Hiện tượng “Gian đạo sĩ” ở Nam Bộ thế kỷ 19 (Phần 2)

THE PHENOMENON OF “UNRIGHTEOUS CLERGYMEN”
IN THE SOUTH OF VIETNAM IN THE 19TH CENTURY

Tác giả bài viết: NGUYỄN THANH PHONG
(Khoa Sư phạm, Đại học An Giang)

     2.5. Đức Phật Trùm Tà Ponl (Lương Phi, Tri Tôn, An Giang)

     Tà Ponl (?-1875) là một đạo sĩ gốc Khmer, người ấp Xà Lôn, xã Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Ông được tín đồ trong phả hệ Bửu Sơn Kỳ Hương ở Nam Bộ tin tưởng là “hậu thân của Phật Thầy Tây An, được tôn xưng là đức Phật Trùm, tương ứng với chữ Hương trong “tứ bửu linh tự”. Những người quan tâm đến tài chữa bệnh bằng bùa phép của ông gọi ông là Đạo Đèn, còn trong sách Ngọc lịch đồ thơ tập chú của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chép tên tiếng Việt của ông là Trần Hữu Lễ.

     Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu trong quyển Thất Sơn mầu nhiệm có giới thiệu về hành trạng cuộc đời ông như sau: Năm 1868, dịch bệnh lan tràn vùng quê ông; ông mắc bệnh chết; hôm sau chưa kịp hỏa thiêu thì ông sống dậy nói toàn tiếng Việt, tự xưng là Trời Phật phái xuống cứu bệnh độ đời, rồi thuyết giảng giáo pháp hư hư thực thực. Nhờ tài chữa bệnh bằng phù chú rất kỳ diệu, nên tiếng đồn vang dậy khắp nơi, nhiều người nghe tiếng đến lãnh bùa của ông đem về trị bệnh. Sau đó, ông cũng phát phái thu nhận tín đồ, tiếp nối nguồn mạch Bửu Sơn Kỳ Hương, truyền bá giáo lý học Phật tu nhân và rao giảng thuyết Hội Long Hoa. Khoảng năm 1870, mật thám báo về chính quyền thực dân rằng ông là “gian đạo sĩ”, mượn việc chữa bệnh để kêu gọi nhân dân khởi loạn chống chính quyền. Nhà cầm quyền Pháp đưa quân đến bắt ông cầm tù, thử thách hành hạ đủ kiểu nhưng ông vẫn ung dung tự tại không hề hấn gì, sau đó chính quyền trả tự do cho ông. Ông trở về Xà Lôn tiếp tục độ bệnh cứu người, khuyên đời tu tỉnh, định kỳ đến trình diện với chính quyền. Thời gian đó, ông vẫn thường lên vùng Thất Sơn gặp gỡ, đàm đạo với các bậc dị nhân. Trước đó, ông cũng đã nhiều lần băng rừng vượt suối lên tận núi Tà Lơn tu luyện với các đạo sĩ nơi đây. Năm 1875, ông an nhiên tịch diệt và lưu lại cho đời một quyển sấm giảng khuyên đời tu niệm và tiên đoán thời cơ11.

     Cũng như các ông đạo trên, xoay quanh quá trình hành đạo của ông Tà Ponl là rất nhiều truyền thuyết được thêu dệt bởi tín đồ về tài năng và phép thuật cứu đời của ông. Ông hành đạo trong thời kỳ phong trào kháng Pháp của Nguyễn Trung Trực ở Kiên Giang, Trần Văn Thành ở Bảy Thưa – Láng Linh, Ngô Lợi ở Ba Chúc đang liên kết mật thiết và dâng trào mạnh mẽ12. Có thuyết cho rằng sau khi xuống núi, ông đã truyền đạo và chiêu mộ nhiều nghĩa sĩ người Khmer hậu thuẫn cho phong trào kháng Pháp của Trần Văn Thành, trở thành thủ lĩnh của một cánh quân người Khmer trong phong trào của hội kín hoạt động chống Pháp.

