Khái luận về văn hóa học đường (Phần 1)

INTRODUCTION TO SCHOOL CULTURE

Tác giả bài viết: NGUYỄN NGỌC THƠ1
(1Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT

     Đổi mới giáo dục đã và đang là một trong những vận động chủ lực trong xã hội Việt Nam đương đại, được đưa vào Nghị quyết Trung ương và được toàn dân hưởng ứng. Đổi mới giáo dục đã sớm xúc tiến ở các nước Âu-Mĩ, thu hút hàng trăm nhà nghiên cứu chuyên nghiệp với nhiều công trình hữu ích về cả lí luận lẫn thực tiễn. Kinh nghiệm cho thấy, cải cách, đổi mới giáo dục học đường bắt đầu từ việc xây dựng nền tảng lí luận văn hóa học đường hợp lí, tiến bộ, làm kim chỉ nam cho toàn bộ quá trình thiết kế, vận hành cuộc vận động đổi mới giáo dục ấy. Bài viết này vận dụng phương pháp phân tích – tổng hợp trên cơ sở so sánh – đối chiếu thành quả nghiên cứu, xây dựng văn hóa học đường Âu-Mĩ làm nền tảng cho việc xây dựng nội hàm khái niệm văn hóa học đường ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu cho thấy, văn hóa học đường chia sẻ phần lớn nét tương đồng giữa các nền văn hóa, vốn là những đặc điểm do tính chất ngành nghề (ngành giáo dục) tạo nên; song cái quan trọng cốt lõi lại là yếu tố nội sinh của từng nền văn hóa: đó là quan điểm, mục tiêu, chủ trương, chính sách, cung cách quản lí và tính chất của nền giáo dục truyền thống.

Từ khóa: đổi mới, giáo dục Việt Nam, kinh nghiệm thế giới, văn hóa học đường.

ABSTRACT

     Educational innovation has been and is presently one of the key components in contemporary Vietnamese society, which is included in the Central Party Resolution and has received positive feedback from the community. Educational innovation has long been established and continuously promoted in European and American countries, attracting hundreds of professional researchers who have published many useful works in both theoretical and practical fields. The educational outcomes of these countries shows that, education reforms and adaptation to change require the building of a reasonable, progressive and theoretical basis for school culture, making it a guideline for the whole process of designing and operating that campaign of educational innovation. This paper applies the method of document analysis under the comparative perspective to investigate the theoretical and practical experience of the United States of America and European countries in building school culture for the sake of renovating school culture in Viet Nam today. The study shows that school culture shares most of the similarities among cultures, which are characteristics created by the nature of the field of education itself; however, the intrinsic factors such as the viewpoint, goals, guidelines, policies, management practices and the nature of traditional education in each country play an even more important role in the whole process.

Keywords: reform, school culture, Viet Nam’s education, world experience.

x
x x

I. Đặt vấn đề

     Giáo dục là trụ cột xây dựng và vun đắp nền tảng tri thức – tư tưởng của từng quốc gia, dân tộc. Ở Việt Nam, Nghị quyết Trung ương số 29-NQ/TW (04/11/2013) đã nhấn mạnh nhu cầu ‘đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế’; theo đó, cả guồng máy xã hội đang vận động thay đổi phương thức triển khai giáo dục theo hướng hiện đại hóa nhằm phát huy vai trò chủ động của người học cũng như tư duy sáng tạo – khai phóng của từng cá nhân. Việc nghiên cứu, xây dựng mô hình học đường hiện đại, phù hợp là một quá trình lâu dài. Đây là nhiệm vụ tổ hợp của nhiều nhóm chuyên gia và nhà quản lí ở cả ba lĩnh vực: giáo dục, văn hóa và quản lí giáo dục. Để có một nền giáo dục tiên tiến, các chuyên gia phải tính đến tất cả các bình diện (khâu, đoạn) của giáo dục học đường, từ xây dựng khái niệm, nội hàm, cấu trúc, chức năng, mô thức tổ chức và quản lí, chuẩn đầu ra và mô hình đào tạo, đánh giá. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi trực tiếp thảo luận đến một vấn đề mang tính lí luận có tầm quan trọng quyết định đến hầu hết các yếu tố còn lại nói trên, đó là văn hóa học đường (VHHĐ).

     VHHĐ là một tiểu văn hóa, một bộ phận của tổng thể văn hóa quốc gia; song khi xét theo lĩnh vực ngành nghề, VHHĐ của các quốc gia lại chia sẻ nhiều điểm tương đồng mang tính cốt lõi do tính chất đặc thù xuyên biên giới của lĩnh vực giáo dục quy định nên. Trên thực tế, VHHĐ hiện đại được khơi mào ở Anh từ đầu thế kỉ XX, lan truyền đến Bắc Mĩ, được giới nghiên cứu Mĩ phát triển đến cực thịnh vào cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ XXI. Tính tương đồng của mục tiêu giáo dục đã tạo nền tảng chia sẻ chung của VHHĐ ÂuMĩ, để từ đó, các mô thức VHHĐ lan rộng ra thế giới. Tại mỗi nơi đến, lí luận VHHĐ lại khoác lên thêm màu sắc địa phương (do yếu tố văn hóa địa phương, điều kiện chính trị và lịch sử – xã hội quy định), làm cho tổng thể VHHĐ của thế giới vừa thống nhất vừa đa dạng.

