Hầu hội trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Đà Lạt, Lâm Đồng (Phần 2)

Tác giả bài viết: BÙI THỊ THOA
(Trường Đại học Khoa học Đà Lạt)

4. Ảnh hưởng của hầu hội đối với những người đi theo tín ngưỡng này

     4.1. Những ảnh hưởng tích cực về sức khỏe và tinh thần

     4.1.1. Đối với các thanh đồng và những người được phán là có căn mạng

     – Hầu hội giúp chữa bệnh, giải tỏa những căng thẳng về tâm sinh lý:

     Cũng như nhiều thầy Shaman trên thế giới, các ông đồng bà đồng Việt Nam nói chung “không phải là những người tự nguyện đến với tín ngưỡng thờ Mẫu, chủ yếu họ bị đẩy đến việc phải ra đồng” (Ngô Đức Thịnh, 2007: 108). Tại Đà Lạt, trước khi ra đồng, hầu hết những thanh đồng dòng hầu hội đều có những biểu hiện bất thường, dân gian gọi là có “căn mạng”, như có những bất thường về tinh thần, đau ốm thập tử nhất sinh… Cũng có trường hợp, các thế hệ trước của thanh đồng đã từng theo nghiệp này nên còn gọi là có “gien”, dân gian gọi là “đồng mẹ cốt con”; song trường hợp này không nhiều.

     Hầu hết những người có “căn đồng” tại Đà Lạt từng là người bệnh nặng, chữa chạy nhiều nơi không khỏi, thậm chí có trường hợp đã bị bệnh viện trả về, nhưng khi đến cửa Mẫu được phán là bị “bệnh âm”, làm lễ trình đồng mở phủ, trở thành thanh đồng thì bệnh khỏi hẳn.

     Bà N.T.K.C năm nay 80 tuổi, chủ một ngôi đền thờ Mẫu miền Trung tiêu biểu tại Đà Lạt cho biết: khi còn bé, bà thường đau ốm, cha mẹ chạy chữa nhiều nơi không khỏi và cũng chẳng biết là bệnh gì. Khoảng năm 10 tuổi, bà được các thánh “chấm đồng”(7) và đã ra trình đồng mở phủ, trở thành thanh đồng từ năm 1948. Từ đó đến nay, bà luôn thực hiện nghi lễ hầu thánh, sau mỗi lần như vậy bà đều cảm thấy khỏe mạnh và khoan khoái hơn, sức khỏe cũng luôn ổn định, công việc gia đình cũng khá thuận buồm xuôi gió.

     Cô đồng L.T.B.T, sinh năm 1995, hiện sống tại đường Nhà Chung – Đà Lạt là một ví dụ khác. Cô đã tốt nghiệp Trường Cao Đẳng nghề Đà Lạt, hiện đang là nhân viên trực tổng đài cho một hãng taxi trong thành phố. Theo lời kể của bà T.T.L (mẹ thanh đồng L.T.B.T), năm cô 10 tuổi có theo mẹ đến tham dự lễ hầu đồng tại đền Bảo Hương Linh Từ (7B – Trần Phú) được đồng đền phán rằng cô có căn đồng, đến năm 19 tuổi phải ra đồng/trình đồng để hầu thánh. Từ năm 15 tuổi đến trước lễ trình đồng (diễn ra ngày 26/11/2016 âm lịch), L.T.B.T thường đau ốm liên miên không rõ nguyên nhân, hay mất ngủ hoặc có những giấc mơ rất kỳ lạ; cha mẹ đưa cô đi khám nhiều nơi nhưng chẳng ra bệnh gì. Hai năm gần đây, gia đình đã dẫn cô đi xem bói các nơi như Lâm Hà, Đạh Tẻ đều được các thầy đồng bói phán có căn Tứ phủ nên phải ra hầuđồng mới hết bệnh được. Khi nghe vậy, bà T.T.L đã quyết định làm lễ trình đồng cho con tại Đà Lạt.

     Chiều ngày 26/10/2016 âm lịch, chúng tôi có dịp tham dự lễ trình đồng chính thức của cô L.T.B.T và thực sự ngạc nhiên vì thần thái và sự linh hoạt lộ rõ trên khuôn mặt cũng như trong từng hành động. Bởi chỉ trước đó 2 tuần, cô còn tỏ ra rất mệt mỏi và chậm chạp trong một lễ hầu mà chúng tôi có tham dự. Qua trao đổi, bà T.T.L cho biết: “sau lễ thục mạng cô đã khỏe hẳn ra, thấy người nhẹ nhõm và thoải mái hơn(!)”.