     2.6. Đức Quản Cơ Trần Văn Thành (Châu Phú, An Giang)

     Trần Văn Thành (?-1873) được tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật Giáo Hòa Hảo tôn kính ở ba phương diện chính: (1) Ông là một trong 12 đại đồ đệ của Phật Thầy Tây An, có nhiều đóng góp cho hoạt động khai sáng và mở mang nền đạo từ những ngày đầu thành lập; (2) Là nhà doanh điền có công mở mang vùng đất Láng Linh (Châu Phú, An Giang), cải tạo đất đai, tạo lập trại ruộng, xây dựng xóm làng cho tín đồ tập trung cày cấy tu hành; (3) Là anh hùng dân tộc có tinh thần yêu nước thương nòi, lãnh tụ phong trào khởi nghĩa Bảy Thưa (Láng Linh) chống thực dân Pháp xâm lược.

     Là một người con Phú Tân (An Giang), Trần Văn Thành sớm gia nhập quân đội triều Nguyễn dưới thời Thiệu Trị, lập được nhiều công lao chống ngoại xâm và nội loạn nên được thăng làm Chánh Quản cơ. Sau đó ông được giải ngũ và gia nhập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương, ra sức cắm thẻ dập dịch, mở mang căn cứ, tăng cường sức mạnh nền đạo. Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chiếm 3 tỉnh Nam Kỳ, ông hưởng ứng lời kêu gọi của Tự Đức đầu quân đuổi giặc. Do những thất bại trong việc cản trở quân Pháp và ủng hộ phong trào khởi nghĩa của các chí sĩ, ông dẫn tín đồ vào Láng Linh xây dựng căn cứ chống Pháp, đặt tên đội quân của mình là Binh Gia Nghị. Cùng với sự thất bại lần lượt của phong trào kháng Pháp ở các nơi, ông đã chỉ huy tín đồ bền bỉ đối đầu với quân giặc đến những giây phút cuối cùng.

     Xác định rõ Bửu Sơn Kỳ Hương là một tôn giáo hoạt động chống nhà cầm quyền, ngày 22/4/1873, Đô đốc Dupré ban hành một nghị định nghiêm cấm dân chúng theo đạo Lành (tức Bửu Sơn Kỳ Hương) vì đạo này xúi giục dân chúng đi lạc đường ngay nẻo chính. Nghị định còn nói rõ những người đi truyền giảng đạo này cũng như tín đồ của đạo sẽ bị xử như luật đàng cựu, bị xem là gian đạo sĩ, là phiến loạn13. Chính hoạt động hộ quốc ngoan cường của tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương đã khiến thực dân Pháp luôn cử mật thám theo dõi, đưa quân đàn áp khốc liệt.

     Trên đây chúng tôi đã trình bày các ông đạo Nam Bộ tiêu biểu ở thế kỷ 19 từng bị chính quyền tình nghi là “gian đạo sĩ”. Trong nửa đầu thế kỷ 20 cũng xuất hiện nhiều ông đạo khác tích cực hoạt động chống Pháp, có hành trạng khá giống các ông đạo nêu trên và ít nhiều có mối quan hệ về mặt đạo pháp tu hành với các giáo phái đời trước. Như trường hợp ông đạo Tưởng ở Tân Châu, là người giỏi võ nghệ, bùa ngải, thờ cúng Quan Công và Ngũ Công Vương Phật, lãnh đạo tín đồ nổi dậy chống Pháp năm 1939. Hoặc nửa sau thế kỷ 20 có ông đạo Dừa Nguyễn Thành Nam, người sau khi du học ở Pháp về đã có nhiều năm lên vùng Thất Sơn tu luyện huyền thuật, cũng rao giảng niềm tin về tận thế và Hội Long Hoa. Trong quá trình lan truyền đức tin đó, núi Tà Lơn và dãy Thất Sơn đóng vai trò quan trọng như những trung tâm tu luyện huyền thuật của giới đạo sĩ. Hầu như các ông đạo ở Nam Bộ đều trải qua quá trình tu hành ở đây trước khi xuống thế trị bệnh, dập dịch hoặc rao giảng khuyên đời tu niệm.