     Việt Nam sớm có nền giáo dục Nho học theo định chế khoa cử cổ điển. Tuy nền giáo dục Nho học đã có những đóng góp to lớn trong đào tạo nhân tài và chấn hưng văn hóa nước nhà nhưng, trên đại thể, nó bộc lộ nhiều điểm bất cập do truyền thống ấy chú trọng đào tạo người làm quan hơn là đào tạo những bộ óc có tư duy sáng tạo. Nhiệm vụ chính của giáo dục không phải là truyền bá rộng khắp tri thức sẵn có, mà phải gánh vác nhiệm vụ đào tạo những bộ óc biết tư duy. Sau hơn một thế kỉ mở rộng giao lưu và hòa nhập văn hóa với thế giới, giáo dục Việt Nam đang trong giai đoạn thúc đẩy đổi mới nhằm đáp ứng tốt hơn nữa nhu cầu hiện đại hóa đất nước. Việc tìm hiểu, phân tích kinh nghiệm thế giới để xây dựng nền VHHĐ Việt Nam phù hợp là hết sức cần thiết và có ý nghĩa thực tiễn.

     Trong tiếng Anh, VHHĐ được gọi chung là school culture, thế nhưng trong tiếng Việt tồn tại hai khái niệm: VHHĐ và văn hóa nhà trường. Xét về nghĩa rộng, cả hai khái niệm này đều có thể hiểu là có cùng ý nghĩa, song xét về bản chất hai khái niệm vẫn có điểm khác biệt. Khái niệm VHHĐ có phổ nghĩa rộng hơn và bao trùm cả khái niệm văn hóa nhà trường. VHHĐ lấy hoạt động học đường (dạy – học) và các mối quan hệ tương tác giữa các nhóm khách thể làm trọng tâm (cả bên cung cấp và bên thụ hưởng hoạt động học đường); trong khi khái niệm văn hóa nhà trường lấy đơn vị, tổ chức (ở đây khái niệm nhà trường là một tổ chức) làm đơn nguyên xem xét, đánh giá văn hóa. Nói cách khác, khái niệm văn hóa nhà trường được hiểu theo trục tổ chức và quản lí (bên cung cấp hoạt động học đường) hơn là hoạt động dạy và học trong học đường. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi thống nhất dùng khái niệm VHHĐ, tiếng Anh gọi là school culture, tiếng Trung Quốc gọi là hiệu viên văn hóa.

II. Nghiên cứu xây dựng văn hóa học đường ở Mĩ

     VHHĐ là một vấn đề không mới, tuy rằng lịch sử nghiên cứu vấn đề chỉ bắt đầu từ thập niên ba mươi của thế kỉ XX ở châu Âu và Mĩ. Trước khi xác định VHHĐ, người Mĩ đã xác định thế nào là văn hóa Mĩ. Nhóm tác giả Ebert & Maxwell [1, p.20, 40-1] nhận định ‘cái gì cũng là văn hóa Mĩ’ (‘erverything American’) bởi nền văn hóa này hầu như thể hiện đầy đủ sắc màu hội tụ của thế giới, gọi chung là thuật ngữ “culture X”. Trên đại thể, văn hóa Mĩ là một melting pot, một đĩa xàlách (the salad bowl) và là một màn sương (the fog). Hình ảnh the melting pot chỉ ra sự gắn kết tổng thể xã hội, trong khi đĩa xà-lách nhấn mạnh sự khác biệt, còn hình ảnh màn sương thể hiện sự bất lực của chúng ta khi mô tả những gì về cơ bản ngay trước mắt [1,tr.39]. Dựa trên bối cảnh ấy, hai tác giả định nghĩa văn hóa Mĩ như sau:

     ‘Văn hóa Mĩ là một dòng văn hóa trẻ, di động, là sự kết hợp của các quốc tịch và dân tộc, theo truyền thống, họ bị tách biệt bởi chủng tộc, tình trạng kinh tế xã hội và sự khác biệt về văn hóa, duy trì sự tự do được quy định trong hiến pháp Mĩ, cùng tồn tại với sự khoan dung cao đối với sự đa dạng, vận hành một hệ thống các doanh nghiệp tự do có thị trường ảnh hưởng sâu rộng đến nền kinh tế thế giới, phấn đấu trở thành một nhà lãnh đạo thế giới và người bảo vệ thế giới với ý định chủ yếu là vị tha và được đặc trưng bởi sự khác biệt trong khu vực và một nền văn hóa phổ biến luôn thay đổi’2 [1, tr.44].

     Từ rất sớm, người Mĩ đã quan tâm đến văn hóa trong giáo dục. Họ coi văn hóa như một màn hình hoặc lăng kính phản chiếu thế giới, vừa có thể cung cấp thông tin, dữ kiện thực tế có chiều sâu, vừa góp phần ‘hình thành khuôn khổ cho học đường’ [2, tr.165]. Những nhà làm giáo dục bình thường ở cơ sở đều nằm lòng quan điểm của Deal and Kennedy: VHHĐ đơn thuần là ‘cách thức chúng ta tiến hành làm mọi thứ xung quanh đây’ [3, p.85]. Diễn giải dài hơn, VHHĐ được hiểu cụ thể là những mạng lưới phức tạp của những câu chuyện, truyền thống và nghi thức vừa chớm nở khi giáo viên, học sinh, phụ huynh và quản trị viên làm việc với nhau, cùng nhau đón nhận các thành tựu và đối phó với những khủng hoảng.