     Trường hợp bà N.T.N, quê gốc Thừa Thiên Huế, 82 tuổi, hiện sinh sống tại phường 4 Đà Lạt cũng là một ví dụ. Trước khi trở thành thanh đồng bà cũng thường xuyên có những biểu hiện bất thường về sức khỏe, đau ốm hoặc có những giấc mơ kỳ lạ như được các thánh dạy âm, công việc làm ăn thường thất bại, thậm chí phải bán cả nhà. Sau đó, bà có đến cửa Mẫu và tham dự một số vấn hầu hội của người Huế tại Đà Lạt và thấy khỏe ra, tinh thần thoải mái. Sau đó bà đã ra đồng mở phủ và trở thành thanh đồng. Đến nay, bà N.T.N đã hầu thánh gần 50 năm.

     Qua một số ví dụ trên cho thấy, trước khi trở thành thầy đồng, hầu hết các thanh đồng dòng hầu hội tại Đà Lạt đều trải qua một số bất thường về sức khỏe tinh thần và thể chất. Với việc tham gia vào nghi lễ lên đồng, các ông đồng bà đồng đã tự đưa họ vào trạng thái mà các nhà nghiên cứu gọi là “tự ám thị” về sự tồn tại của thần linh và khao khát được thông quan với thần linh để cầu xin sự che chở, phù hộ của lực lượng siêu nhiên ấy. “Chính trong môi trường tự biến đổi ý thức đó, cái vô thức trỗi dậy, giúp ông đồng, bà đồng giải tỏa nhiều ức chế tâm thần mà đó chính là nguồn gốc của nhiều hiện tượng tâm sinh lý như điên loạn, bệnh tật, kết tóc, cơ đày…” (Ngô Đức Thịnh, 2007: 174).

    Theo Nguyễn Kim Hiền (2004: 362), “Việc lên đồng mang một khoái cảm đặc biệt đối với người tham dự, nó như một phương thức trị liệu có tác dụng giải tỏa căng thẳng và thăng hoa, đặc biệt đối với nhiều người phụ nữ xưa, cuộc sống phần lớn chịu nhiều ức chế. Chẳng thế mà người ta có câu „Thứ nhất ngồi đồng, thứ nhì lấy chồng quan‟”. Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh (2007: 193-194) cũng cho rằng, “Điều đó cũng giải thích một hiện tượng mang tính toàn cầu là các thầy Shaman (thầy đồng) trước khi ra đồng thường hay bị đau ốm, điên loạn nhưng sau khi ra đồng trở thành thầy đồng (Shaman) thì mọi chuyện lại như bình thường như chưa có gì xảy ra. Hoặc khi đã ra đồng rồi nhưng không thường xuyên ngồi đồng (mỗi năm ít nhất 1, 2 hoặc 3 vấn) thì họ dễ bị trở lại trạng thái khủng hoảng tâm sinh lý ban đầu”.

     Theo bà N.T.K.C, giai đoạn 1980 đến 1990, khi Đảng và Nhà nước chủ trương bài trừ mê tín dị đoan, “[t]rong thời gian ấy, mọi hoạt động liên quan đến tục thờ, nhất là hầu đồng đều bị ngăn cấm. Tuy nhiên, tín ngưỡng thờ Mẫu và nghi lễ hầu hội của cư dân gốc miền Trung tại Đà Lạt vẫn như một mạch nguồn âm ỉ tồn tại cho đến tận ngày nay. Bởi đã là thanh đồng, thì không thể không hầu thánh. Ít nhất một năm phải bắc ghế hầu từ 1 đến 2 lần nếu không bản thân tôi cũng cũng như những thanh đồng khác sẽ cảm thấy thiếu thốn một điều gì đó rất quan trọng trong cuộc sống” (Phỏng vấn sâu, nữ thanh đồng N.T.K.C, Đà Lạt). Với họ, hầu đồng chính là một niềm hạnh phúc, nó mang đến cho họ trạng thái vui tươi và hưng phấn.

