Hệ GIÁ TRỊ TINH THẦN TRUYỀN THỐNG người Việt trong thời hội nhập và phát triển

1. Giá trị và hệ giá trị truyền thống người Việt

     Việt Nam đã và đang bước vào thời kì phát triển đất nước và hội nhập thế giới trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, khoa học công nghệ,… Muốn thực hiện được những mục tiêu cao cả do Đảng và Nhà nước ta đặt ra, thì con người Việt được xác định là nhân tố quan trọng nhất và là điều kiện tiên quyết cho mọi thành công. Những chiến thắng vinh quang mà dân tộc ta đã giành được trong quá trình dựng nước, giữ nước đã được khẳng định và thừa nhận là dựa trên hệ giá trị tinh thần truyền thống người Việt Nam. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã khẳng định “Thắng lợi trong chiến tranh giữ nước, cũng như trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội chung quy là thắng lợi của con người Việt Nam. Đó là sức mạnh của giá trị Việt Nam” [4]. Chính vì vậy, từ xưa đến nay hệ giá trị tinh thần truyền thống của người Việt Nam luôn luôn là vấn đề mang tính thời sự thu hút sự quan tâm và nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước.

     Lịch sử loài người tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về giá trị, theo cách hiểu phổ quát thì giá trị gồm giá trị vật chất, giá trị tinh thần, giá trị tốt và giá trị xấu do con người sáng tạo ra. Giá trị tinh thần thường bao gồm giá trị khoa học, giá trị đạo đức, giá trị nghệ thuật, giá trị văn hoá, giá trị tôn giáo,… Tuy nhiên, giá trị phụ thuộc vào những yếu tố tự nhiên, bối cảnh lịch sử – xã hội, phương thức sản xuất, điều kiện kinh tế và những nhu cầu con người. C. Mác và Ăngghen đã khẳng định “bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [7]. Giá trị cũng như tính cách dân tộc và tâm lí dân tộc là sản phẩm của quá trình tư duy và sáng tạo. Nó là những giá trị tinh thần của người Việt Nam được tích luỹ qua quá trình lịch sử. Nó được coi là “hạt nhân” văn hoá dân tộc và bản sắc văn hoá Việt Nam. Hà Văn Tấn khi viết về bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam đã khẳng định sự tồn tại của tính cách dân tộc và tâm lí dân tộc: “Tâm lí dân tộc biểu hiện trong phong cách tư duy, lối ứng xử (hay hành vi), đồng thời biểu hiện ra trong tình cảm của dân tộc. Nó bị ức chế bởi các điều kiện tự nhiên mà trong đó cộng đồng đang tồn tại, điều kiện xã hội và điều kiện lịch sử” [12]. Như vậy, hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam do cộng đồng các tộc người ở nước ta sáng tạo, hun đúc theo tiến trình lịch sử của dân tộc. Phạm Minh Hạc cho rằng: “Hệ giá trị là các giá trị của một tập hợp người như dân tộc, thế giới, vùng, gia đình, bản thân” [4]. Hệ giá trị truyền thống là một hình thái của ý thức, của tinh thần, tuy nhiên nó còn phản ánh và biểu hiện trên hai phương diện giá trị văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần của người Việt Nam. Hệ giá trị tinh thần truyền thống do thế hệ người Việt sáng tạo ra và con người Việt là giá trị quan trọng nhất. Hay nói cách khác con người Việt là giá trị của mọi giá trị. Hệ giá trị tinh thần tốt người Việt luôn được kế thừa, phát huy và mang lại những thành tựu quan trọng cho dân tộc trong thời kì đổi mới. Ngược lại có những thói hư tật xấu của người Việt đang cản trở và tác động xấu đối với xã hội đương đại. Trần Trọng Kim đã viết: “Về đằng trí tuệ và tính tình, thì người Việt Nam có cả các tính tốt và các tính xấu” [6]. Hệ giá trị tinh thần truyền thống người Việt đã được các học giả trong nước quan tâm nghiên cứu ở những góc độ tiếp cận và những mục đích nghiên cứu khác nhau. Nhưng đa số các học giả khi lí giải hệ giá trị tinh thần truyền thống người Việt chủ yếu ca ngợi và đề cập đến những giá trị tốt, mà ít chú ý những thói hư tật xấu mang tính phản giá trị. Điều này chúng ta cũng dễ bắt gặp trong các công trình nghiên cứu về lịch sử của dân tộc Việt Nam, những sử gia phần lớn ca ngợi và tôn vinh những chiến công của dân tộc mà ít nói về sự thật về số lượng, hay phân tích sâu vào những thất bại của dân tộc khi chống lại kẻ thù. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho thế hệ trẻ chỉ được nghe, được nhìn những cái hay, cái tốt mà ít nhìn thấy thất bại, cái xấu của dân tộc mình để sửa đổi và có ý chí vươn lên. Vì thế, mà đôi lúc họ chưa hiểu rõ nguyên nhân của các mặt hạn chế trong hệ giá trị tinh thần truyền thống dân tộc. Cho nên, theo quan điểm và cách tiếp cận của người viết, thì hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam có thể chia thành hai hệ thống. Đó là hệ thống giá trị tinh thần tốt và các thói hư tật xấu người Việt mang tính phản giá trị. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang tính chất tương đối mà thôi, bởi vì có những giá trị tinh thần tốt người Việt sẽ trở thành giá trị nếu được thể hiện và phát huy đúng trong không gian, thời gian, với từng chủ thể và ngược lại.