     Có thể nói, xuất phát điểm ban đầu của phong trào nghiên cứu VHHĐ chính là cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới cuối thập niên 1920 – đầu thập niên 1930. Trước đó, VHHĐ ở Mĩ bắt đầu manh nha từ cuối thế kỉ XVII – đầu thế kỉ XIX, bắt nguồn từ những cuộc nổi dậy, xô xát của sinh viên Mĩ trong một số trường đại học, do một số sinh viên giàu có và hiểu đời hơn lãnh đạo. Họ cố tình chống lại những sự áp đặt khắc nghiệt của lãnh đạo trường và các giáo sư, nhà quản lí trong trường [4, p.4, 11]. Song phải đến thập niên 1930, VHHĐ mới đạt đến cao trào. Theo Tyler [5, p.3-4], lúc bấy giờ xã hội Mĩ bất ổn. Công ăn việc làm rất hạn chế, sinh viên trong các trường đại học chưa muốn ra trường. Điều này làm phát sinh nhu cầu quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu đời sống văn hóa sinh viên trong hệ thống các trường đại học. Nhờ vậy, VHHĐ được xác định là một dạng thức tiểu văn hóa (subculture) đặc thù của tổng thể xã hội. Thời ấy, tiêu biểu nhất phải kể công trình Boys in White của Becker [6] và Student culture in Vassar của Bushnell [7]. Theo Becher [8], [9], việc nghiên cứu văn hóa gắn với tầng lớp sinh viên trong các trường đại học ở Mĩ đã rất thành công, thấu đáo và mang tính hệ thống (xem thêm [10, p.12]. Theo Peters & Waterman [11], việc nghiên cứu VHHĐ ở Mĩ chịu sự chi phối bởi trào lưu nghiên cứu văn hóa tổ chức, trong đó, thập niên 1960, việc nghiên cứu chủ yếu diễn giải theo hướng văn hóa tổ chức (organizational culture), đến thập niên 1970, các nghiên cứu nhìn nhận theo hướng văn hóa doanh nghiệp (hướng nghiên cứu thứ nhất) (xem thêm [12, p.282]).

     Hướng nghiên cứu thứ hai gồm các công trình khảo sát, phân tích các hoạt động trong khuôn viên trường đại học có từ thập niên 1950 ở Mĩ. Tác giả tiêu biểu phải kể đến là Burton Clark [13] với công trình Văn hóa chuyên khoa (Faculty cultures), trong đó, điểm nhấn chính là tác giả đã coi các trường đại học như những thực thể văn hóa thực thụ. Tiếp theo sau là hai tác giả Riesman & Jenck [14, p.104], mà theo họ, trường đại học không chỉ là một tổ chức thông thường, chúng là một thực thể tiểu văn hóa (subculture) với hệ thống các tập tục cũng như những mục tiêu riêng của nó. Các tác giả này còn đề xuất rằng giới nghiên cứu cần triển khai điền dã lâu dài để tìm hiểu cặn kẽ hơn các nhóm đối tượng chính (sinh viên, giảng viên, nhà quản lí…) cấu thành VHHĐ (xem thêm [14, p.105], [10, p.13]). Cũng vào năm 1963, cuốn Nghiên cứu văn hóa học đường: niềm mong mỏi của các bang phía tây đối với giáo dục đại học (The study of campus cultures: Western interstate commission for higher education) do Lunsford làm chủ biên cũng đặc tả bức tranh sinh động về đời sống sinh viên trong khuôn viên trường đại học ở Mĩ giữa lúc Chiến tranh Lạnh leo thang gây xáo trộn đời sống xã hội. Thêm vào đó, Yamamoto et al. với cuốn Sinh viên đại học và văn hóa sinh viên (The college student and his culture) [15] cũng được chú ý bởi tính cụ thể và quan sát sâu của các tác giả. Thập niên 1970 và những năm đầu 1980, nghiên cứu cho thấy các trường học xây dựng không khí và đạo đức học đường hướng đến việc học tập của sinh viên đều là những đơn vị hiệu quả [16]. Rutter et al. [17] chỉ ra rằng đạo đức học đường là yếu tố đóng góp quan trọng cốt lõi đối với thành quả học tập của sinh viên. Họ còn phát hiện ra rằng những chuẩn mực, giá trị và truyền thống ẩn thị của trường học đóng góp rất lớn cho các thành tựu mà sinh viên đạt được (dẫn lại trong [18, p.5]).

     Sau Riesman & Jenck, công trình The Distinctive college: reed, Antioch and Swarthmore của Clark [19] cũng được đánh giá cao, trong đó tác giả dùng thuật ngữ ‘sự phiêu lưu trong tổ chức’ (organization saga) để nhấn mạnh rằng VHHĐ phải được đưa vào hệ thống học thuật như những chuyên ngành khác, có thể xếp vào nhóm văn hóa tổ chức. Cho đến thập niên 1980, hàng loạt các tác giả khác tiến hành nghiên cứu VHHĐ từ hai góc nhìn chính là xã hội học văn hóa và nhân học văn hóa, họ chú trọng nhiều ở khâu khảo sát, đánh giá nhiệm vụ, tầm nhìn, quá trình xã hội hoá, phong cách lãnh đạo và giao tiếp trong nhà trường đại học ở Mĩ và một số quốc gia Tây Âu (xem thêm [8], [12], [20], [21]).