3. Sự tương đồng giữa các hiện tượng “gian đạo sĩ” với tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật

     Một điểm đáng lưu ý là hầu như các vị đạo sĩ trên đều tin tưởng và sùng bái Ngũ Công Vương Phật (Năm Ông, Năm Ông Phật Vương) – một loại tín ngưỡng có nguồn gốc từ khu vực Hoa Nam (Trung Quốc) du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ 19. Tín ngưỡng này thờ cúng 5 vị Phật là Đường Công Vương Phật, Lãng Công Vương Phật, Hóa Công Vương Phật, Bửu Công Vương Phật, Chí Công Vương Phật, cùng các vị Phật và Bồ Tát quen thuộc khác. Bộ kinh chủ yếu của tín ngưỡng này là Kinh Ngũ Công, “chứa đựng niềm tin về hạ ngươn mạt kiếp, Minh Vương xuất thế, Dần Mão sự biến, thiên địa tái tạo, thiên hạ đại loạn, Ngũ Công cứu thế, Di Lặc ra đời”14.

     Bao trùm nội dung bộ kinh là những mô tả về cảnh đời loạn lạc, bệnh dịch hoành hành, nhân tâm điên đảo, lòng người bạc ác; sau một trận binh đao thê thảm, nước dâng lửa cháy, kẻ ác bị tiêu diệt, người thiện được cứu sống, sẽ có vị Minh Vương xuất thế thu dọn tàn cuộc, dùng Phật pháp giáo hóa hiền nhân tu thành chính quả. Rõ ràng, luận điệu đó mang hàm ý phê phán chính quyền đương cuộc, hứa hẹn một cuộc “canh triều hoán đại”, tiên đoán vua mới ra đời, dễ khiến lòng người chán nản thời cuộc, trông chờ và ủng hộ cho triều đại mới. Chính vì hàm ý chính trị đó mà nhiều đời vua thời Tống, Nguyên, Minh, Thanh cấm lưu hành bộ kinh này, luôn đặt các tu sĩ đứng đầu vào tầm ngắm quản thúc, thậm chí xem là “gian đạo sĩ” và tìm cách đàn áp, tiễu trừ. Cuối đời Thanh, các giáo phái mang tín ngưỡng Ngũ Công lại nổi dậy mạnh mẽ, uy hiếp chính quyền Mãn Thanh, sau bị triều đình truy kích quyết liệt phải tìm cách đào tẩu sang các nước Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.

     Tín ngưỡng này du nhập vào Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 19. Trường hợp sớm nhất tiếp nhận tín ngưỡng này được biết đến hiện nay là ngài Tô Quang Xuân tại chùa Phật Tổ (Cà Mau). Tư liệu điền dã cho thấy chùa này từng sùng bái Ngũ Công Vương Phật, thờ cúng đa dạng các thần linh của Tam giáo chứ không thuần túy là chùa Phật như hiện nay. Trong chính điện, chùa vẫn còn lưu giữ khán thờ có ghi dòng chữ Hán Ngũ Công Vương Phật (五公王佛) với một bài vị cổ bằng gỗ có dòng chữ Nam Mô Ngũ Công Dương Phật (南無五公陽佛)15, đáng chú ý là trong chùa còn thờ bộ tượng cổ Ngũ Công Vương Phật bằng gỗ, sơn năm màu khác nhau, tiếc là hiện nay chỉ thấy còn 3 tượng, do người đời sau không rõ nên tách lẻ ra thờ ở các bàn thờ16. Ngoài ra, chùa còn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và có treo cặp liễn đối cổ chữ Hán: “Sắc khuông nhương, cần miễn lệ, động cù lao, quân sư phụ nhất ban kiệt lực; Chí trung thứ, niệm từ bi, tư cảm ứng, Nho Thích Đạo tam giáo đồng tâm” (勅劻勷勤勉勵動劬勞君師父一勫竭力,志忠恕念慈悲思感應儒釋道三教同心), cho thấy tinh thần dung hòa Tam giáo của các tôn giáo dân gian trong hình thái tín ngưỡng tại chùa thời kỳ đầu.

     Dù trong chùa hiện nay không còn thấy thờ trần điều, các gian thờ đều được sơn nền xanh, nhưng vẫn còn thấy một bao lơn cổ được điêu khắc trang trí tinh xảo công phu, trên có dòng chữ Hán: “Đinh Sửu niên tứ nguyệt sơ tứ nhật thượng lương” (丁丑年四月初四日上樑, thượng lương ngày 4 tháng 4 năm Đinh Sửu, 1877). Chi tiết nhỏ liên quan đến nghi thức thượng lương này khá giá trị, đây cũng là một nghi thức thường thấy trong quá trình xây dựng các chùa của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Tất cả những thông tin trên cũng rất xác hợp với chi tiết ngài Tô Quang Xuân vào rừng đốn củi bắt gặp quyển kinh Năm Ông. Điều này cho thấy giáo pháp tu hành của ông có màu sắc tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật.