     Thứ nhất, là hệ giá trị tinh thần truyền thống tốt của người Việt. Trần Trọng Kim đã viết: “trí tuệ minh mẫn, học chóng hiểu, khéo chân tay, sáng dạ, nhớ lâu, hiếu học, trọng học thức, quý sự lễ phép, trọng đạo đức, yêu hoà bình, can đảm, kỉ luật, sùng lễ bái, thương người, nhớ ơn. Người Việt từ Bắc chí Nam theo một phong tục, nói một thứ tiếng, cùng giữ một kỉ niệm, thật là cái tính đồng nhất của một dân tộc từ đầu đến cuối” [6]. Phan Kế Bính đã viết về người Việt: “trọng luân thường, cần kiệm, an phận làm ăn, tuân giữ phép nước, coi trọng gia đình, thích yên ổn, trọng sự học hành, trọng lễ nghĩa, thật thà, cẩn thận, trung hậu, hoà nhã, trầm tĩnh, khẳng khái, ngạnh trực, can đảm, quả quyết, kính bậc đạo đức, nhớ người ân nghĩa, trọng đường công nghiệp, giữ cái danh giá, có nghĩa khí, khoan dung, nhân đức, nhẫn nại, kiên cường, trọng ái tình…” [2]. Trong công trình của mình Đào Duy Anh đã hệ thống về những giá trị tốt của người Việt như: “thông minh, giàu trí nghệ thuật, trực giác, ham học, thích văn chương, giỏi chịu đựng, hi sinh vì đại nghĩa, dung hoà, trọng lễ giáo và chuộng hoà bình” [1]. Pierre Huard và Maurice Durand đã nhận định người Việt: “tuân phục thiên nhiên và tuân phục vũ trụ, trọng vương đạo và bá đạo, chấp nhận tất cả các giá trị cảm xúc, các phức cảm đạo đức và thẩm mĩ, logic, trung thành, tuân thủ lễ nghi trong gia đình, trọng ân nhân” [10]. Trần Văn Giàu đã hệ thống thành bảy giá trị tinh thần truyền thống người Việt:“yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người, vì nghĩa” [3]. Trong nghị quyết TW5 khoá VIII của Đảng ta đã nêu 12 giá trị: “lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc; tinh thần đoàn kết; ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc; lòng nhân ái; lòng khoan dung; trọng nghĩa tình; trọng đạo lí; đức tính cần cù; sự sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử; tính giản dị trong lối sống” [3]. Vũ Khiêu đã viết và so sánh về hệ giá trị của người Việt truyền thống: “Hệ thống giá trị ở Phật giáo bắt đầu là đức từ bi; ở Nho giáo là trung hiếu; nhưng ở truyền thống Việt Nam lại là Độc lập, Tự do, biểu hiện ở tình cảm và đạo đức của con người thành chủ nghĩa yêu nước” [5]. Theo kết quả một viện nghiên cứu xã hội Mĩ cũng đưa ra bảng giá trị người Việt: “cần cù lao động, thông minh, sáng tạo, khéo léo, thực tế, ham học có khả năng tiếp thu nhanh, xởi lởi, chiều khách xong không bền, tiết kiệm, có tinh thần đoàn kết trong những hoàn cảnh khó khăn, yêu hoà bình, nhẫn nhịn” [8]. Như vậy, hệ thống những giá trị tinh thần truyền thống tốt của người Việt đã được nghiên cứu và khẳng định thông qua các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước. Đó là những giá trị tinh thần tốt đẹp và cũng là thể hiện bản sắc của văn hoá Việt Nam đã được hun đúc qua nhiều thế hệ người Việt. Vì vậy, chúng ta cần bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị cao đẹp của người Việt một cách linh hoạt, phù hợp trong thời hội nhập và phát triển đất nước.