     Xu hướng nghiên cứu VHHĐ ở cấp độ chuyên ngành (disciplinary cultures) xuất hiện vào cuối thập niên 1980 với công trình nổi tiếng Các bộ lạc và lãnh địa học thuật (Academic tribes and territories) của Tony Becher [8]. Becher [9] không những chỉ ra điểm khác biệt giữa các chuyên ngành mà còn kiến tạo khả năng tìm hiểu ‘các thế giới thu nhỏ’ của thế giới học thuật. Theo sau đó, chúng ta phải kể đến cuốn Hai dòng văn hóa và cuộc cách mạng khoa học (The two cultures and the scientific revolution) của C.P. Snow [22]. Tác giả Collini [23] tiếp nhận quan điểm của Snow trong công trình thảo luận chuyên sâu hơn về hai dòng văn hóa ấy. Thực ra nền tảng của hướng nghiên cứu cấp chuyên ngành ít nhiều đã xuất hiện từ hai thập niên 1960 – 1970 khi Kuhn [24] công bố cuốn Cấu trúc cuộc cách mạng khoa học (The structure of scientific revolutions) để giới thiệu tính năng động của sự phát triển khoa học dựa trên các quá trình xã hội nhiều hơn tính năng động là sản phẩm của sự phát triển khách quan của tri thức [25].

     Có thể nói, cuối thế kỉ XX – đầu thế kỉ XXI là cao trào nghiên cứu VHHĐ dựa trên nền tảng góc nhìn và phương pháp nghiên cứu của các tác giả nói trên. Tính riêng trên tạp chí Higher Education từ năm 2000 đến nay đã có hơn 150 bài trên tổng số trên dưới 500 bài viết công bố có liên quan đến VHHĐ, các tác giả tiêu biểu có Adeyemi (2001, 2004), Bigg (2001), Bleiklie (2002), Cum (2002), Allen (2003), Bartell (2003), Amaral và Magalhaes (2004), Clilf và Woodward (2004), Akerlind (2005), Anderson và Day (2005), Chan (2005)… Các công trình chuyên khảo cũng nở rộ với nhiều tác giả mới như Kuh & Whitt (1988), Thomas (1990), Pounder (1998), Trowler (1998), Bleiklie, Hostaker và Vabo (2000), Peterson & Deal (2002), Harman (2008), Paivio (2008), Fullan (2014), Gruenert & Whitaker (2015, 2017)… Như vậy, VHHĐ đã và đang là một vấn đề học thuật quan trọng trong giáo dục đại học, việc nghiên cứu xây dựng VHHĐ ở Mĩ đã thực sự trở thành một nhiệm vụ trọng tâm của các trường đại học bên cạnh hai sứ mệnh chính là nghiên cứu và đào tạo. VHHĐ được hiểu là ‘chiếc chìa khóa’ dẫn tới thành công của nhà trường trong việc thực hiện sứ mệnh giáo dục của mình cũng như thành công của sinh viên trong quá trình học tập, lập thân – lập nghiệp (xem thêm [18, p.Preface xii]). VHHĐ chịu sự chi phối của môi trường xã hội, nó luôn vận động và biến đổi theo thời gian; chính vì thế ngay khi một trường đại học đã xây dựng thành công VHHĐ cũng phải không ngừng nghiên cứu để bổ sung, hoàn thiện và cập nhật theo trào lưu của thời đại.

III. Nghiên cứu xây dựng văn hóa học đường ở châu Âu

     Châu Âu được xem như một trong hai chiếc nôi của giáo dục hiện đại, nơi các phong trào cải tổ tổ chức học đường và VHHĐ diễn ra sớm từ khoảng giữa hai cuộc Đại thế chiến. Tuy nhiên, với tính chất đặc thù của bối cảnh xã hội và chính trị, VHHĐ ở châu Âu dường như có sự khựng lại vào cuối thế kỉ XX trong khi phong trào ấy dâng cao mạnh mẽ ở Mĩ. Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi khảo sát cụ thể ở ba quốc gia có nền giáo dục tiêu biểu trong khu vực là Anh, Pháp và Đức.

     – Nước Anh

     Nước Anh là quốc gia có lịch sử nghiên cứu tư tưởng học đường và VHHĐ khá “dày dặn” so với phần còn lại của châu Âu. Một phần thành quả ấy có nguồn gốc từ bản thân nền giáo dục Anh với nhiều trường đại học đứng hàng đầu thế giới (Đại học Cambridge, Đại học Oxford) luôn tạo ra động năng và nhu cầu lớn cho giáo dục và văn hóa giáo dục, một phần nữa là nước Anh sở hữu nhiều trung tâm nghiên cứu lớn và các nhà xuất bản lớn về khoa học nói chung, trong đó có khoa học về giáo dục nói riêng. Yếu tố thứ ba phải kể đến là độ phổ biến của ngôn ngữ Anh trên tầm thế giới đã góp phần làm “cầu nối” mang các bộ óc lớn của thế giới về với nước Anh cùng làm nên một nền giáo dục và VHHĐ Anh vững chắc.

     Theo nghiên cứu của John Prosser [26], trong ba thập kỉ cuối thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu giáo dục và khoa học xã hội Anh đã tập trung nghiên cứu các khía cạnh nổi bật của giáo dục và VHHĐ nước này gồm:

• Những xu hướng chính trong lí luận và thực hành giáo dục;

• Trường ý nghĩa của khái niệm VHHĐ;

• Những khuynh hướng chính trong phương pháp nghiên cứu học đường và VHHĐ;

• Các xu thế chính trị và ảnh hưởng của chúng đến chính sách giáo dục (tham khảo [26, p.2]).

