (4 đình), Hoài Nhơn (2 đình), Tây Sơn (2 đình), Phù Mỹ (1 đình), Phù Cát (1 đình), Hoài Ân (1 đình). Như vậy, đình làng tập trung nhiều nhất là ở Tuy Phước, Quy Nhơn và An Nhơn. An Nhơn và Tuy Phước đều là những làng hát bội nổi tiếng của tỉnh Bình Định. (Xem Hình 5 và Hình 6).
Thời gian diễn ra hát bội cúng đình là từ tháng 1 đến tháng 8 âm lịch (tập trung vào tháng 1, tháng 2, tháng 3, tháng 7, tháng 8 âm lịch). Ngoài ra, hiện nay, các đoàn hát bội Bình Định còn lưu diễn ở một số đình làng ngoài tỉnh như: Quảng Ngãi (1 đình), Ninh Thuận (1 đình), Bình Thuận (2 đình); vào tháng 3, tháng 7, tháng 8, tháng 11 âm lịch. Các buổi diễn trong dịp cúng đình ở Bình Định thường kéo dài 2, 3 đêm liền. Riêng ở ngoài tỉnh, hát bội Bình Định diễn ra ít nhất là 3 đêm liền.
Buổi hát thứ lễ cúng đình ở Bình Định sẽ diễn ở nhà võ ca, mục đích cho thần thánh xem. Trong các buổi hát tiếp sau trong dịp cúng đình, người ta dựng rạp hát ở sân đình, mặt sân khấu cũng phải hướng vào đình để có không rộng rãi hơn cho người dân thưởng thức.
Khán giả và diễn viên hát bội Bình Định trong lễ cúng đình đều với lòng tạ ơn và cầu mong sự bình an, may mắn, thành công cho năm mới. Các vở diễn cúng đình thường là: “Cổ thành”, “Huê Dung Lộ”, “Tam chiến Lữ Bố”, “Trương Phi thủ cổ thành”, “Quan Công phò Nhị Tẩu”… nhằm ca ngợi tâm đức của những vị thần thánh trong đình làng. Ở Nam bộ thường diễn vở “Sơn Hậu” (hồi 3) khi cúng đình. Và cuối buổi diễn hát bội cúng đình luôn phải có phần “Tôn Vương” với lời lẽ chúc tụng sự bình an, thịnh vượng cho làng xóm, mọi người. Có đoàn hát bội Nam bộ còn kết thúc màn tôn vương bằng cách giơ cao tấm liễn với các chữ “cầu chúc an khang thịnh vượng”…
Ngày xưa, tục hát bội cúng đình phổ biến khắp Trung bộ cho đến Nam bộ. Ngày nay, tục này đã giảm đi rất nhiều vì số lượng đình làng hoặc gánh Hát bội ngày nay đã giảm nhiều. Một số tỉnh ở Bắc trung bộ tuy còn đình làng nhưng lại không có hát bội dịp tế lễ, như: Thừa Thiên Huế: đình làng Thai Dương Hạ (lễ: “trò bủa lưới”, hội: ngày trước có Hát bội, nay không có)… Còn các tỉnh Nam trung bộ thì nơi nào còn đình làng thì thường có hát bội tế lễ, trong đó, tiêu biểu là tỉnh Bình Định. Các tỉnh khác, hiện nay, trong tế lễ cúng đình ít khi có hát bội (như TP. Đà Nẵng – đình làng Hòa Mỹ, đình làng An Hải), thường là Bả trạo… Hoặc không tổ chức hát bội (như ở Ninh Thuận). Do tập tục, tín ngưỡng và thói quen thưởng thức hát bội của người dân Bình Định cùng với sự phong phú các đoàn hát bội trong tỉnh nên tất cả cuộc tế lễ ở đình làng Bình Định đều gắn với hát bội. Một số tỉnh khác như Ninh Thuận, Bình Thuận, Quảng Ngãi… đã mời các đoàn Hát bội Bình Định diễn cúng đình làng.