     Tín ngưỡng này cũng được thể hiện khá đậm đà trong đường lối tu hành của Đoàn Minh Huyên và Ngô Lợi, những người sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Giáo thuyết của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương được xây dựng trên nền tảng tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật, từ hệ thống kinh điển, phương thức tu hành, nghi thức bùa chú, thờ cúng Năm Ông Thẻ… đều cho thấy tinh thần dung nhập tư tưởng trong Kinh Ngũ Công17. Còn trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, cũng không quá khó để thấy dấu vết của tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật. Trong hệ thống kinh điển của tôn giáo này, có nhiều quyển kinh chữ Hán mang đậm màu sắc tín ngưỡng Ngũ Công, như: Ngũ Công thiên đồ kinh, Ngũ Công cứu kiếp kinh, Ngũ Công bát nhã kinh, Ngũ Công Quan Âm kinh… Ngoài ra, trong phương thức thờ tự tại chùa miếu hoặc cư sĩ tại gia, cũng đều thấy niềm tin và sự thực hành giáo lý Ngũ Công.

     Vậy đâu là nguyên nhân chính khiến triều đình Thiệu Trị, Tự Đức và cả chính quyền thực dân Pháp sau này luôn xem các ông đạo là “gian đạo sĩ” và tìm cách quản thúc, cách ly với tín đồ, hạn chế hoạt động tín ngưỡng, thậm chí còn giải tán, đàn áp, đốt phá? Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân chính là do giáo thuyết các ông hành trì và rao giảng mang những niềm tin về thiên hạ đại loạn, thiên địa tái tạo, Minh Vương xuất thế, thời mạt pháp, Hội Long Hoa gần kề… Những tín điều đó trực tiếp uy hiếp đến quyền lực thống trị của chính quyền đương cuộc, nhất là khi lực lượng tín chúng theo về ngày một đông đảo. Càng về sau, có thể các ông đạo trực tiếp đấu tranh vũ trang chống Pháp một cách có tổ chức, mạnh mẽ và gay gắt hơn để khôi phục chế độ quân chủ, nên đã bị người Pháp tấn công trực diện, ruồng bố, đàn áp thẳng tay hơn.

4. Tương đồng về hành trạng cuộc đời các ông đạo

     Khảo sát các truyền thuyết dân gian và trong nhiều nguồn tư liệu thành văn khác nhau, chúng tôi nhận thấy nhiều nét tương đồng về hành trạng cuộc đời của các ông đạo. Hầu hết các ông xuất thân bần hàn, cuộc sống vất vả gian lao, nhiều người không rõ gốc tích. Sau đó, tiếp nhận Phật pháp qua tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật, tích cực tu hành theo đường lối nhập thế khác lạ, tu tại nhà hoặc chùa miếu, để nguyên râu tóc không cạo, không ăn chay trường hay tụng kinh gõ mõ (riêng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có tụng kinh gõ mõ), tuân thủ luân lý đạo đức Nho giáo, tu luyện nội đơn theo Đạo giáo, hành trì ấn chú theo kiểu Mật giáo. Sau một vài năm tu trì, các ông đạo đạt được sự chứng ngộ nhất định, có năng lực phù chú huyền linh, có khả năng trị bệnh cứu người, thuyết pháp độ chúng, tiên tri dự đoán thời cuộc. Chính những điều này tạo nên sức thu hút mãnh liệt nơi các ông đạo, khiến đông đảo tín chúng một lòng tin tưởng tu theo.

     Sau đó, hầu hết các ông đạo đều bị chính quyền nghi ngờ, thử thách, bắt giữ, gây trở ngại cho quá trình tu hành và độ chúng. Trường hợp ông Tô Quang Xuân, Hà Minh Nhựt, Đoàn Minh Huyên đều diễn ra tương tự. Đầu tiên, triều đình cho mật thám theo dõi, phát hiện các ông trị bệnh bằng bùa phép và chú ngữ, rao giảng một giáo thuyết ủng hộ cho sự canh triều hoán đại, mưu toan phản nghịch, không thuần túy tu hành theo pháp Phật, nên bắt giam về tra khảo, thử thách; sau đó nhận ra các ông tu hành chân chính nên thả về, hoặc cho tu học thêm chính pháp của nhà Phật.