     Thứ hai, là những thói hư tật xấu người Việt nhìn từ góc độ phản giá trị. Người viết lược trích một số quan điểm của người nước ngoài, các học giả nghiên cứu trong nước đã đưa những nhận xét về thói hư tật xấu người Việt. Trước hết là Lý Tiên Căn người Trung Quốc đã nhận xét về người Giao Chỉ dưới thời Bắc thuộc: “Dân Giao Chỉ cũng có học, biết chữ, ưa thích những điều quái dị. Không có thầy trao truyền về việc học, họ học nhưng không biết quán thông, ham chuộng việc quỷ thần, tính đồng cốt, không theo hai đạo, họ cho người nào có tài mồm mép, nói khoe là có công” [3]. Những đặc điểm hạn chế của người Việt cũng được phản ánh thông qua cái nhìn và sự nhận xét của người phương Tây khi họ đến giao thương và truyền giáo như người Anh, người Pháp, người Italia… Thế kỉ XVII, người Anh đã nhận xét: “Một dân chúng hay nài xin quấy rầy vào bậc nhất thế giới. Muốn gặp phải có quà. Tục lệ của xứ này là không đến viếng thăm tay không. Tay không thì giàu nghèo gì đi chăng nữa cũng chẳng đến được bất kì bậc quan trên nào. Hàng hoá muốn gì lấy nấy, không trả tiền. Hàng hoá muốn định giá thế nào tuỳ ý. Trả tiền chậm, khó khăn” [3]. Phan Kế Bính đã viết: “tính hồ đồ, ngờ vực, nhút nhát, lười biếng, ghen ghét, khoe khoang, hợm hĩnh, khép nép, câu nệ, sợ đầu, sợ đuôi, nghĩ quanh nghĩ quẩn, ham cờ bạc rượu chè, thích sự quây rầy ăn uống, gió chiều nào che chiều ấy, gian giảo, kiêu ngạo, tham lam, thô tục, hay xóc móc, hay kiện cáo, hay tranh giành, hay nịnh hót người quyền thế, khinh bỉ người hiền lành, hay sinh sự, hay thù hằn, ăn trộm, ăn cướp, anh hùng rơm, vong ân bội nghĩa, phản bạn lừa thầy…” [2]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán những đồng chí trẻ trong lớp đào tạo cán bộ cách mạng ở Quảng Châu về những thói tệ “tính sĩ diện, giấu dốt, thích làm quan” (18). Trần Trọng Kim đã nêu những thói xấu người Việt “tinh vặt, quỷ quyệt, bài bác, nhạo chế. Tâm địa thì nông nổi, làm liều, không kiên nhẫn, hay khoe khoang, ưa trương hoàng bề ngoài, hiếu danh vọng, thích chơi bời, mê cờ bạc. Tin ma quỷ, không nhiệt tín tôn giáo nào cả, kiêu ngạo, nói khoác” [6]. Đào Duy Anh đã viết về những hạn chế người Việt “chậm chạp, nông nổi, không bền chí, hay thất vọng, hay khoe khoang, trang hoàng bề ngoài, ưa hư danh, thích chơi cờ bạc, nhút nhát, tinh vặt, bài bác chế nhạo” [1]. Thi sĩ Tản Đà đã từng viết người Việt “Dân hai lăm triệu ai người lớn. Nước bốn ngàn năm vẫn trẻ con” [8]. Còn người Việt đã tự nhận xét về mình qua câu ca dao:

“Ra đi gặp vịt cũng lùa,
Gặp duyên cũng kết, gặp chùa cũng tu”.