Phổ biến trong dịp cúng đình làng ở Bắc trung bộ hoặc Trung trung bộ ngày nay thường hiếm khi có hát bội mà phổ biến với những loại hình nghệ thuật khác như: Hát nhà trò, Hát Kiều… ở Quảng Bình.(5); Chèo bả trạo ở Quảng Nam; Hát xoan ở Phú Thọ, Vĩnh Phúc; Hát quan họ ở Bắc Ninh… Ở Nam bộ, hát bội (cùng với cải lương) vẫn phổ biến trong nghi lễ cúng đình với các đoàn như: đoàn hát bội TP. Hồ Chí Minh, đoàn hát bội Ngọc Khanh… nhưng không để cúng thần ở phần lễ (là lễ “xây chầu, đại bội”) mà chỉ có ở phần hội. Còn hát bội ở Bình Định đều có cả ở lễ (cúng 1 buổi hát) và hội (nhiều đêm hát).
Một số đình làng Nam bộ tiêu biểu có tổ chức hát bội cúng đình là: TP. Hồ Chí Minh: đình Phú Nhuận (ở q. Phú Nhuận; 16-18/1 ÂL), đình Bình Đông (q. 8; 12- 13/2 ÂL). Đồng Nai: đình Tân Lân (p. Hòa Bình, TP. Biên Hòa; 12-14/2 ÂL). Bà Rịa – Vũng Tàu: đình Thắng Tam (17-20/2 ÂL). Tiền Giang: đình Kiểng Phước (x. Vàm Láng, h. Gò Công Đông; 9/3 ÂL), đình Vĩnh Lợi (Vĩnh Bình, Gò Công Tây; 14- 16/12 ÂL). TP. Cần Thơ: đình Bình Thủy (14-15/4 ÂL và 15/12 ÂL). Bạc Liêu: một số đình vào dịp lễ kỳ yên vào mùa xuân. An Giang: đình Châu Phú (h. Châu Phú; 10- 12/5 ÂL). Một số đình làng ở các tỉnh Nam bộ khác không có hát bội mà thường là Hát bóng rỗi, Chặp địa nàng, Đờn ca tài tử…
Ở Bắc bộ, hiếm khi thấy diễn hát bội dịp cúng đình, trừ ở hội đình Dư Hàng (18/2 ÂL, ở Hải Phòng), lễ hội đình làng Đình Bảng (12-15/2 ÂL; tx. Từ Sơn, t. Bắc Ninh), lễ hội đình làng Từ Phong (9/3 ÂL; th. Từ Phong, x. Cách Bi, h. Quế Võ, t. Bắc Ninh) có diễn hát bội cùng với chèo…(6)
4. Phân bố và tổ chức biểu diễn hát bội Bình Định ở miếu
Miếu có kiến trúc nhỏ hơn đình. Xung quanh miếu có bờ thành (cắm miểng chai), cổng vào có nhà ngõ, trụ biểu, bình phong… Mặt tiền miếu thường xây trấn thủy, sẵn đó đắp tên miếu bằng chữ Hán (cũng có miếu đề chữ Quốc ngữ). Nếu đình là nhà chung của cả làng thì miếu là nhà chung của xóm để thờ các bộ hạ của các vị thần linh. Hầu hết các làng đều có miếu thanh minh, nhiều làng có miếu Hà bá, miếu Mục Đồng (miếu Thần Nông) ở bên bến sông, giữa đồng.(7)
Ở miền Bắc, người dân cũng có tục cúng thanh minh nhưng không cúng trong miếu. Ngược lại, ở miền Trung, tục cúng thanh minh trở nên phổ biến ở miếu. Ở Bình Định cũng vậy, hàng năm đều có cúng thanh minh. Đình miếu ở Bình Định thường thờ cúng những người có công khai lập làng (Thành hoàng làng), khi qua đời, họ được gọi là những “tiền hiền khai khẩn”, “hậu hiền khai cơ”. Trong dịp cúng thanh minh, ngoài việc tảo mộ gia tiên, người dân còn tảo mộ cho các ngôi mộ vô chủ. Nhiều miếu ở thôn xóm Bình Định đã thờ những vong hồn này. Thời gian cúng thanh minh vào khoảng 3 giờ, 4 giờ sáng hoặc buổi trưa (sau khi tảo mộ xong). Hát bội Bình Định cũng gắn liền với tục cúng miếu, đặc biệt là vào dịp thanh minh cuối tháng hai và hết tháng ba âm lịch hàng năm. Người dân đồng lòng góp công, góp của để cúng miếu, mời đoàn hát bội về diễn dịp cúng thanh minh với quan niệm rằng, ở đâu cũng có Thành hoàng, Thổ địa, cô hồn nên “có thờ có thiêng, có kiêng có lành”.
