Hình tượng nhân vật trẻ em trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay
CHILD CHARACTER IN SHORT STORIES WRITTEN BY FEMALE AUTHORS
IN VIETNAM FROM 1986 UP TO NOW
Tác giả bài viết: TRẦN THỊ QUỲNH LÊ
(Trường Đại học Quy Nhơn)
TÓM TẮT
Trong thế giới nhân vật của truyện ngắn nữ Việt Nam từ sau 1986 đến nay, hình tượng nhân vật trẻ em có một vị trí quan trọng. Tuy không phải là nhân vật trung tâm nhưng nhân vật trẻ em góp vai trò làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Trẻ em được đặt vào nhiều mối quan hệ: gia đình, xã hội và tự thân… để nhà văn khám phá quá trình hình thành nhân cách cá nhân, để nhận thức lại những giá trị nhân văn cốt lõi, nền tảng. Từ các mối quan hệ gia đình, nhà trường, xã hội, quá khứ, hiện tại, tương lai… nhân vật trẻ em như một trục quy chiếu lịch sử xã hội độc đáo trên trang văn của các cây viết nữ Việt Nam đương đại.
Từ khóa: Nhân vật trẻ em, truyện ngắn nữ.
ABSTRACT
In the character world of Vietnamese short stories written by female writers from 1986 to present, child character has had an important position. Although child character is not the protagonist, it plays a role in highlighting the theme of the work. Children are placed in many relationships with family, society, themselves, etc., in order that the writer can discover the process of personality formation and realize the core human values. Through these relationships and connection with past, present and future, the child character seems like an axis to the unique history of the society in the writings of contemporary Vietnamese women writers.
Keywords: Nhân vật trẻ em, truyện ngắn nữ.
x
x x
1. Mở đầu
Không cố công xây dựng nên những nhân vật thật lạ, thật đặc biệt, nhân vật trong truyện ngắn của các nhà văn nữ từ 1986 đến nay dung dị, gần gũi như từ cuộc đời bước vào trang sách. Tùy tạng người, mỗi nhà văn đều có những kiểu nhân vật riêng, đặc sắc, mang dấu ấn của nghệ sĩ. Tuy nhiên bên cạnh đó, họ cũng luôn hướng ngòi bút của mình đến việc khám phá sự đa dạng của bản thể người trong muôn màu đời sống. Vì thế, thế giới nhân vật trong truyện ngắn của các nhà văn nữ cũng vô cùng phong phú, đa dạng, nhưng có thể nhận ra điểm chung, sự tương đồng của các cây bút nữ trong xây dựng một số hình tượng nhân vật trung tâm của tác phẩm như nhân vật người đàn ông, người phụ nữ và đặc biệt là nhân vật trẻ em. Khám phá hình tượng nhân vật trẻ em trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay sẽ góp phần nhận diện cái gọi là “lối viết nữ” trên trang văn của họ.
2. Nội dung
Không khai thác nhân vật trẻ em trong chuỗi dài của những kí ức tuổi thơ như các tác phẩm của Vũ Như Hiên (Miền thơ ấu), Đặng Thị Hạnh (Cô bé nhìn mưa), Nguyễn Quang Sáng (Dòng sông thơ ấu), hay Phùng Quán (Tuổi thơ dữ dội), Duy Khán (Tuổi thơ im lặng)…, nhân vật trong sáng tác của các cây bút nữ thường hiện lên trong những lát cắt nhỏ của hiện thực đời sống. Và cũng không có nhiều những trang văn trong sáng, đầy hồn nhiên như trong truyện ngắn của Nguyễn Nhật Ánh, Nguyễn Ngọc Thuần, nhân vật trẻ em trong truyện ngắn nữ đều có điểm chung khi được các chị khắc họa như là nạn nhân từ những đau thương, bất hạnh của thế giới người lớn.