     Thuở ban đầu, VHHĐ được các tác giả đề cập đến ở từng khía cạnh cụ thể. Chẳng hạn, Lewin et al. [16], Connel [27], Argyris [28], Halpin & Croft [29] tập trung nhiều vào thuật ngữ ‘không khí/môi trường tổ chức (organisational climate)’. Đến những thập niên 1960 – 1970, giới học thuật Anh đã cộng tác với các đồng nghiệp Mĩ và Canada để triển khai nhiều công trình nghiên cứu lớn về vấn đề này. Tiêu biểu là Halpin & Crofts với công trình The Organisational Climate of Schools (Môi trường tổ chức trường học) [29], Coleman et al. với công trình Equality of Educational Opportunity (Bình đẳng về cơ hội giáo dục) [30], Plowden với Children and Their Primary Schools (Trẻ em và mái trường tiểu học của chúng) [31], Berstein với Toward a theory of educational transmission (Hướng tới một lí thuyết truyền tải giáo dục) [32] và Averch với How effective is schooling? (Hiệu quả học đường như thế nào?) [33]. . . Các nghiên cứu đã nêu bật ý nghĩa quan trọng của nền tảng xã hội đối với học đường và kết quả học tập của người học, trong đó Bernstein đã nhấn mạnh rằng giáo dục học đường chưa thể giúp khắc phục tình trạng bất bình đẳng xã hội. Trong kết quả nghiên cứu của mình, Brookover et al. [34], Edmonds [35] cũng có nhận định tương tự (xem thêm [26, p.2, 5]). Có thể nói, xu hướng chính trị có ảnh hưởng nhất định đến chính sách giáo dục tại Anh trong hai thập niên 1960 – 1970. Webb and Vulliamy [36] khẳng định: ‘VHHĐ nằm trong tầm kiểm soát của những người quản lí trường; các nhà lãnh đạo chính trị’, lúc này tư tưởng khai phóng trong giáo dục chỉ mới manh nha trên bàn giấy [tr.456].

     Bước sang thập niên 1970, các nhà nghiên cứu Anh đã bắt đầu nghiên cứu học đường một cách tổng thể hơn, họ đi vào các bình diện cụ thể của nó. Lúc này, việc hợp tác giữa hai bờ Đại Tây Dương càng thắt chặt hơn với dự án xây dựng trên cơ sở Bảng hỏi miêu tả môi trường tổ chức (trong học đường) do Halpin và Crofts xây dựng năm 1963 [29], Finlayson et al. [37] phát triển thành Chỉ số môi trường học đường (School Climate Index) áp dụng để tìm hiểu bản chất xã hội nhận thức, tình cảm của thầy và trò trong các trường mới thành lập (xem thêm [26, p.2-3]).

     Với công trình Mười lăm ngàn giờ: trường trung học và hiệu quả giáo dục đối với trẻ em (Fifteen Thousand Hours: Secondary Schools and Their Effects on Children), Rutter et al. [17] bắt đầu sử dụng thuật ngữ ‘đạo đức’ (ethos) để diễn tả nội dung VHHĐ trong nghiên cứu. Theo đó, các bình diện như ‘giáo dục khả năng hỗn hợp’, ‘đánh giá chương trình giảng dạy’, ‘chăm sóc mục vụ’, ‘phong cách giảng dạy’. . . đã được phân tích khá toàn diện, làm nổi bật diện mạo VHHĐ. Theo đánh giá của Prosser [26, p.5], dường như thuật ngữ “climate” được các nhà nghiên cứu về hiệu quả học đường dùng nhiều hơn, trong khi thuật ngữ “văn hóa” (culture) được các nhà nghiên cứu về tiến bộ học đường yêu thích, các thuật ngữ “đạo đức” (ethos), “bầu không khí” (atmostphere) và “nhịp điệu” (tone) được dùng để mô tả phẩm chất của trường học. Ở hai bên bờ Đại Tây Dương, người Mĩ thích dùng thuật ngữ “không khí học đường” (school climate) trong khi người Scotland thì thích dùng “đạo đức học đường” (school ethos). Trong thập niên 1970 này, giới nghiên cứu nước Anh chia thành hai trường phái định tính và định lượng [38]. Các nghiên cứu về hiệu quả học đường lúc bấy giờ đa phần dựa trên nghiên cứu định lượng và phương pháp thống kê, chẳng hạn công trình của Rutter et al. [17] nói trên.

     Thập niên 1980 bắt đầu nở rộ xu hướng nghiên cứu VHHĐ thể hiện qua các khái niệm đạo đức học đường, môi trường học đường, văn hóa, không khí học đường và nhịp điệu học đường. Một số tác giả quen dùng thuật ngữ “không khí/môi trường học đường” thay vì “đạo đức học đường” (school climate), trong khi Smith and Tomlinson [39] dùng khái niệm ‘đạo đức học đường’ (school ethos), trong đó, các tác giả đều nhấn mạnh tới các đặc tính học đường như ‘có trật tự’, ‘an toàn’ hoặc ‘tích cực’ (xem [26, p.3]). Nổi bật hơn, Fullan (1982) đã nhấn mạnh rằng VHHĐ đặc biệt quan trọng vì nó xác định hệ thống giá trị hướng dẫn3 của nhà trường trong việc chuyển đổi tiến bộ và tăng cường khả năng đáp ứng mục tiêu giáo dục.