Ở Bình Định ngày xưa, mỗi thôn có nhiều miếu, mỗi xóm có ít nhất một miếu. Ngày nay, số lượng miếu cũng đã giảm đi rất nhiều nhưng tục cúng miếu vẫn diễn ra như thường lệ. Hiện nay (2015), sở thống kê của tỉnh Bình Định chưa thống kê số lượng miếu còn tồn tại ở Bình Định (chỉ thống kê số đình miếu được công nhận là di sản văn hóa). Theo khảo sát của chúng tôi (căn cứ trên các tờ hợp đồng diễn), Bình Định hiện còn rất nhiều miếu. Có khoảng 181 miếu ở Bình Định vẫn còn diễn ra Hát bội thường niên vào dịp tế lễ như: miếu/“chùa” Thanh Minh (“Thanh Minh Tự”; thờ thành hoàng làng…), miếu Bà/“chùa Bà” (thờ bà Thiên Hậu…), miếu Ông/“chùa Ông” (thờ Quan Công thánh đế), miếu Mục Đồng (thờ Thần Nông), miếu âm hồn (miếu Cô bác/nghĩa tự)… Ngoài ra, các đoàn hát bội Bình Định còn lưu diễn ngoài tỉnh, ở các miếu thờ (bà Thủy, bà Thiên Hậu…), gồm 18 miếu, tập trung ở các tỉnh: Quảng Ngãi, Gia Lai, Phú Yên…
Theo thống kê của chúng tôi (từ 2006 đến 2015), tổng số miếu có diễn hát bội Bình Định là 181 miếu, phân bố ở các nơi như:
Trong tỉnh Bình Định (161 miếu, chiếm 89%): h. Tuy Phước (51miếu), tx. An Nhơn (46), TP. Quy Nhơn (27), h. Phù Cát (17), h. Tây Sơn (16), h. Phù Mỹ (3), h. Hoài Nhơn (2).
Ngoài tỉnh Bình Định (19 miếu, chiếm 11%): t. Phú Yên (8), t. Khánh Hòa (5), Quảng Ngãi (2), t. Vũng Tàu (2), t. Gia Lai (1), t. Bình Phước (1).
Miếu thường nằm ở khoảng đất trống trong mỗi xóm. Trong buổi hát đầu tiên để dâng cúng thần thánh, diễn viên hát ngay trước cửa miếu. Trong không gian diễn xướng này, cả diễn viên và khán giả đều ấp ủ lời cầu xin, lòng tạ ơn, chúc tụng các vị thần thánh, các cô bác… trong miếu để được các vị phù hộ, ban ơn. Các buổi hát tiếp theo, người ta thường dựng rạp hát bội cách mặt đất khoảng 2m, mặt sân khấu hướng đối diện miếu để cho thần thánh cùng người dân xem.
Giờ khởi ca trong buổi hát bội cúng miếu hiện nay thường là 0 giờ, hoặc 3 hay 4 giờ sáng, hoặc 14 giờ chiều. Giờ hát khởi ca sẽ thay đổi tùy từng năm, từng miếu và tùy vào giờ tốt. Thời gian diễn ra hát bội Bình Định trong lễ hội cúng miếu thường kéo dài từ 3 đến 4 đêm (trong tỉnh) hoặc từ 5 đến 7 đêm (ngoài tỉnh).