Trẻ em được khắc họa trước hết như là nạn nhân của hoàn cảnh lịch sử và chiến tranh. Đây không phải là nét mới bởi trong sáng tác của một số tác giả giai đoạn trước như Nguyễn Thi, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Trung Thành, nhân vật trẻ em trước biến thiên của lịch sử đã được khai thác khá đặc sắc, nhưng với những lối đi riêng, nhân vật trẻ em trong văn của các nữ văn sĩ vẫn để lại cho người đọc sự khắc khoải và đầy ám ảnh. Viết về câu chuyện của những vương triều ngày cũ, Trần Thùy Mai có thể xem là một trong những nữ văn sĩ đầu tiên viết về bi kịch của những đứa trẻ trong dòng xoáy lịch sử. Trong Thần nữ đi chân không, cô bé Ngoạn và mẹ nó – nàng Tấm, chịu sự cười cợt của dân làng khi họ tự nhận là vợ và con của vua Trịnh Hoài Đức. Nhưng có ai biết rằng, khi vua gặp nguy biến, chính nàng Tấm là người đã bao bọc, chở che, chăm sóc để ông thoát nạn. Và mẹ con Tấm quả thật đã được phong phi, phong hậu, bé Ngoạn đã là công chúa của vương triều.
Nhưng sự thay đổi của thời thế mà quan trọng là sự đổi thay của lòng người đã khiến mẹ con Tấm bị rơi vào quên lãng. Họ từ bỏ xiêm áo, chốn sống xa hoa để trở về làng quê bởi không chấp nhận được cuộc sống tù túng, giả tạo và thiếu vắng sự yêu thương nơi chốn hoàng cung. Bé Ngoạn mãi mãi cũng không hiểu vì đâu, cha nó đã từ bỏ nó, mẹ con nó lại trở thành trò đùa trong những câu chuyện thị phi của người đời. Tác phẩm cuốn hút người đọc bởi sự đa dạng của những cung bậc cảm xúc. Từ bất ngờ, thú vị ở đầu tác phẩm đến vỡ òa sung sướng khi mẹ con Tấm được đón vào cung vua rồi cuối cùng lại là sự hụt hẫng đau thương trước một cái kết không có hậu. Câu chuyện của bé Ngoạn cũng là câu chuyện của biết bao thân phận con người trước trò đùa của lịch sử.
Cuộc đời của nàng công chúa Ngọc Ngôn trong Nàng công chúa té giếng cũng vậy, là nạn nhân của sự tranh giành quyền lực, của sự thỏa mãn đam mê, dục vọng tầm thường của những ông hoàng bà chúa. Ngọc Ngôn sinh ra đã là đứa bé ngơ ngơ ngẩn ngẩn như để gợi nhớ hình ảnh của một vương triều cũ và cũng là sự nối dài nỗi đau của người ở lại. Trần Thùy Mai còn khai thác đề tài này trong nhiều câu chuyện khác như Thể Cúc, Lửa hoàng cung…
Khác với Trần Thùy Mai, Nguyễn Ngọc Tư lại đặt trẻ em trong những nỗi đau của thời hậu chiến. Vết chim trời là câu chuyện về những vết thương chưa lành sau nhiều năm của cuộc chiến. Một trong những người phải gánh chịu vết thương ấy là cu Vĩnh. Một nỗi buồn khôn nguôi bao trùm lên gia đình nhỏ của em khi trong cơn mê bà nội nhắc đến cái chết của Út hơn (cha Vĩnh) bị người anh phía bên kia chiến tuyến bắt chết. Vĩnh là đứa con nhỏ còn sót lại của Út hơn, được cả gia đình người anh yêu thương đùm bọc, chăm sóc. Song cuộc sống thơ ngây của nó vì mối linh cảm của bà nội mà bị phủ màu u ám. Trong lòng Vĩnh giờ là nỗi hận thù, nghi kị với những người đã cưu mang nó mà trước đó nó cũng đã hết mực yêu thương.