     Đó là cách hành xử dưới các đời vua Nguyễn. Còn dưới ách thống trị của Pháp thì xung đột giữa các ông Đạo và chính quyền thực dân diễn ra gay gắt hơn, theo kiểu một mất một còn, không khoan nhượng, như trường hợp: Ngô Lợi, Trần Văn Thành, Tà Ponl… Dường như đã có một sự chuyển hóa về bản chất hành đạo của các ông đạo từ chỗ chỉ rao giảng giáo thuyết tận thế, Hội Long Hoa, Minh Vương xuất thế đến chỗ hưởng ứng phong trào Cần Vương, đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược. Cũng vì thế mà cũng có sự thay đổi trong cách hành xử của chính quyền đối với phong trào các ông đạo ở Nam Bộ.

     Về cách xưng hô, các vị này đều được chúng đồ đệ tôn xưng lên hàng Phật sống, như: Tô Quang Xuân được gọi là Đức Phật Tổ Sư, Đoàn Minh Huyên được gọi là Phật Thầy Tây An (Đoàn Phật Sư), Ngô Lợi được tôn xưng là Đức Bổn Sư, Tà Pol được gọi là Đức Phật Trùm,… Điều này cho thấy sự tôn kính, tin tưởng tuyệt đối của tín đồ về huyền năng và đạo hạnh của các ông đạo. Cũng chính vì vậy mà cho đến nay, họ còn tin tưởng một cách trọn vẹn rằng, thầy tổ không phải chết đi, mà chỉ tạm thời vắng bóng, chờ ngày “đời tới” thì thầy tổ sẽ trở lại cứu vớt người tu hành.

5. Từ chuẩn hóa tín ngưỡng đến trưng dụng nghĩa sĩ kháng Pháp

     Trước tình hình phong trào các ông đạo đang hình thành và lan rộng ở Nam Bộ, triều đình nhà Nguyễn đã hành xử như thế nào? Truyện kể về hành trạng các ông đạo đã tiết lộ nhiều thông tin thú vị, cho thấy dường như triều đình đã không chấp nhận đường lối tu hành vốn có, mà thúc đẩy chuẩn hóa hoạt động tín ngưỡng của các ông đạo. Như trường hợp Tô Quang Xuân bị bắt, giải về an trí, cho tu học tại một ngôi chùa thuộc dòng Lâm Tế chính thống là chùa Kim Chưởng ở Gia Định, quan lại địa phương còn dâng sớ về triều đình cho vua sắc phong hòa thượng. Sau đó, ông trở thành hòa thượng dòng Lâm Tế chính tông đời thứ 37, pháp danh Trí Tâm. Hay trường hợp Sư Cố Hà Minh Nhựt bị quan Tổng trấn An Giang (Vĩnh Thanh) mời thuyết pháp để thử thách, sau đó chỉ thị ngài đến Cái Bè học giáo lý bài bản với Hòa thượng Tổ, còn xin triều đình sắc phong hòa thượng. Trên tháp mộ của ông tại An Long Cổ Tự có ghi ông là tổ đời thứ 38 của dòng thiền Lâm Tế chính tông. Tương tự như vậy, Đoàn Minh Huyên cũng bị Tổng đốc An Giang bắt về Châu Đốc, sau khi thử thách đã đưa ông đến tu học tại chùa Tây An với một đại sư dòng Lâm Tế là Thiền sư Hải Tịnh. Bia mộ phía sau chùa có ghi pháp danh của ông là Pháp Tạng, đạo hiệu Minh Huyên, đệ tử thứ 38 dòng Lâm Tế truyền tại ngôi chùa này.