Những vở hát thứ lễ (khởi ca) thường là các vở truyền thống, được ban tổ chức của miếu yêu cầu để phù hợp với các vị thần thánh thờ trong miếu. Chẳng hạn, ở miếu Ông – thường hát “Quan Công phò Nhị Tẩu”, “Cổ thành”…; ở miếu Bà – hát “Huê Thần Nữ dâng ngũ linh kỳ”… Các vở diễn của những đêm hát tiếp sau sẽ do người dân địa phương chọn, thường là các tuồng tiểu thuyết: “Bóng đen nghĩa hiệp”, “Tái sanh kỳ ngộ”…
Các miếu ở các tỉnh lân cận như Gia Lai, Quảng Ngãi, Khánh Hòa, Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Thuận… thường mời các đoàn hát bội Bình Định đến diễn khi tế lễ. Riêng các miếu ở Nam bộ thường không diễn hát bội mà diễn Bóng rỗi, Chặp địa nàng… Còn các tỉnh Bắc bộ thì thường là Hát xoan, Hát quan họ, Ca trù, Chầu văn, Xẩm… Trừ vài miếu ở Bắc bộ thì có hát bội như ở: hội đền bà Chúa Kho (miếu Giảng Võ) ở Hà Nội…
5. Kết luận
Nếu như ở miền Bắc, hát Chèo, hát Quan họ… phổ biến khắp vùng nông thôn; miền Nam có Cải lương, thì miền Trung, đặc biệt là Bình Định, hát bội rộn rã khắp nơi vào dịp tế lễ, hội hè. Bình Định là cái nôi của dòng hát bội miền Trung, là đất hát bội có lượng khán giả say mê, am hiểu hát bội nhiều hơn nên cũng là không gian diễn xướng thuận lợi để hát bội tồn tại lâu bền hơn các tỉnh khác.
Trong không gian thiêng (308 địa điểm biểu diễn hát bội Bình Định), không gian miếu là chiếm tỉ lệ cao nhất (59%), tiếp theo là lăng (24%), sau đó đến đình (9%) và thấp nhất là đền và chùa (2%). Không gian diễn xướng đình, miếu của hát bội Bình Định không chỉ giới hạn về mặt địa lý (trong tỉnh Bình Định) mà còn mở rộng ra các tỉnh khu vực duyên hải Nam trung bộ đến Bà Rịa, Vũng Tàu. Nhờ sự di dân từ miền Trung vào Nam trong nhiều giai đoạn lịch sử nên tục hát bội phục vụ ở các cơ sở thờ tự trở nên phổ biến. Ngoài ra, ở Bình Định, lực lượng các đoàn hát bội vẫn còn nhiều và mạnh hơn các tỉnh khác. Hiện nay, tuy số lượng đoàn hát bội ở Bình Định đã giảm hơn nhiều so với trước nhưng với hơn 6 đoàn hát bội dân gian và 1 đoàn chuyên nghiệp (được nhà nước đầu tư) hoạt động mạnh nhất trong và ngoài tỉnh, như các đoàn hát bội: Phước An, An Nhơn, Tuy Phước, Ánh Dương, Trần Quang Diệu, Sông Côn, Nhơn Hưng, Nhà hát tuồng Đào Tấn. Theo thông tin từ các trưởng đoàn hát bội Bình Định, mỗi đoàn biểu diễn ít nhất là 100 suất hát trong một năm. Riêng các đoàn hát bội dân gian, mỗi đoàn diễn trung bình khoảng 150 suất/ năm (mỗi suất là 3 tiếng đồng hồ; giá hiện nay (2015) khoảng 5 – 7 triệu/suất)(11). Trong suốt mùa lễ hội, nhất là từ tháng 1 đến tháng 8 âm lịch hàng năm, các đoàn hát bội Bình Định biểu diễn khắp nơi trong tỉnh và mở rộng không gian diễn xướng ra ngoài tỉnh. Các đoàn hát bội ở các tỉnh khác cũng có nhiều suất diễn hàng năm nhưng không nhiều bằng các đoàn Hát bội Bình Định. Chẳng hạn, Đoàn hát bội TP. Hồ Chí Minh hằng năm diễn khoảng 150 suất theo chỉ tiêu của nhà nước nhưng họ chỉ diễn nhiều vào dịp cúng đình làng Nam bộ (gần 30 suất diễn). Đoàn hát bội Ngọc Khanh (đoàn dân gian) cũng chỉ diễn nhiều vào dịp cúng đình miếu, khoảng vài chục suất.(12) Gánh hát bội Đồng Thinh (ở Vĩnh Long) diễn gần 70 suất.(13) Còn với hơn 7 đoàn hát bội Bình Định, mỗi đoàn thường diễn trung bình khoảng 100 đến 150 suất mỗi năm. Như vậy, qua các hoạt động của các đoàn hát bội Bình Định cho thấy, không gian diễn xướng hát bội Bình Định là rất rộng (cả trong và ngoài tỉnh) và phong phú nhất.