Không chỉ chiến tranh, nhiều nhân vật trẻ em được xây dựng như những thân phận bé nhỏ, nạn nhân của bi kịch cơm áo đời thường. Từ thằng Bông trong Lương đến hai chị em Nương, Điền trong Cánh đồng bất tận, thằng Củi trong Sầu trên đỉnh Puvan và hai chị em Như, Ý trong Đời Như ý của Nguyễn Ngọc Tư đều phải bươn chải, nhọc nhằn kiếm ăn từ khi còn nhỏ. Thằng Củi trong Sầu trên đỉnh Puvan gây ấn tượng mạnh mẽ với cả Vĩnh và Dịu bởi “Một linh hồn mười lăm tuổi, trong cơ thể đứa bé lên chín, ở trần gầy nhom, lem luốc, hai xương vai bén ngót, nhỏ lên cao, môi nẻ ra, bong những cái vẩy nhỏ”. Sự đói nghèo hiện lên ngay từ vóc dáng hình hài thằng bé Củi. Nó không được đến trường, phải chăn dê phụ giúp má, nhưng oái ăm thay, dê cũng chẳng còn để mà chăn. Bi kịch của thằng Củi là là bi kịch của những con người khốn khổ ở một vùng đất nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt. Thằng bé luôn bị ám ảnh bởi cái cảnh thiếu đói. Bất cứ lúc nào nó cũng lo đến sự tồn tại của gia đình nó vào ngày mai. Cảm động hơn là hình ảnh của những đứa trẻ trong Ngày không mút tay của Võ Thị Hảo. Để chống lại cơn đói, sự thèm thuồng bốc ra từ nhà giàu bên cạnh, những đứa con Ngần đều nhất loạt đưa tay lên miệng mút: “Thằng lớn bảy tuổi mút ngón tay cái. Còn hai đứa gái sinh đôi thì chùn chụt mút ngón trỏ của bàn tay phải”. Cái nghèo, cái đói bủa vây đối với những thân phận người đã là sự đau khổ, đối với những đứa trẻ lại càng là sự bất hạnh. Đặt nhân vật trẻ em trong nỗi vất vả của cơm áo gạo tiền, nghèo đói và lo toan mưu sinh, các nhà văn nữ dường như đã phản ánh chân thực sự khốn cùng của hiện thực đời sống. Bởi khi phải oằn mình vì cuộc sống nghĩa là lúc những đứa trẻ sớm phải gách vác nhiệm vụ của người lớn mà lẽ ra chúng vốn phải là đối tượng được bao bọc, chở che và chăm sóc. Chúng là những đứa trẻ thơ nhưng là “Những đứa trẻ chết già” (tên một tiểu thuyết của nhà văn Nguyễn Bình Phương).
Không chỉ thế, nhiều nhất trong những trang sáng tác của các nhà văn nữ còn là hình ảnh những đứa trẻ chịu hệ lụy từ sai lầm của người thân và từ những bất cập của xã hội. Sự rạn nứt trong gia đình là nguyên nhân đầu tiên dẫn đến bi kịch của những đứa trẻ. Nó không chỉ hằn in một vết thương tinh thần khó lành trong tâm thức của đứa trẻ mà còn hệ quả tất yếu của sự loay hoay và cả sai lầm trong sự tự trưởng thành của chúng. Nương và Điền (Cánh đồng bất tận) lớn lên trong một gia đình nông dân nghèo, cha đi làm mướn. Mẹ bị cám dỗ bởi những giá trị vật chất nên phản bội cha. Người cha vì thế mà sinh ra độc ác, cục cằn, thô lỗ. Ông thù ghét tất cả đàn bà và trả thù đàn bà bằng những cuộc tình chóng vánh. Ông trút những trận đòn roi vô cớ lên hai đứa con chỉ vì chúng nhắc ông nhớ đến hình bóng vợ. Mất mẹ, thiếu hẳn sự âu yếm của cha, hai chị em Nương, Điền ngoài việc vật lộn với cuộc sống mưu sinh, phải tự học cách thích nghi để tồn tại. Không có mẹ, không có bạn gái hay cô dì chỉ bảo, Nương hoàn toàn thụ bị động trước cuộc sống. Đến tuổi dậy thì, thấy hành kinh lần đầu, cả hai chị em Nương đã hết sức hoảng hốt, luống cuống. Người đọc thắt lòng khi thấy cảnh “Thằng Điền vội bứt đọt chuối, tọng vào miệng nhai ngấu nghiến, điên dại để lấy bã rịt lại chỗ máu. Thuốc gò nghe nói cầm máu tốt cũng chẳng ăn thua. Hai đứa nhìn nhau khóc…”. Những cuộc trả thù của người cha dường như cũng từ từ thấm độc vào Điền. Nó chối bỏ niềm vui được trở thành một người đàn ông thực thụ. Nó kìm hãm bản năng trỗi dậy mạnh mẽ ở tuổi dậy thì bằng tất cả sự miệt thị, giận giữ và căm thù. Cả Nương và Điền đều trốn chạy khỏi thế giới người. Chúng học thứ ngôn ngữ mới, ngôn ngữ của loài vịt. Thậm chí có khi những đứa trẻ đáng thương ấy còn cảm thấy xấu hổ vì mình là người “Nỗi xấu hổ vì mình là người xộc lên mũi sặc sụa, khi tôi phát hiện ra chúng chẳng bao giờ cưỡng đoạt và gạt gẫm nhau”. Trong mắt chúng, hành vi tính giao của vịt chứa đựng cái dịu dàng, trìu mến khác hẳn những gì thô bỉ, hằn học mà cha chúng đã làm với những người đàn bà.