     Hai học giả người Pháp là Pier Huard và Maurice Durand nhận xét về hạn chế của tư duy người Việt và giá trị tinh thần người Việt cổ truyền: “thiếu công cụ tư duy (từ vựng chính xác, từ vựng kĩ thuật) và các khung ngôn ngữ cần thiết để trình bày các sự việc một cách chính xác, tính thời gian bằng kinh nghiệm, thói quen nói ngược ý, sự thiếu vắng các biểu hiện trìu mến” [10]. Cũng theo kết quả khảo sát của một viện nghiên cứu xã hội Mĩ cũng có những nhận xét về hạn chế của người Việt như là: “dễ thoả mãn, tâm lí thích hưởng thụ, có tính đối phó trong công việc, thiếu tầm tư duy dài hạn, không chủ động, không kiên trì đến cùng, ít khi học đến đầu đến đuôi nên kiến thức không hệ thống, mất cơ bản. Học tập không còn mục tiêu tự thân mà vì gia đình, vì sĩ diện, để kiếm công ăn việc làm, ít vì chí khí, không phải do đam mê, hoang phí vì sĩ diện, khoe khoang, thích hơn đời, hiếu chiến, hiếu thắng vì tự ái vặt, thích tụ tập, thiếu tính liên kết để tạo ra sức mạnh (cùng một việc, một người làm thì tốt, ba người làm thì kém, bảy người làm thì hỏng)” [8]. Như vậy, người Việt không ít những thói hư, tật xấu đã được nhiều học giả trong và ngoài nước phản ánh.

2. Hệ giá trị tinh thần truyền thống người Việt Nam trong thế giới hội nhập

     Hệ giá trị tinh thần truyền thống tốt của người Việt đã được khẳng định, được kế thừa, phát huy và mang lại nhiều thành tựu nổi bật cho Việt Nam. Chúng ta đã được thế giới biết đến là một dân tộc giàu truyền thống yêu nước, đánh giặc giỏi, có bề dày về lịch sử, có bản sắc văn hoá dân tộc. Đó là những phẩm chất tốt đẹp như lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí tự cường, cần cù, thông minh, sáng tạo… đã được chứng minh trong quá trình đấu tranh chống lại nhiều kẻ thù hùng mạnh mà dân tộc Việt Nam đã trải qua. Các giá trị tinh thần tốt đẹp người Việt không chỉ được thể hiện trong sản xuất và trong đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, mà nó vẫn luôn được kế tục và phát huy để trở thành nền tảng vững chắc cho dân tộc trong thời kì đổi mới và hội nhập quốc tế. Điều đó đã được khẳng định sau hơn 20 năm đổi mới, với sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình và linh hoạt của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta có những bước phát triển thần kì cả trên phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, ngoại giao và ngày càng nâng cao vị thế, vai trò Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.

     Ngoài hệ giá trị tinh thần truyền thống tốt, thì người Việt cũng có những thói hư tật xấu mang tính phản giá trị. Đó là tính vụ lợi, hám tiền, tò mò, giả dối, sĩ diện, tự ti, tham vặt, thực dụng, cậy thế, vô kỉ luật, thích hưởng thụ, tính thụ động,… Tính thực dụng, tính hám lợi người Việt được biểu hiện trên nhiều phương diện của đời sống xã hội và truyền lại từ xưa. Trong thời bao cấp cuộc sống khó khăn cho nên tình yêu cũng được đặt lên “bàn cân” theo kiểu: “Một yêu anh có may ô, Hai yêu anh có cá khô ăn dần. Ba yêu rửa mặt bằng khăn, Bốn yêu có thuốc đánh răng cả tuần”.

     Trong số những thói hư tật xấu của người Việt kể ra, thì phần lớn là do từ xưa truyền lại hoặc hiện nay mới có. Có lẽ do những thói quen trong văn hoá làng xã cổ truyền, lối sản xuất nông nghiệp lúa nước mà người Việt đã mang theo vào thời hội nhập và lối sống thành thị. Tuy vậy, những vấn đề mang tính thời sự này không chỉ là nỗi lo sợ người Việt, mà còn làm mất đi hình ảnh của người nước ngoài về một “Việt Nam điểm đến của thiên niên kỉ; Việt Nam vẻ đẹp tiềm ẩn; Việt Nam vẻ đẹp bất tận”. Chúng ta bắt gặp những thói hư tật xấu người Việt trong thời hội nhập nhìn từ góc độ phản giá trị được phản ánh trên nhiều phương diện của đời sống xã hội Việt Nam như chính trị, giáo dục, y tế, văn hoá nghệ thuật, khoa học, giao thông… Trong xã hội hiện đại, mọi người thi đua nhau kiếm tiền và tôn vinh đồng tiền theo kiểu. Đây chính là những dự báo đầu tiên cho một sự đảo lộn xã hội Việt Nam.