Hát bội Bình Định là một trong những phong cách tiêu biểu của loại hình nghệ thuật sân khấu hát bội truyền thống Việt Nam. Không gian diễn xướng là một trong những yếu tố quan trọng góp phần quyết định sự tồn tại của hát bội Bình Định. Đình, miếu là nơi thường xuyên tổ chức các tế lễ thờ cúng các vị: Thành hoàng làng, bà Thiên Hậu, bà Mụ (bà Chúa thai sanh)… Hát bội luôn có mặt trong các dịp cúng tế này. Thời gian tổ chức hát bội Bình Định ở đình miếu diễn ra hằng năm (từ tháng 1 đến tháng 8 âm lịch) và tập trung nhất là từ tháng 1 đến tháng 3 âm lịch; biểu diễn từ 3 đến 7 đêm liền.
Hát bội Bình Định không chỉ diễn ra giới hạn trong tỉnh Bình Định mà còn mở rộng ra các tỉnh ven biển khác như Quảng Ngãi, Phú Yên, Bình Thuận, Ninh Thuận, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Phước, TP. Hồ Chí Minh… Nhờ các phong tục, tập quán cúng tế… ở đình miếu của người dân Bình Định nói riêng và ngư dân vùng duyên hải Nam trung bộ nói chung, hát bội Bình Định có thêm điều kiện tốt để được lưu truyền, tồn tại phổ biến đến ngày nay. Trong không gian diễn xướng này, hát bội Bình Định có thêm điều kiện để tồn tại và phổ biến trong đời sống của người dân Bình Định nói chung và người dân vùng duyên hải Nam trung bộ nói riêng. Từ đó, góp phần hình thành phong cách hát bội Bình Định. Như vậy, việc duy trì và phát huy không gian diễn xướng đình, miếu của hát bội Bình Định là một trong những việc làm quan trọng, cấp bách, để hát bội Bình Định luôn trường tồn.
Chú thích:
1) Theo Huỳnh Kim Bửu (2-9-2009), “Đình làng”:
http://www.phatgiaobaclieu.com/content/view/882/51/
2) Theo Văn Hiến (17-01-2012), “Đình làng An Định (An Nhơn, Bình Định)”:
http://vntimes.com.vn/danh-lam/dinh-chua/883-dinh-lang-an-dinh-an-nhon-binh-dinh.
html
3) Theo Đinh Bá Hòa (2012): Văn hóa – Xã hội Bình Định. – Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội, tr.257, 258.
4) Ảnh: Huỳnh Chương Hưng, 04/7/2014, “Đình Vinh Thạnh”:
http://www.huynhchuong hung.com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuocloc-huyen.html
5) Theo Lưu Đức Hải (19-1-2014), “Phong tục thờ cúng cộng đồng ở Cao Lao Hạ”:
http://caolaoha.com/?language=vi&nv=news&op=thong-cao-bao-chi/Phong-tuc-tho-cungcong-dong-o-Cao-Lao-Ha-147
6) Theo Phạm Trình – Trần Minh (biên soạn) (2012), Hành Trình lễ hội Việt Nam, NXB. Đồng Nai; tr.149, 153, 191.