Ấu thơ tươi đẹp (Nguyễn Ngọc Tư) cũng là một cái tựa mang nhiều tính mỉa mai như chính thân phận của những đứa trẻ không còn tổ ấm. Ngót mười ba trang truyện xoáy quanh bi kịch của những đứa trẻ có bố mẹ chia tay. Sói – nhân vật chính của câu chuyện ngán ngẩm bởi những lần di chuyển giữa nhà cha, nhà mẹ. Ở đâu nó cũng cảm thấy khó chịu. Về nhà mẹ, nó là người khách lạ, con chó cũng không còn nhận ra chủ nữa. Sự căm ghét của nó với con chó khi không nhận ra nó là chủ thực ra là một cách chống lại mặc cảm bị bỏ rơi. Ở nhà cha, nó chán khi chứng kiến cảnh sống bệ rạc của cha. Cha cũng có những người đàn bà khác bên cạnh, người đàn bà đó chỉ có biết chính xác cái quần cộc của ba nó ở đâu. Sói thấy mình thừa thãi ngay chính trong gia đình mình. Nó trở nên cô độc, cục cằn. Nó quyết định từ bỏ gia đình, đoạn tuyệt quá khứ mà nó không một lần muốn nhìn lại. Tương tự như thế, Gió lẻ, Cỏ xanh hay Núi lở cũng là câu chuyện của những đứa trẻ là hiện thân những bi kịch của thế giới người lớn.
Nguyễn Thị Thu Huệ cũng không khỏi xót xa trước thân phận của những đứa trẻ bị bỏ rơi trong thế giới người lớn. Nhân vật Nó – đứa con trong truyện ngắn Phù thủy trở thành vật cản trong cuộc ly hôn sắp sửa của cha mẹ mình. Mỗi người chạy theo đam mê của riêng mình mà quên mất mình còn có một đứa con và nó đang loay hoay trước những sự biến đổi quá nhanh của ba mẹ. Cuộc sống như một sàn diễn mà ở đó ba mẹ và cả nó cũng cần trở thành phù thủy để tồn tại. Và kết cục nó chết trong một lần ảo thuật với chính cuộc đời mình. Nhân vật người con trong Hậu thiên đường cũng bị bỏ rơi trong nỗi đau và sự cô đơn, thù hận của người mẹ với cuộc đời. Sự vô tâm của người mẹ trước những biến đổi tâm lý của đứa con gái mới lớn khiến nó lao vào những trò chơi tình ái mà vẫn tưởng là sự yêu thương chân thành, cao thượng. Cái giá phải trả là quá đắt cho những đứa trẻ bởi sự sai lầm không bắt nguồn từ bản thân chúng mà từ sự hời hợt, vô tâm của những người lớn.
Trong Nhà cổ của Lê Minh Khuê, hai đứa trẻ lại trở thành cái gai trong mắt của người mẹ kế khi cha mẹ chúng chia tay. Hằng đêm, chúng phải chứng kiến những con ma lượn lờ qua người khiến chúng không thể ngủ được đến gầy rộc cả người. Và con ma đó thực ra cũng không phải ai khác chính là cách mà người mẹ kế bày ra để dọn đường cho đứa con đang hình thành trong người bà được là chủ nhân chính thức của ngôi nhà cổ.