     Rõ ràng, chính quyền đã cách ly các ông đạo ra khỏi ngôi chùa và tín đồ vốn có của mình, nhằm làm suy yếu sức mạnh hiệu triệu của các ông đạo. Đồng thời, đưa đến tu học với các bậc đại sư tại những ngôi chùa Lâm Tế chính thống đương thời. Đây không chỉ là cách quản thúc đường lối tu hành của các ông đạo, mà còn là cách uốn nắn niềm tin tín ngưỡng hướng về chuẩn mực giáo pháp nhà Phật theo quan niệm của chính quyền. Đáng chú ý hơn, dường như nhiều ông đạo cũng được triều đình sắc phong hòa thượng, được đứng vào hàng tăng thống theo sổ bộ quản lý của giáo hội đương thời. Kết quả của quá trình chuẩn hóa đó dường như đã diễn ra theo hai hướng, có ông đạo mang dòng Lâm Tế về ngôi chùa vốn có của mình như ông Hà Minh Nhựt, có ông dù bị quản thúc trong chùa chính thống vẫn cố gắng giữ vai trò lãnh đạo việc mở đất dựng chùa của tín đồ như Đoàn Minh Huyên. Dù vậy, có vẻ các ông đạo vẫn giữ mối liên hệ nhất định với các phong trào hội kín, như tổ chức Thiên Địa Hội, đang hoạt động đương thời.

     Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhất là khi quyền lực cai trị dần rơi vào tay người Pháp, đã có sự thay đổi cách tiếp cận của triều đình nhà Nguyễn đối với các ông đạo nói riêng, các tôn giáo dân gian Nam Bộ nói chung. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong khoảng thập niên 60 – 70 của thế kỷ 19. Theo Trần Hoàng Vũ, “bốn năm sau khi Đoàn Minh Huyên viên tịch (1860), khâm phái của triều Nguyễn là Hoàng Văn Tuyển đã tâu về triều đình việc trong các tỉnh Long Tường, An Giang, nhân dân bị mê hoặc vì thuyết họa phước của sơn tăng, từ các tháng 11 tháng 12 bỏ nhà cửa đưa gia quyến đến ở sinh sống tại xứ tục danh là Láng Cháy thuộc phủ hạt Tịnh Biên, già trẻ trai gái có đến số ngàn18. Sau khi thực dân Pháp chiếm trọn Nam Kỳ năm 1867, phong trào đấu tranh cứu nước của sĩ phu cả nước dâng cao, trong đó có các chí sĩ yêu nước được chỉ huy bởi các ông đạo ở Nam Bộ. Cũng theo Trần Hoàng Vũ, “tờ tâu đề ngày 26 tháng Giêng năm Tự Đức 26 (1873) của các đại biểu kháng chiến 5 tỉnh Nam Kỳ dâng lên vua Tự Đức trình bày về lực lượng chống Pháp ở Nam Kỳ, đề nghị triều đình cử người về Nam Kỳ chiêu tập lực lượng. Tài liệu còn kể ra danh sách các thủ lĩnh nghĩa quân ở Bảy Núi, trong đó người thứ 33 là thiền sư (hiệu đạo Lành) Trần Văn Thành19.

     Nếu nhìn lại cuộc vận động Cần Vương diễn ra ở Nam Bộ thì chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định những suy luận phía trên là rất có căn cứ. Phong trào này được các ông đạo thế hệ sau và các hội kín hưởng ứng nhiệt liệt. Tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến nay vẫn truyền tai nhau niềm tin về việc vua Hàm Nghi đã không bị Pháp lưu đày sang Algérie, mà đến Thất Sơn chỉ đạo phong trào kháng Pháp, rồi sang núi Tà Lơn ẩn trú và qua đời tại đây. Rồi sau này có thêm Phan Xích Long (Phan Phát Sanh), tự xưng là Đông cung Thái tử con vua Hàm Nghi, từ căn cứ Tà Lơn và Thất Sơn trực tiếp lãnh đạo phong trào hội kín. Trong chùa của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và cả Phật giáo Hòa Hảo luôn có bàn thờ Trăm Quan Cựu Thần, tức những vị quan cũ của triều đình có tinh thần yêu nước, và thậm chí tham gia vào phong trào kháng Pháp của các tôn giáo dân gian, các hội kín.

Kết luận

     Hiện tượng các ông đạo ở Nam Bộ, như Phan An nhận xét là một “hiện tượng tôn giáo lý thú ở Nam Bộ” mà hầu như không thấy ở Bắc và Trung Bộ đương thời. Vấn đề này đã được giới nghiên cứu Nam Bộ học, như: Sơn Nam, Tạ Chí Đại Trường, Phạm Bích Hợp, Ngô Văn Lệ, Phan Lạc Tuyên, Phan An, Đinh Văn Hạnh, Trần Hồng Liên, Nguyễn Ngọc Thơ, v.v… quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều góc khuất cần tiếp tục soi rọi tìm hiểu.