“Tiền là tiên, là Phật,
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khoẻ của tuổi già,
Là sắc đẹp của đàn bà,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân,
Là cán cân của công lí,
Ôi! Tiền là hết ý!”
[11].

     Người viết điểm qua những thói hư tật xấu của Việt Nam qua một số lĩnh vực mang tính thời sự mà thôi. Ví dụ với lĩnh vực chính trị chúng ta cũng bắt gặp những hiện tượng mà xã hội đang lên án như đạo đức giả, nói một đằng, làm một nẻo, trù úm, bè phái, làm thì láo, báo cáo thì hay (sáng tác văn bản, báo cáo thành tích), cục bộ địa phương… quan hệ xã hội thì hình thức. Trong hoạt động kinh tế, vì hám lợi mà người Việt sẽ tìm mọi cách để gian lận, lừa đảo khách hàng, trốn thuế, chiếm dụng vốn, chặt chém du khách như các hoạt động kinh doanh xăng dầu, tài chính ngân hàng, kinh doanh du lịch, kinh doanh vận chuyển khách, kinh doanh xuất bản phẩm… Không những vậy, mà thói hư tật xấu người Việt còn len lỏi vào cả trong môi trường giáo dục và y tế, đó là sự giả dối về bằng cấp, thành tích và sự xuống cấp y đức. Đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, một lĩnh vực được xã hội đánh giá là sự nghiêm túc, thì cũng xuất hiện những vấn đề đạo văn, đạo số liệu, hợp thức hoá các đề tài khoa học, làm khoa học theo phong trào. Gia đình người Việt đang đối diện với những vấn đề ngày một gia tăng như bạo lực, con cái đối xử bạc với cha mẹ, ông bà; lối sống ích kỉ, tệ nạn mại dâm, ma tuý,… Thể thao Việt Nam cũng đã diễn ra nhiều vấn đề gây bức xúc cho xã hội như nạn bán độ, cá độ, sự vô kỉ luật, đánh đuổi trọng tài. Với lĩnh vực sáng tác và biểu diễn âm nhạc đó là những tác phẩm âm nhạc chạy theo thị trường, khuyếch trương, quay lưng lại với âm nhạc truyền thống, vi phạm về thuần phong mĩ tục trong biểu diễn. Trong các lễ hội dân gian Việt Nam đang nổi lên những hiện tượng chen lấn, xô đẩy, cướp đoạt, buôn thần bán thánh, mê tín dị đoan và hiện tượng thương mại hoá lễ hội truyền thống. Như vậy, trong cuộc sống thường ngày chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều thói hư tật xấu người Việt mang tính phản giá trị đã và ngày càng bộc lộ nhiều. Chính những hành vi, những thói xấu trên là rào cản ảnh hưởng sự phát triển về kinh tế, thương hiệu, xã hội, đất nước và con người Việt.

3. Những giải pháp cho hệ giá trị tinh thần truyền thống người Việt Nam

     Như vậy, có thể khẳng định rằng hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam là “hạt nhân” để hình thành bản sắc văn hoá Việt Nam. Hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam (cả giá trị và phi giá trị) cũng thay đổi theo thời gian và theo xu thế của thời đại. Hệ giá trị đó vừa mang tính dân tộc và tính hiện đại, hai yếu tố sẽ đóng vai trò là nền tảng, động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội Việt Nam theo hướng công nghiệp hoá và hiện đại hoá; đồng thời những thói hư tư tật xấu người Việt cũng đang là một trong những nguyên nhân rào cản cho xã hội Việt Nam phát triển và hội nhập.