Đau đớn nhất trong tấn bi kịch của những đứa trẻ có lẽ là sự bạo hành thân xác. Không hiếm trong truyện ngắn của các nhà văn nữ là câu chuyện của sự xâm hại tình dục đối với trẻ em. Tím trong Nút áo của Nguyễn Ngọc Tư được người ta tìm thấy dưới chân cầu Tân Thạch. Rách mướp nhưng tay nó nắm chặt tới mức người ta chỉ có thể mở ra từng ngón một. Giữa lòng bàn tay ấy là một cái nút áo, Đó là vật chứng để nó tìm ra kẻ đã hại đời nó. Kẻ ác thì chưa tìm ra nhưng chỉ có Tím là hứng chịu bi kịch của cuộc đời mình. Hơn nửa năm dành cho việc khóc và trốn trong nhà, còn lại Tím phải gánh cái núi áo đến còng cả lưng. Ở đâu, làm gì nó cũng thấy cái nút áo: “Nếu không phải nấu cơm giặt giũ nó sẽ săm soi nút áo, như nuốt trộng bằng mắt, ghi khắc, đóng đinh nó vào lòng mình”. Thậm chí đến khi cái nút áo bị quăng xuống ao, “Tím vẫn ngó thấy bên dưới cỏ, dưới rễ cây mít, dưới từng lớp đất nhão nhoét, có cái nút áo”. Nó đã trở thành nỗi ám ảnh một đời của cô bé mười lăm tuổi. “Phải có ai đó trả giá cho cái cảm giác quặn ruột, buồn ói mỗi khi bước qua cầu Tân Thạch, cho những ánh mắt thương hại dính vào người, cho tuổi hai mươi héo ruỗi”. Nhân vật Em trong Gió lẻ cũng là nạn nhân của một vụ cưỡng hiếp. Kẻ làm việc đê tiện ấy không phải ai khác mà chính là ông Tám Nhơn Đạo, cha nuôi của em, người mà em hết lòng kính trọng. Em đánh mất niềm tin vào cuộc sống, vào con người. Với em, nơi nơi đầy rẫy sự dối trá, bẩn thỉu, con người giả dối đến buồn nôn.
Lật giở từng trang sách, thông qua số phận của các nhân vật trẻ em có hoàn cảnh bi kịch, các cây bút nữ đã gióng lên hồi chuôn cảnh báo về một thực trạng nhức nhối trong xã hội hiện đại: vẫn còn nhiều trẻ em bị bỏ rơi, bị lạm dụng sức lao động và lạm dụng tình dục… cần được cộng đồng chú ý. Niềm thương xót nghẹn ngào mà nhà văn gợi lên qua hình ảnh những đứa trẻ bất hạnh này là đốm lửa lương tri đang được đánh thức ở độc giả để họ bớt vô cảm, bớt thờ ơ với đồng loại. Nhân vật trẻ em trong truyện ngắn của cây bút nữ vừa là hiện thân của cái đẹp, vừa là đối tượng hứng chịu hậu quả của thế giới người lớn.
Nhà văn phơi bày sự thật không phải để bi quan hóa cuộc sống mà để mỗi người trong chúng ta một lần nữa nhìn rõ hơn về mình, về cuộc đời để sống có trách nhiệm và yêu thương hơn.
3. Kết luận
“Nhân vật là nơi duy nhất, tập trung hết thảy, giải quyết hết thảy trong sáng tác” (Tô Hoài), nên có thể nói mỗi nhà văn trong quá trình kiến tạo thế giới nghệ thuật của mình, luôn phải dụng công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Bởi đó không chỉ là tài năng mà còn là sự khái quát hóa hiện thực đời sống. Nhưng nhân vật trẻ em trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ sau 1986 đến nay dường như có thể xem là một ngoại lệ. Bởi mỗi nhân vật được xây dựng nên không phải để xác lập cá tính riêng mang dấu ấn của người nghệ sĩ mà nhiều hơn vẫn là sự khắc khoải, yêu thương đối với từng đứa trẻ, với mỗi thân phận và cuộc đời. Đó là mẫu số chung, là thiên tính nữ mà dẫu với vai trò gì, nhà văn – người mẹ hay chỉ đơn thuần là người phụ nữ, vẫn luôn được các nữ văn sĩ bảo toàn để tạo nên những giá trị tốt đẹp của cuộc đời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975-1995 – Những đổi mới cơ bản, – Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Nguyễn Văn Long (2009), Văn học Việt Nam sau 1975 và việc giảng dạy trong nhà trường, – Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
3. Nguyễn Thành, Hồ Thế Hà (Chủ biên) (2017), Văn học Việt Nam ba mươi năm đổi mới (1986 – 2016), – Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Phùng Gia Thế, Trần Thiện Khanh (biên soạn) (2016), Văn học và giới nữ (Một số vấn đề lý luận và lịch sử), – Nxb Thế giới, Hà Nội.
5. Bích Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại, sáng tạo và tiếp nhận, – Nxb Văn học, Hà Nội.
Nguồn: Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội, ISSN 2354-1512,
Số 22, Khoa học Xã hội và Giáo dục, tháng 3/2018
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Hình tượng nhân vật trẻ em trong truyện ngắn nữ Việt Nam từ 1986 đến nay (Tác giả: Trần Thị Quỳnh Lê) |