     Trong một loạt các ông đạo với hành tung bí ẩn, như: Đạo Khùng, Đạo Đèn, Đạo Chợ, Đạo Gò Mối, Đạo Đọt, Đạo Nằm, Đạo Dừa, v.v… ở Nam Bộ, chỉ một bộ phận các ông đạo bị mệnh danh là “gian đạo sĩ”. Đây là cách chính quyền phong kiến lẫn thực dân gọi các ông đạo chuyên rao giảng về thuyết tận thế và Hội Long Hoa, gián tiếp hoặc trực tiếp tham gia các hội kín, kêu gọi canh triều hoán đại, hoặc phản Pháp phục Nam.

     Do nhu cầu hành đạo và hoạt động bí mật, nên việc giấu diếm thân thế và hành trạng, thay tên đổi họ, hành tung thoắt ẩn thoắt hiện của các ông đạo là chuyện hiển nhiên dễ hiểu. Chính điều đó khiến cho những hình dung của người đời sau về các ông đạo thường không chính xác, nhất là khi diện mạo thật của các ông được bao phủ bởi huyền thoại. Nhà Nguyễn từ thời Thiệu Trị đến hết thế kỷ 19 dường như đã nhận ra mối quan hệ mật thiết giữa các ông đạo Nam Bộ với phong trào đấu tranh vũ trang của các tôn giáo dân gian và hội kín ở Hoa Nam. Ở phương diện chống thực dân xâm lược, các ông đạo là những người yêu nước, có lý tưởng về một cuộc đời thái bình thịnh thế, và trên thực tế đã dâng hiến cuộc đời mình cho lý tưởng đó. /.

     Chú thích:

     1. Nội dung câu sấm “Tứ bửu linh tự”:

Chữ Bửu là hiệu Phật Vương

Chữ Sơn Phật Thầy tin tưởng phước dư

Chữ Kỳ là hiệu Bổn Sư

Chữ Hương Phật Trùm bốn chữ phải mang.

     Hiện nay, các tín đồ đều biết rõ Phật Thầy chỉ ngài Đoàn Minh Huyên (Phật Thầy Tây An) sáng lập Bửu Sơn Kỳ Hương, Bổn Sư là ngài Ngô Lợi sáng lập Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật Trùm là ngài Tà Ponl ở Lương Phi, Tri Tôn. Riêng đức Phật Vương là ai hiện có nhiều ý kiến tranh luận chưa thống nhất. Tác giả Vĩnh Thông nghi vấn là Năm Ông Phật Vương (Ngũ Công Vương Phật), có tín đồ cho là Tô Quang Xuân, trong sách Ngọc lịch đồ thơ tập chú của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa ghi là Trần Liêm.

     2. Nhiều thuyết cho rằng ông bị đưa về triều đình, bị an trí trong chùa Kim Chưởng của kinh thành Huế. Chúng tôi chưa có căn cứ xác định rõ chùa Kim Chưởng tọa lạc ở đâu. Tuy nhiên, thuyết này có vẻ không đáng tin cậy vì nếu ngài Tô Quang Xuân viên tịch ở Huế, thì khó thể nào di quan từ kinh thành về an táng ở Cà Mau theo lệnh vua được, bởi với điều kiện giao thông thời đó, việc mang kim thân ngài từ Huế về đến Cà Mau mất rất nhiều thời gian.

     3. Nghê Văn Lương (1972), Cà Mau xưa và Long Xuyên nay, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn, tr. 154-158.

     4. Tác giả dịch nghĩa dựa trên nguyên tác văn bản chữ Hán lưu giữ tại chùa.

     5. Có lẽ người biên soạn nhầm lẫn, thời điểm này gọi là Trấn Vĩnh Thanh.

     6. Chúng tôi lược thuật dựa trên tư liệu giới thiệu tại chùa, ngày thu thập 13/8/2018.

     7. Lê Thu Vân (2018), “Văn hóa của người Việt vùng Cù lao Ông Chưởng nhìn từ truyện kể dân gian”, in trong Võ Văn Thắng (chủ biên, 2018), Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Việt Nam (quyển 2), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế tại Đại học An Giang, Nxb. Đại học Cần Thơ, tr. 185-191.