     Đến giữa thập niên 1980, xu hướng nghiên cứu định lượng bị hoài nghi. Findlayson phản đối Anderson, cho rằng nghiên cứu thống kê đo không khí học đường ‘giống như những người mù xem voi và báo cáo một cách thận trọng các mụn cóc, thân cây, đầu gối và đuôi, mỗi người trong số họ tự tin khẳng định rằng họ đã phát hiện ra sự thật bản chất của voi’ (xem [41, p.43]). Năm 1985, tác giả Striven cho rằng các nghiên cứu nên sử dụng ‘các kĩ năng của nhà dân tộc học trong việc khám phá bản chất khó nắm bắt của không khí học đường bởi những người tham gia trong môi trường học đường có sự lựa chọn và tự do của họ, nghiên cứu cách này sẽ tìm ra những kết quả ngoài ý muốn, tính đa biến, những mâu thuẫn và xung đột cảm xúc. . . , tất cả đều đóng góp vào không khí học đường và do đó cần phải xem xét nghiên cứu định tính’ (dẫn trong [26, p.7]).

     Trong giai đoạn này (thập niên 1980 – 1990), nhiều đạo luật giáo dục và đặc biệt là luật ERA ban hành năm 1988 đã mở đường cho một sự thay đổi lớn trong một số giá trị cốt lõi của trường học ở Anh. Tại cuộc bầu cử năm 1979, chính phủ của bà Thatcher đã cố gắng phá vỡ thế chi phối nghiêm ngặt của chính quyền địa phương đối với giáo dục, tiến tới xây dựng một loạt quy định mới trong Luật Giáo dục. Chính sách của chính phủ về các trường học địa phương (LMS) đã trao quyền cho các trường quyền kiểm soát ngân sách của mình. Quyền tự chủ này đã giúp tạo dựng niềm cảm hứng lớn để nhà trường có thể xây dựng phong cách văn hóa cho riêng mình. Trong khoa học, nhiều tác giả chú trọng đánh giá tác động của pháp luật đối với VHHĐ và chỉ ra những điểm bất cập để giới quản lí tháo gỡ nhằm thực hiện triệt để tư tưởng khai phóng trong xây dựng VHHĐ.

     Giai đoạn sau năm 2000 cho đến nay, nghiên cứu VHHĐ ở Anh gần như hòa chung với dòng chảy VHHĐ ở Mĩ do sự giao lưu văn hóa – tư tưởng và giao lưu học thuật Anh – Mĩ ngày càng sâu rộng; các công trình nghiên cứu VHHĐ được xuất bản đồng thời ở cả London và các thành phố nước Mĩ cũng góp phần thắt chặt mối quan hệ này. Duy điểm khác biệt lớn nhất trong VHHĐ ở Anh so với Mĩ chính là tính lịch sử của nền giáo dục Anh, kèm theo nó là một phần dư vị của tính tôn ti – đẳng cấp xã hội; trong khi ở Mĩ, đó là tính đa dạng văn hóa. Nói cách khác, tính tương đồng trong tư tưởng, quan niệm và cấu trúc VHHĐ ở Anh và Mĩ khi đi vào bối cảnh của từng nước đã ‘cụ thể hóa’ thành hai ‘phiên bản’ chứa đựng một số khác biệt. Cụ thể, ở Anh, chính phủ yêu cầu trong chương trình giảng dạy quốc gia phải chú ý yếu tố lịch sử Anh, địa lí Anh và văn học Anh giai đoạn ‘cổ điển’ [42, p.20]. Thậm chí, Hillgate Group [43, p.4] từng cho rằng ‘các giá trị truyền thống của xã hội phương Tây’ ẩn chứa nền văn hóa Anh trong đó cần được gìn giữ, quyết ‘không được hi sinh’ dưới tác động của tư duy khai phóng và tính đa dạng văn hóa trong môi trường học đường.

     Cho đến hiện nay, khi thuật ngữ văn hóa được diễn giải kĩ hơn cũng là lúc giới nghiên cứu đi tìm định nghĩa VHHĐ sát hơn. Nhìn chung, VHHĐ ở Anh phụ thuộc vào các yếu tố sau:

• VHHĐ nằm trong khuôn khổ văn hóa xã hội, văn hóa quốc gia, chịu sự chi phối bởi chính trị – văn hóa, xã hội, kể cả thị trường lao động (xem thêm [44]).

• Trường học, bệnh viện là những thiết chế đặc thù không thể mang ứng dụng toàn bộ hệ giá trị văn hóa phổ thông ngoài xã hội được, bởi ‘bản chất văn hóa của chúng khó có thể chia sẻ cho người ngoài nhóm’ (xem thêm [45, p.52]).

• Các thành viên trong một trường có sự tự do lựa chọn kiến tạo ‘sắc màu’ VHHĐ độc đáo riêng của trường mình dựa trên khung VHHĐ chung.

• VHHĐ thể hiện ra thành hai tiểu hệ thống: cách hiểu bên trong và cách hiểu bên ngoài. Người bên trong góp phần xây dựng phong cách VHHĐ độc đáo của trường mình song bên ngoài xã hội ‘nhận thức’ và ‘đánh giá’ VHHĐ của đơn vị thông qua nhiều kênh khác nhau: tiếp xúc con người; đọc bản tin, đọc website, xem các tiết mục biểu diễn (tham khảo [26, p.9]).