     – Hầu hội giúp các thanh đồng có cơ hội sống đúng với bản chất con người thật của mình:

     Khái niệm đồng bóng thường được dùng để chỉ những ông Đồng bà Đồng. Trong thực tế, nhiều người trong số họ là những người đồng tính. Nếu là nam thường có tính cách ẻo lả, giọng nói the thé, tay chân mềm mại, múa rất khéo, thích trang điểm hoặc mặc đồ có màu sắc sặc sỡ… Nếu là nữ lại có giọng ồm ồm, tướng nam nhân, uống rượu, hút thuốc… Trong quá trình thực hiện các vấn hầu, ngoài giá của các vị Thánh có cùng giới tính, mỗi thanh đồng còn hầu rất nhiều giá của các vị thánh không cùng giới tính với mình: chẳng hạn, các bà Đồng trong giá các Quan Lớn, Ông Hoàng, Cậu; hoặc các ông Đồng với các giá Chúa, Chầu, Cô. Khi thực hiện những giá hầu dạng này, bản thân các ông Đồng, bà Đồng sẽ có cơ hội thể hiện những tính cách bấy lâu tiềm ẩn trong con người của họ mà chưa hoặc ít có cơ hội được thể hiện trong cuộc sống thường nhật.

     4.1.2. Đối với các con nhang, đệ tử

     – Tạo niềm tin trong cuộc sống

     Đại đa số những người tìm đến các điện thờ Mẫu thường gặp những khó khăn hoạn nạn trong cuộc sống, không hạnh phúc trong hôn nhân, hay làm ăn thất bại… Họ đến để cầu xin sự ban tài tiếp lộc, sự phù hộ che chở từ các vị thánh Tam phủ, Tứ phủ. Điều này có thể được giải thích theo lý thuyết tính đồng dạng của McPherson, L.S. Lovin.

     Theo quan niệm dân gian, mỗi vị thánh trong Tam phủ, Tứ phủ đều có những khả năng nhất định phù trợ cho con người trong mỗi lĩnh vực khác nhau: làm ăn buôn bán thì xin ở giá Chầu Đệ Nhị, công danh sự nghiệp thì xin ở giá Ông Hoàng Mười; muốn cắt duyên âm phải đợi đến giá Quan Đệ Ngũ Tuần Tranh, … Do đó các con nhang đệ tử ở Đà Lạt thường tham gia sinh hoạt tín ngưỡng tại các đền thờ Mẫu, đặc biệt là các vấn hầu hội để cầu xin sức khỏe, tài lộc, may mắn… Mỗi khi các thánh giáng đồng, con nhang đệ tử và những người tham dự thường dâng lễ vật (bằng cách dùng tiền với số lượng tùy tâm cho vào chiếc dĩa nhỏ để dâng lên các thánh) kèm theo lời tấu xin. Sự chứng nhận của các thánh trong mỗi vấn hầu mang lại sự “đảm bảo” và sự lạc quan cho người tham dự về một tương lai tươi sáng hơn(!)

     – Nâng cao nhận thức và trân trọng những giá trị truyền thống của dân tộc

     Trước hết, cũng như một số hình thức sân khấu cổ truyền, lên đồng nói chung và hầu hội nói riêng có sự kết hợp âm nhạc, lời hát, nhảy múa, điệu bộ, lời nói, kịch câm, trang phục và các vật dụng. Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa lên đồng với một số hình thức sân khấu truyền thống ở chỗ: nếu sân khấu truyền thống chỉ mang tính giải trí thì lên đồng – còn mang lại giá trị tâm linh cho cả người hầu đồng cũng như người xem.

     Lên đồng hay hầu hội là “một nguồn văn hóa, là một kho tàng của nhiều loại hình nghệ thuật truyền thống, là một cái giếng văn hóa” (Proschan, 2004: 271). Bằng việc diễn tả những hành động và điệu bộ đặc trưng của các nhân vật huyền thoại và lịch sử, lên đồng đã làm sống lại các nhân vật này. Mỗi vị anh hùng nào đó trong lịch sử Việt Nam đều có đền thờ riêng và được tái sinh trong các nghi lễ lên đồng như Ông Hoàng Bảy(8), Ông Hoàng Mười(9)… Thông qua các giá đồng, người xem có thể liên tưởng những chiến công của các vị Thánh và những truyền thống của dân tộc.