7) Theo Huỳnh Kim Bửu: “Kiến trúc ở làng quê Bình Định”:
http://vanhoaphatgiaoblog.com/nghien-cuu/kien-truc-o-lang-que-binh-dinh.html
8) Ảnh: Huỳnh Chương Hưng, 04/7/2014, “Đình Vinh Thạnh”:
http://www.huynhchuonghung.com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuocloc-huyen.html
9) Ảnh sưu tầm:
http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=18&macmp=18&mabb=2113
10) Ảnh: H. Khá: http://annhon.binhdinh.gov.vn/listdetail.php?listid=84&id=90
11) Thông tin từ các trưởng đoàn Hát bội dân gian Bình Định (năm 2014, 2015).
12) Theo Thanh Hiệp, 8/8/2015, “Sân khấu hát bội sẽ đi về đâu”:
http://sankhau.com.vn/news/san-khau-hat-boi-se-di-ve-dau.aspx
13) Theo Phạm Thị Bình, 22/2/2013, “Bầu Răng, người tâm huyết với gánh hát bội Đồng Thinh”:
http://baotintuc.vn/doi-song-van-hoa/bau-rang-nguoi-tam-huyet-voi-ganh-hat-boidong-thinh-20130222082249803.htm
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thị Bình (22/02/2013), Bầu Răng, người tâm huyết với gánh hát bội Đồng Thinh: http://baotintuc.vn/doi-song-van-hoa/bau-rang-nguoi-tam-huyet-voi-ganh-hat-boidong-thinh-20130222082249803.htm
2. Huỳnh Kim Bửu (02/9/2009), Đình làng:
http://www.phatgiaobaclieu.com/content/view/882/51/
3. Huỳnh Kim Bửu, Kiến trúc ở làng quê Bình Định:
http://vanhoaphatgiaoblog.com/nghiencuu/kien-truc-o-lang-que-binh-dinh.html
4. Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng (1970), Hát Bội, Kim Lai ấn quán, Sài Gòn, tr. 249.
5. Lưu Đức Hải (19/1/2014), Phong tục thờ cúng cộng đồng ở Cao Lao Hạ:
http://caolaoha.com/?language=vi&nv=news&op=thongcao-bao-chi/Phong-tuc-tho-cung- cong-dongo-Cao-Lao-Ha-147
6. Văn Hiến (17/01/2012), Đình làng An Định (An Nhơn, Bình Định):
http://vntimes.com.vn/danh-lam/dinh-chua/883-dinh-lang-andinh-an-nhon-binh-dinh.html
7. Thanh Hiệp (08/8/2015), Sân khấu hát bội sẽ đi về đâu: http://sankhau.com.vn/news/
san-khau-hat-boi-se-di-ve-dau.aspx
8. Đinh Bá Hòa (2012), Văn hóa – Xã hội Bình Định, Nxb Văn hóa Thông tin Hà Nội, tr. 257-258.
9. Huỳnh Chương Hưng (04/7/2014), Đình Vinh Thạnh:
http://www.huynhchuonghung.com/2014/07/anh-inh-vinh-thanh-xa-phuocloc-huyen.html
10. H. Khá, Lễ hội vía Bà:
http://annhon.binhdinh. gov.vn/listdetail.php?listid=84&id=90
11. Trần Văn Khải (1970), Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam – Hát Bội, Cải lương, Thoại kịch, Thanh Trung Tư Xã, Sài Gòn, tr. 2-3.
12. Sao Ly (13/4/2013), Vào mùa thanh minh:
http://www.baobinhdinh.com.vn/viewer.aspx?macm=18&macmp=18&mabb=2113
13. Trần Minh – Phạm Trình (biên soạn) (2012), Hành trình lễ hội Việt Nam, Nxb Đồng Nai, tr.149-153-191.
14. Đoàn Nồng (1942), Sự tích và Nghệ thuật Hát Bội, Mai Linh xuất bản, tr. 9.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn, Số 12 (37) – Tháng 2/2016
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Hình ảnh: Quý độc giả vui lòng xem tệp PDF đính kèm bên dưới.
Download file (PDF): Hát bội Bình Định ở đình, miếu (Tác giả: ThS. Đào Thị Nhu Mì) |