     Có thể nói, người Anh đã thay đổi sâu sắc văn hóa tổ chức để thúc đẩy xây dựng VHHĐ. Họ thay đổi cung cách lãnh đạo, quản lí theo hướng trao quyền tự chủ tối đa cho nhà trường và xây dựng văn hóa chuyên môn trong đội ngũ nhân lực (người quản lí, giáo viên, nhân viên hành chính), coi đó là hai điểm mấu chốt của lí thuyết giáo dục đương đại. Những thay đổi ở góc nhìn ‘văn hóa tổ chức’ ở Anh đã tạo những điều kiện tối cần thiết cho môi trường học đường, tạo dựng ‘chất keo xã hội’ để gắn kết các bộ phận lại với nhau [46], [47] và là một sản phẩm kinh nghiệm của các nhóm xã hội [48]. Schein [48] đặc biệt chú ý tới vai trò của tính đồng nhất và ổn định trong đơn vị nhà trường, cái có thể giúp xác định tính chất mạnh yếu của VHHĐ, theo đó, (a) các tổ chức có thể chứa các tiểu văn hóa khác nhau dựa trên các nhóm khác nhau, thay vì một văn hóa tổ chức duy nhất, (b) văn hóa nhóm có thể là lực lượng của sự mất đoàn kết của tổ chức, thậm chí là phản đối nhà quản lí, và (c) tạo dựng nền văn hóa tổ chức là công việc khó khăn và lâu dài, giới quản lí học đường cần phải kiên trì (xem thêm Waller [49], Jackson [50], Hargreaves [51], Rudduck et al. [52]). Nias et al. [53] đồng thuận với quan điểm của Schein [54] cho rằng các nhà lãnh đạo đóng vai trò chủ đạo trong việc ‘tạo ra và quản lí VHHĐ’, đồng thời, tác giả cũng nhấn mạnh thêm rằng giáo viên đầu ngành cũng có vai trò tương tự.

     Đương nhiên, giới nghiên cứu Anh khẳng định VHHĐ cũng bị ảnh hưởng bởi bối cảnh bên ngoài của trường học như nhà doanh nghiệp, các thiết chế chính trị – văn hóa – xã hội. Trong đó, công đoàn giáo dục cũng có thể có tác động đến VHHĐ (xem thêm [55]). Theo Stoll and Fink [56], hiện tại nước Anh đang hướng đến xây dựng hoàn chỉnh nền VHHĐ với các chuẩn mực như sau: mục tiêu chung được chia sẻ, trách nhiệm hướng tới thành công, trường đại học là ngôi nhà chung của chúng ta, cải tiến liên tục để luôn trở nên tốt hơn, học tập suốt đời vì chính mình và vì mọi người, thái độ chấp nhận rủi ro, sự hỗ trợ hết mình những ai cần giúp đỡ, sự tôn trọng lẫn nhau, tính cởi mở và tôn trọng sự khác biệt, tư duy biết hoài niệm và có óc hài hước.

     – Nước Pháp

     Engels năm 1885 từng nhấn mạnh rằng, Pháp, hơn bất kì nơi nào khác, là vùng đất diễn ra các cuộc đấu tranh giai cấp lịch sử, và do đó, các hình thức chính trị thay đổi đã tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội, khi giai cấp tư sản cộng hòa chiến thắng, họ đã thiết kế một hệ thống giáo dục nhằm phản ánh các lí tưởng văn hóa, xã hội và chính trị của nước Pháp. Hệ thống này mang tính khép kín, khớp nối chặt chẽ và tập trung cao độ nhất ở cấp đại học. Hệ thống trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử song về cơ bản vẫn giữ nguyên cái lõi khép kín của nó [57, p.330]. Sau Thế chiến thứ Hai, nước Pháp bước vào thời kì tự thân phát triển mà không còn hệ thống thuộc địa nữa, xã hội Pháp diễn ra quá trình tái cơ cấu lớn, các nhà hoạch định chính sách công quan tâm nhiều hơn đến việc tìm cách thay đổi hệ thống vĩ mô chung của toàn xã hội hơn là từng bình diện xã hội (như giáo dục chẳng hạn). Cho đến thời Chiến tranh Lạnh, hệ thống giáo dục Pháp còn mang dấu ấn giai cấp khá rõ. Về bản chất, giáo dục Pháp khá do dự trong việc tiến sâu vào thế giới hiện đại (xem [57, p.345]).

     Theo Robinson et al. [58, p.387-403], nước Pháp duy trì chương trình quốc gia chung đến bậc tú tài, đồng thời, nước Pháp có cơ chế kiểm tra – giám sát chặt chẽ từng khâu đoạn với yêu cầu về chất lượng người học khá nghiêm ngặt. Ở Pháp, bậc đại học vẫn bị đóng khung cao hơn ở Anh. Trong khi đó, nếu Anh không quy định chương trình quốc gia, cũng không có cơ chế kiểm tra – giám sát quá ngặt nghèo, nhà trường khá chủ động trong việc triển khai hoạt động giáo dục thì dường như giáo dục Pháp không chịu áp lực lớn của tính đa dạng ấy. Nghiên cứu cho thấy, với độ giám sát chặt chẽ như vậy, học sinh, sinh viên Pháp cảm thấy ‘tự tin hơn’ và ‘có hành vi ứng xử tốt hơn trong lớp học’. Tương tự như vậy, nghiên cứu cũng cho thấy ở Pháp người học có động lực, nguồn cảm hứng học tập, thái độ lạc quan, khả năng đối mặt với thử thách có phần nhỉnh hơn ở Anh. So với ngành giáo dục Pháp, rõ ràng tính đa dạng văn hóa vừa là động lực và cũng là áp lực đối với quá trình xây dựng VHHĐ ở nước Anh. Thêm vào đó, giáo dục Pháp thiên về tính học thuật và tính quản lí nhà nước, trong khi đó, nó vẫn còn duy trì khoảng cách khá xa với thị trường lao động (xem [59, p.143], [60, p.110]).