     Thứ hai, hiểu thêm về những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần truyền thống của dân tộc.

     Trong cuộc sống thường nhật hiện nay, những trang phục dạng cung đình xưa đã không còn tồn tại. Do đó, khi xem những vấn đồng, người xem được tận mắt chứng kiến những bộ trang phục của giới quyền quý và quan lại xưa. Dù hiện nay, qua sự sáng tạo của các nghệ nhân, trang phục trong các giá đồng không hoàn toàn giống trang phục của các quan lại xưa mà có phần đẹp hơn, phong phú. Những hoa văn được thêu trên áo của các vị Quan, Chầu, Ông Hoàng, Cô, Cậu là sự tôn vinh nghệ thuật thêu truyền thống của Việt Nam. Trong những giá hầu của các vị Thánh Tứ phủ, xuất thân từ dân tộc thiểu số (Dao, Tày, Nùng, Mường…)người xem có thể hình dung ra trang phục truyền thống của một số dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam – thậm chí cả những trang phục không còn sử dụng. Nhờ đó, trang phục nói riêng và văn hóa nói chung của các dân tộc thiểu số đã được lưu truyền và tái hiện. Đúng như nhận định của Frank Proschan (2004: 273): “Lên đồng đã tạo ra một loại “dân tộc học dân gian” – nơi mà ông Đồng, bà Đồng đã bộc lộ quan niệm về cách mà người dân tộc nhận biết, cách ăn mặc cũng như cách ứng xử. Giống như những nhà dân tộc học chuyên nghiệp, những người hầu đồng đã quan sát quần áo và hành vi của những người dân tộc láng giềng, rồi giới thiệu một số khía cạnh hoặc yếu tố của họ để cho người khác cùng chiêm ngưỡng”.

     Bên cạnh trang phục, hát văn cũng là một loại hình diễn xướng dân gian được thể hiện nhằm phục vụ cho nghi lễ hầu đồng. Dù không được đào tạo một cách bài bản, song sự biểu diễn của các “nghệ sĩ bình dân” trong mỗi vấn hầu ít nhiều đã giúp người tham gia được thưởng thức thể loại hát chầu văn, đặc biệt những điệu cờn, điệu xá… trong các giá Chầu, giá Cô còn tạo ra những xúc cảm mạnh mẽ, sự thăng hoa cần thiết trong cuộc sống nhiều lo toan, vất vả.

     4.2. Một số tác động không mong muốn của tín ngưỡng thờ Mẫu

     Bên cạnh những tác động tích cực, nghi lễ hầu đồng nói chung và hầu hội nói riêng vẫn còn tồn tại không ít những ảnh hưởng tiêu cực đối với xã hội. Ở các đền thờ Mẫu, nhiều trường hợp khách hàng là người thường xuyên đau ốm, thất bại trong công việc, muộn vợ muộn chồng hoặc không hạnh phúc trong hôn nhân… mỗi khi đến đây hay bị phán là có căn đồng. Thậm chí một số thầy đồng còn quan niệm ai cũng có căn đồng, mỗi người sinh ra đã hợp căn mạng với một vị thánh nào đó trong Tam phủ/Tứ phủ, chỉ là căn nặng hay nhẹ mà thôi(!) Có những trường hợp sau khi xem bói hoặc trong khi hầu đồng, thầy đồng đã phán truyền cho con nhang đệ tử và người tham dự những vấn đề như căn cao số nặng phải bắc ghế hầu thánh mới nhẹ nghiệp, hay duyên âm/tiền duyên rất nặng phải cắt nhiều lần với nhiều lễ khác nhau (xem thêm Bùi Thị Thoa, 2017: 50-64).

     Những lời “khuyên” như trên đã khiến không ít người hoang mang, thậm chí mù quáng tin theo dẫn đến việc phải đội bát nhang bản mệnh(10), nặng hơn là làm lễ trình đồng tiễn căn(11) hoặc trình đồng mở phủ trở thành thanh đồng… khiến họ phải chịu nhiều phí tổn, có khi lên đến vài chục triệu đồng. Một số người, thậm chí xây dựng điện thờ và đi theo con đường làm việc thánh, nhưng dù vậy những bất ổn của bản thân vẫn không được cải thiện. Bên cạnh đó, với tâm lý hầu đồng sẽ được các thánh ban tài tiếp lộc, nên ở Đà Lạt hiện nay một số người có điều kiện kinh tế, dù không được phán có căn đồng, cũng thực hiện các lễ hầu đồng, dẫn đến tình trạng loạn đồng bóng mà có người gọi là đồng đua, đồng đú. Những vấn hầu dạng này đang khiến hầu hội tại Lâm Đồng mất đi những giá trị truyền thống tích cực của tín ngưỡng này.