     Để thực hiện được những mục tiêu đã nêu trên giải pháp tổng quát là kiên trì bảo tồn, phát huy hệ giá trị tinh thần truyền thống tốt người Việt trên các phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá, an ninh, ngoại giao, giáo dục và quân sự. Và phải chủ động, tích cực, bản lĩnh trong hội nhập và giao lưu quốc tế, cần phê phán, lên án và loại bỏ dần những thói hư tật xấu người Việt. Từ những nghiên cứu, lí giải và thực tế đang tồn tại trong xã hội Việt Nam, người viết đề xuất một số giải pháp sau:

     Thứ nhất, là giải pháp tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về hệ giá trị tinh thần truyền thống cho người dân Việt Nam, qua đó, giá trị tinh thần truyền thống tốt cần được bảo tồn, phát huy trong quá trình hội nhập và phát triển. Đồng thời, người Việt nên nhận thức, nhìn lại và suy ngẫm những thói quen xấu của mình để tự điều chỉnh, tự phê phán, loại bỏ chúng ra khỏi cộng đồng, khu vực, vùng miền và quốc gia. Nói một cách khác có nhận thức đúng thì hành động mới đúng, mới hiệu quả. Khi viết về con người và giải phóng con người, Albert Einstein đã viết: “Là một sự thiếu sót nếu chỉ dạy cho con người một ngành chuyên môn. Bằng cách đó anh ta trở thành một loại máy có thể sử dụng được. Nhưng quan trọng là anh ta phải có một cảm giác sinh động về cái gì đáng giá để phấn đấu. Anh ta phải có một cảm giác sinh động về cái đẹp và tốt về mặt đạo lí. Anh ta phải hiểu biết về động cơ của con người, những ảo tưởng và đau khổ của họ, để có một thái độ đúng với đồng loại và với cộng đồng” [13]. Do vậy, giải pháp thông qua tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức của người Việt Nam về hệ giá trị tinh thần tốt và những thói hư tật xấu mang tính phản giá trị có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Điểm xuất phát cho giải pháp này được bắt nguồn từ việc giáo dục trong gia đình Việt Nam cùng với nhà trường và xã hội. Gia đình là tế bào của xã hội, môi trường giáo dục quan trọng đầu tiên cho mỗi con người Việt về hành vi, ứng xử, nếp sống tốt thông qua vai trò của cha mẹ, ông bà và những người thân. Đây chính là giải pháp mang tính căn cơ để hệ giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam vừa được bảo tồn, phát huy và sàng lọc, loại bỏ những thói xấu. Muốn vậy những bậc làm cha mẹ, ông bà và những người lớn tuổi trong gia đình phải là những người gương mẫu, tiên phong điều chỉnh những hành vi của mình để con cháu noi theo.

     Thứ hai, là sử dụng pháp luật và các chính sách tạo nền tảng pháp lí cho việc xử lí nghiêm minh đối với những thói hư tật xấu của người Việt trong các hoạt động kinh doanh dịch vụ. Vấn đề mà xã hội đang phải đối diện đó là những thói hư tật xấu người Việt ngày càng phát triển, lan rộng trên nhiều lĩnh vực của đời sống, bởi phần lớn người Việt đều xuất phát từ văn hoá nông nghiệp, văn hoá làng xã, trình độ dân trí còn hạn chế cho nên họ khó mà tự điều chỉnh và nhìn thấy những hành vi xấu của mình. Chính vì vậy, chúng ta ngoài tuyên truyền, giáo dục còn phải xử lí nghiêm những thói hư tật xấu đó. Giả sử trong hoạt động kinh doanh du lịch hiện nay ngoài phạt tiền, tước giấy phép kinh doanh, thông báo trên các phương tiện truyền thông…vẫn chưa đủ. Chúng ta có thể áp dụng thêm những biên pháp cứng rắn hơn: nếu địa phương nào để xảy ra những vấn nạn chặt chém, lừa đảo, đeo đuổi khách du lịch… thì bị cấm tổ chức các hoạt động du lịch như festival, hội chợ thương mại du lịch, không được đăng cai năm du lịch quốc gia, không được đầu tư về cơ sở hạ tầng và quảng bá xúc tiến du lịch,…

     Thứ ba, khẳng định lại vai trò cộng đồng, với tư cách là chủ thể trong việc bảo tồn, phát huy hệ giá trị tinh thần tốt, cùng lên án và cương quyết loại bỏ dần những thói hư tật xấu của người Việt Nam trong thời hội nhập. Sức mạnh và vai trò của người Việt đã được chứng minh và khẳng định trong truyền thống đấu tranh và giải phóng dân tộc. Do vậy, muốn bảo tồn, phát huy những giá trị tốt và loại bỏ dần những thói quen xấu thì người dân, cộng đồng phải đóng vai trò là sứ mệnh, là chủ thể của sự nghiệp này và phải thấm nhuần tư tưởng “dĩ dân vi bản”. Bởi vì, vai trò và sức mạnh của dân ta đã được khẳng định và chứng minh trong truyền thống đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Điều này đã được danh nhân văn hoá thế giới, anh hùng giải phóng dân tộc Nguyễn Trãi tổng kết và khẳng định một kinh nghiệm lịch sử là muốn giữ nước phải giữ dân, “sức dân như nước”. Trong bài thơ Quan hải, Nguyễn Trãi đã viết:

“Lớp lớp rào lim ngăn sóng biển,
Khoá sông xích sắt cũng vầy thôi,
Lật thuyền mới rõ dân như nước,
Cậy hiểm khôn xoay mệnh ở trời” [9].

     Bên cạnh những đường lối, chủ trương, chính sách đầu tư, quan tâm của Đảng và Nhà nước, thì cộng đồng cần nhận thức rõ về vai trò, trách nhiệm, cơ hội phát triển cũng do chính họ tạo ra, để cùng gìn giữ, phát huy các giá trị tốt, cùng nhau loại bỏ, phê phán những hành vi xấu của cá nhân và chính cộng đồng mình. Chân lí này không chỉ đúng với hoạt động kinh doanh du lịch, hay hoạt động kinh doanh xăng dầu mà còn trong tất cả các mặt của đời sống và xã hội Việt Nam. Muốn thực hiện được những mục tiêu trên, chúng ta phải để người dân thể hiện vai trò là chủ thể chính trong việc bảo tồn, phát huy hệ giá trị tinh thần truyền thống tốt và chủ thể tuyên truyền, cổ động từ bỏ những thói quen và hình vi xấu làm ảnh hưởng đến hình ảnh địa phương, quê hương, vùng miền và quốc gia. Đồng thời các tổ chức chính quyền từ trung ương đến địa phương phải động viên khen thưởng, tạo môi trường lành mạnh, thuận lợi nhất để họ phát huy, bảo vệ những quyền lợi chính đáng cho người dân và cộng đồng. Các ban ngành phải từng bước xây dựng chung những thiết chế trong văn hoá ứng xử, văn hoá kinh doanh, văn hoá phục vụ đến từng cộng đồng và toàn bộ người dân Việt Nam. Mỗi người dân Việt Nam hãy luôn là người thông thái nhất lựa chọn, quyết định những hành vi tốt và kiên quyết loại bỏ những thói quen và hành vi xấu trong chính bản thân mình. Đồng thời người Việt cũng cần xác định đây là những việc làm thường xuyên, lâu dài và phải thật sự kiên nhẫn. Như vậy, hệ giá trị tinh thần truyền thống người Việt không chỉ thực sự là “của ăn của để” mà còn là bản sắc văn hoá dân tộc, là nền tảng cho Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Đào Duy Anh, Việt Nam văn hoá sử cương, NXB Đồng Tháp, 1998, tr. 24, 25.

2. Phan Kế Bính, Việt Nam phong tục, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2005, tr. 417, 418.

3. Nguyễn Tấn Đắc, Văn hoá Đông Nam Á, NXB Đại học Quốc gia TP Hồ Chí Minh, 2005, tr. 266, 265, 259, 260.

4. Phạm Minh Hạc, Giá trị học, NXB Dân Trí, Hà Nội, 2012, tr. 331, 332, 30.

5. Vũ Khiêu, Tác phẩm được Giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2003, tr. 378.

6. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, NXB Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2008, tr. 18.

7. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 11.

8. Nhiều tác giả, Người Việt phẩm chất và thói hư – tật xấu, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 2008, tr. 112, 113, 15, 20.

9. Nhiều tác giả, Họ Hồ và Hồ Quý Ly trong lịch sử, Xưa & Nay – Văn hoá Sài Gòn, 2008, tr. 436.

10. Pier Huard và Maurice Durand, Hiểu biết về Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 133, 134, 135, 137.

11. Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Bảo tồn, làm giàu & phát huy các giá trị văn hoá truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 2010, tr. 264.

12. Trần Quốc Vượng (chủ biên), Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2010, tr. 14.

13. Nguyễn Xuân Xanh, Einstein, NXB Tổng hợp TP Hồ Chí Minh, 2011, tr. 270.

NGUYỄN VĂN BỐN 1

__________
1. ThS, Trường Cao đẳng Văn hoá nghệ thuật và Du lịch Nha Trang.