     8. Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm truyền đức Phật Thầy Tây An, Ban quản tự Tòng Sơn Cổ Tự, Ban Chẩn tế Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, tr. 28-48.

     9. Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm truyền đức Phật Thầy Tây An, Ban Quản tự Tòng Sơn Cổ Tự, Ban Chẩn tế Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, tr. 28-48.

     10. Hà Tân Dân (1971), Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tủ sách sưu khảo sử liệu Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Sài Gòn.

     11. Dật Sĩ, Nguyễn Văn Hầu (1972), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb. Từ Tâm, Sài Gòn.

     12. Nông Huyền Sơn (2013), Sự thật về những viên ngọc Phật Trùm. Nguồn An ninh thế giới. Đăng lại trên
https://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/su-that-venhung-vien-ngoc-phat-trum-c46a530542.html, truy cập ngày 16/02/2019.

     13. Trần Hoàng Vũ (2011), “Vì sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?”, Xưa và Nay, số 385, tháng 8/2011.

     14. Nguyễn Thanh Phong (2018), “Sự dung nạp tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương”. Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (178), tr. 110-130.

     15. Chữ 陽 Dương trên bài vị bị khắc sai do đặc trưng phát âm của người Nam Bộ đọc từ Vương thành Dương.

     16. Cụ thể, một tượng thờ ở bàn thờ Ngũ Công Vương Phật, một tượng thờ ở bàn thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế, một tượng thờ ở bàn thờ Tổ Sư.

     17. Nguyễn Thanh Phong (2018), “Sự dung nạp tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (178), tr. 110-130.

     18. Trần Hoàng Vũ (2011), “Vì sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?”, Xưa và Nay, số 385, tháng 8/2011.

     19. Trần Hoàng Vũ (2011), “Vì sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?”, bđd.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1. Phan An (2010), “Ông Đạo – một hiện tượng tôn giáo lý thú ở Nam Bộ”, Xưa và Nay, số 349-350.

     2. Hà Tân Dân (1971), Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tủ sách sưu khảo sử liệu Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Sài Gòn.

     3. Dật Sĩ, Nguyễn Văn Hầu (1972), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb. Từ Tâm, Sài Gòn.

     4. Nguyễn Văn Hầu (1956), Đức Cố Quản hay cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, Nxb. Tân Sanh, Sài Gòn.

     5. Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm truyền đức Phật Thầy Tây An, Ban Quản tự Tòng Sơn Cổ Tự, Ban Chẩn tế Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.

     6. Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương – Cao Đài – Hòa Hảo), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.

     7. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867- 1975), Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

     8. Nguyễn Văn Kiềm, Huỳnh Minh (1964), Tân Châu xưa, Nxb. Thanh niên, Sài Gòn.

     9. Kinh sách của ngài Ngô Lợi và tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa: Ngọc lịch đồ thơ tập chú, Ngũ Công như Ngũ Công thiên đồ kinh, Ngũ Công cứu kiếp kinh, Ngũ Công bát nhã kinh, Ngũ Công Quan Âm kinh…

     10. Nghê Văn Lương (1972), Cà Mau xưa và Long Xuyên nay, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.

     11. Huỳnh Minh (1971), Sa Đéc xưa và nay, Cảnh Bằng, Sài Gòn.

     12. Nguyễn Thanh Phong (2018), “Sự dung nạp tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (178), tr. 110-130.

     13. Nông Huyền Sơn (2013), Sự thật về những viên ngọc Phật Trùm. Nguồn An ninh thế giới. Đăng lại trên
https://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/su-that-venhung-vien-ngoc-phat-trum-c46a530542.html, 16/2/2019.

     14. Võ Văn Thắng (chủ biên, 2018), Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Việt Nam, quyển 2, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế tại Đại học An Giang, Nxb. Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.

     15. Nguyễn Thanh Tiến (2005), Hội kín ở Nam Kỳ cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh.

     16. Sơn Nam (1988), Lịch sử An Giang, Nxb. Tổng hợp An Giang.

     17. Sơn Nam (1997), Cá tính miền Nam, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.

     18. Trần Hoàng Vũ (2011), “Vì sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?”, Xưa và Nay, số 385.

Nguồn: Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 – 2019

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Hiện tượng “Gian đạo sĩ” ở Nam Bộ thế kỷ 19 (Tác giả: Nguyễn Thanh Phong)