5. Kết luận

     Hầu hội là một trong hình thức hầu đồng đã và đang tồn tại trong sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu của cư dân Việt theo dạng thức miền Trung ở Đà Lạt, Lâm Đồng. Đặc trưng nổi bật của hầu hội là sự tham gia đông đảo của các thanh đồng, cách thức hầu theo cõi, số lượng hầu dâng ít, vàng mã đặc trưng là đồ chìm… Từ khi tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới, hoạt động hầu hội ở Đà Lạt ngày càng nhộn nhịp hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực như là một phương pháp trị liệu giúp những người có những bất ổn về tinh thần, thể chất hòa nhập cộng đồng; giúp một số thanh đồng có cơ hội sống thật với tính cách bản thân; chuyển tải các giá trị vật chất và tinh thần truyền thống của dân tộc…; hoạt động hầu hội vẫn tồn tại một số tác động không mong muốn. Không ít con nhang đệ tử trở thành nạn nhân của các trò lừa bịp, buôn thần bán thánh của một số thầy đồng kém đạo đức. Tình trạng biến tướng trong hoạt động hầu hội như đồng đua, đồng đú hay hầu đồng vì lợi lộc trần thế ít nhiều gây ảnh hưởng xấu đến sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đà Lạt. Để hầu đồng nói chung và hầu hội nói riêng tại Đà Lạt phát huy được những giá trị văn hóa hướng thiện, cần thiết phải có sự vào cuộc sát sao hơn nữa của các cấp chính quyền trong quản lý và định hướng. Cần nâng cao hiểu biết cho các thanh đồng và con nhang đệ tử về tín ngưỡng thờ Mẫu cũng như giá trị của nghi lễ hầu đồng; đồng thời có những biện pháp chế tài đủ mạnh đối với những người lợi dụng hầu đồng để trục lợi. 

    Chú thích:

     (1) Lễ trình đồng mở phủ: Những người có căn đồng ra trình đồng trong khóa lễ trình các giá hàng Quan Lớn giáng ứng đồng thầy để làm các thủ tục khai phủ gọi là trình đồng mở phủ. Sau lễ này, họ có thể mở phủ riêng để tự mình làm việc thánh và trở thành các thầy đồng thực sự.

     (2) Giá đồng: là khoảng thời gian từ khi thánh “nhập” đến lúc thánh “thăng” khỏi thân xác ông đồng, bà đồng. Do đó, một vấn hầu/buổi hầu có bao nhiêu vị thánh “về” thì có bấy nhiêu giá.

     (3) Ăn lộc: Đây là khái niệm dùng để chỉ một người nào đó hợp căn mạng với một vị thánh trong Tam phủ hoặc Tứ phủ, được vị thánh đó ban cho những năng lực siêu nhiên, có khả năng đoán định nhìn thấu được quá khứ, tương lai, vận mệnh của người khác…

     (4) Vấn hầu lễ: Là vấn hầu được tổ chức vào bất cứ ngày nào trong tháng (có thể trùng với ngày húy kỵ hoặc đản sinh của vị thánh nào đó trong Tam phủ, Tứ phủ). Trong vấn hầu này, các đồng thầy thường thực hiện một số công việc cho các con nhang đệ tử như trình đồng mở phủ, trình đồng tiễn căn, cắt duyên âm, trả nợ tào quan… cho khách hàng.

     (5) Vấn hầu vui: Được tổ chức vào các ngày đản sinh hay húy kỵ của vị thánh nào đó trong Tam phủ, Tứ phủ. Mục đích của nghi lễ này nhằm tưởng nhớ và tri ơn đối với các Thánh.

     (6) Chủ lễ: Có thể là đồng đền/chủ đền hoặc khách hàng có nhu cầu muốn nhờ các ông đồng bà đồng thực hiện nghi lễ nào đó mà cần có sự giáng đồng chứng tâm của các thánh thông qua lễ hầu đồng như lễ trình đồng mở phủ, lễ trình đồng tiễn căn, lễ phả độ gia tiên, hoặc cắt giải tiền duyên.

     (7) Chấm đồng: Khi các thánh về giáng đồng trong mỗi vấn hầu thường có những động tác múa kèm với những đạo cụ đặc trưng cho mỗi giá. Trong số những người tham dự, nếu các thánh nhận thấy có đệ tử nào phù hợp với họ, thanh đồng (bấy giờ chính là vị thánh) sẽ dùng đạo cụ đang múa để ban cho người ấy. Chẳng hạn trong giá Ông Hoàng Bẩy, khi Ngài về giáng và chấm đồng sẽ sử dụng chiếc hèo để ban cho một hoặc một số người tham dự. Người nào nhận được hèo có nghĩa là đã được Ông Hoàng Bảy chấm đồng.

     (8) Ông Hoàng Bảy: Vào cuối đời Lê niên hiệu Cảnh Hưng (1740-1786), khắp vùng Quy Hóa gồm Châu Thủy Vỹ và Châu Văn Bàn (thuộc Lào Cai bây giờ) luôn bị giặc phương Bắc tràn sang cướp phá, giết hại dân lành. Trước cảnh đau thương tang tóc ấy, tướng Nguyễn Hoàng Bảy được triều đình giao trọng trách khởi binh dẹp loạn vùng biên ải. Đội quân của ông tiến dọc sông Hồng đánh đuổi quân giặc, giải phóng Châu Văn Bàn và củng cố xây dựng Bảo Hà thành căn cứ lớn. Trong một trận chiến không cân sức với quân giặc, ông đã anh dũng hy sinh, thi thể ông trôi theo dòng sông Hồng tới Bảo Hà thì dạt vào bờ. Nhân dân trong vùng đã vớt, an tang thi thể ông và lập đền thờ tại đây để ghi nhớ công đức to lớn của ông (dẫn theo daomauvietnam.net.vn, 2017).

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

     1. Bùi Thị Thoa. 2017. “Cắt tiền duyên trong nghi lễ lên đồng của người Việt ở Lâm Đồng”. Tạp chí Khoa học xã hội (TPHCM), số 9.

2. Daomauvietnam.net.vn. 2017. “Đền Bảo Hà và sự tích ông hoàng Bảy”.
http://daomauvietnam.net.vn/tin-tuc/den-bao-ha-va-su-tich-ong-hoang-bay/, truy cập ngày 5/7/2018.

3. Bonnemaison. J. 2000. La géographie culturelle (do Maud Lasseur và Christel Thibault biên tập). Paris.

     4. Kroeber. A. L. 1948. Anthropology: Race, Language, Psychology, Prehistory. New York and Burlingame: Harcourt, Brace & World, Inc.

     5. Ngô Đức Thịnh. 2007. Lên đồng – Hành trình của thần linh và thân phận. TPHCM: Nxb. Trẻ.

     6. Nguyễn Hữu Thông. 2001. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam. Huế: Nxb. Thuận Hóa.

     7. Nguyễn Kim Hiền. 2004. “Lên đồng ở Việt Nam một sinh hoạt văn hóa tâm linh mang tính trị liệu”, trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.

     8. McPherson, Lynn Smith-Lovin and James M. Cook. 1987. “Homophily in Voluntary Organizations: Status Distance and the Composition of Face-to-Face Groups”, American Sociological Review.

     9. Proschan, Frank. 2004. “Lên đồng (Hầu bóng) – Kho tàng sống của di sản văn hóa Việt Nam”, trong Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.

     10. Trần Đại Vinh. 1995. Tín ngưỡng dân gian Huế. Huế: Nxb. Thuận Hóa.

     11. Trần Đại Vinh. 2017. “Tín ngưỡng thờ Mẫu và chư vị ở Thừa Thiên Huế”. Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 1.

     12. Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Lạt. 2008. Địa chí Đà Lạt. TPHCM: Nxb. Tổng hợp.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Xã hội, số 1 (245), 2019

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Hầu hội trong thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Đà Lạt, Lâm Đồng (Tác giả: Bùi Thị Thoa)