     Nghiên cứu nói trên phần nào đó thể hiện mức độ ‘hài lòng’, chính xác hơn là ‘bằng lòng’ của người học ở Pháp đối với chương trình đã định dạng sẵn. Nói khác hơn, học sinh – sinh viên Pháp có vẻ ‘thụ động hơn’ và ‘ít đòi hỏi’ hơn ở nhà trường. Học sinh Pháp được cho là có niềm tin lớn hơn vào bản thân, họ có tinh thần chịu trách nhiệm cao hơn trong giải quyết vấn đề.

     Một nghiên cứu nữa của Sara Miller Llana [61] cho thấy, nhà trường ở Pháp rất coi trọng giáo dục nghệ thuật cho sinh viên, coi đó như là một thứ ‘chuẩn mực’ quan trọng, đánh dấu họ là người trí thức. Llana, dẫn lời của Bruno Pequignot – một nhà xã hội học về nghệ thuật tại Đại học Sorbonne Nouvelle ở Paris, cho rằng: ‘Nếu bạn muốn leo lên các nấc thang của các công ti ở Pháp, bạn nên biết đến Voltaire, Victor Hugo hoặc Simone de Beauvoir’, ‘Nếu [ứng cử viên] không bao giờ đọc sách, hoặc đến rạp chiếu phim, không biết âm nhạc hay bất cứ kĩ năng gì ngoài chuyên môn của họ, họ sẽ không có cơ hội được tuyển dụng’ [61]. Trong một nghiên cứu năm 2015 của Bộ Văn hóa và Truyền thông Pháp, 53% số người được hỏi than phiền về việc không tiếp cận được với nghệ thuật và văn hóa một cách đầy đủ ở cấp đại học [61]. Con số này cho thấy tiếp cận văn hóa là một ‘nhu cầu’ tự thân của người học; và do vậy, nhà trường ở Pháp ngoài chức năng đào tạo chuyên môn phải còn là một ‘viện nghệ thuật’ hay một ‘nhà văn hóa’ thực thụ. VHHĐ ở Pháp xây dựng và phát triển trên tinh thần ấy. Theo đó, ở Pháp, văn hóa là nền tảng, và ‘nếu có một số quốc gia, nơi bản sắc được liên kết với thương mại, hoặc sự chinh phục của phương Tây như ở Mĩ, thì ở Pháp, đó là trường học và văn hóa’ [61]. Nhà trường ở Pháp đã giúp thế hệ trẻ thấm nhuần văn hóa của họ. Sự liên kết chặt chẽ giữa học đường và các thiết chế văn hóa – nghệ thuật rộng rãi ngoài xã hội là một nguồn lực quan trọng giúp các trường học ở Pháp hoàn thành sứ mệnh của mình, bởi kiến thức về nghệ thuật và văn hóa là chìa khóa để thành công trên thị trường lao động nước Pháp.

     – Nước Đức

     Đức cũng là một quốc gia có lịch sử ngành giáo dục lâu đời và cũng là quốc gia bước vào xu hướng xây dựng các đại học nghiên cứu khá sớm. Năm 1810, Đại học Humboldt ở Berlin quyết tâm xây dựng thành đại học nghiên cứu (research university), mở đầu cho kỉ nguyên nở rộ của các đại học Đức. Ở giai đoạn cuối thế kỉ XIX – đầu thế kỉ XX, các trường đại học Đức từng giữ vị trí đỉnh cao của thế giới; thế nhưng đến cuối thế kỉ XX lại rơi vào tình trạng ‘bị lãng quên’ [62, p.145], trong khi Mĩ, Anh và Australia nổi lên thành các trung tâm giáo dục đại học hàng đầu của thế giới [60, p.1].

     Vào thập niên 1960 – 1970, Đức nổi lên phong trào nhóm đại học (Gruppenuniverstat) [60, p.9] với định hướng thúc đẩy quyền tham gia quyết định giáo dục đại học của sinh viên và nhân viên nhằm giảm bớt quyền năng tối thượng của các giáo sư, song mục tiêu cuối cùng không đạt được. Các giáo sư ở đại học Đức vẫn toàn quyền và do vậy, không khí học đường ở Đức vẫn mang nặng tính tôn ti một chiều. Giai đoạn sau 1990, Tây Đức và Đông Đức tái thống nhất, nền giáo dục Đức coi nhiệm vụ hòa hợp quốc gia quan trọng hơn các mục tiêu khác, chính vì thế, nước này chưa vội thực hiện cải cách giáo dục. Mãi khi người Đức nhìn thấy nền giáo dục Anh, và gần hơn là Hà Lan, phát triển vượt bậc (xem [60, p.10]), người Đức mới thật sự quan tâm đến nó vào cuối thập niên 1990 và họ đã trở thành ‘kẻ đi sau’. Chính sự phát triển xã hội tổng thể của nước Đức lúc bấy giờ mới thực sự là động lực cải cách chính và với gần 30 năm trở lại đây, giáo dục đại học Đức nỗ lực đổi mới để tiến bộ trong phối cảnh giao lưu xuyên quốc gia ngày càng sâu rộng.

     Nước Đức ban hành Luật Giáo dục sửa đổi năm 1998. Luật Giáo dục (1998) mở đường cho phát triển giáo dục đại học, đầu tiên là coi trọng việc dạy học theo các định hướng phù hợp với thế giới đương đại (gọi là the Bologna Process), trong đó, trọng tâm là thay đổi, nâng cao cấu trúc đào tạo trình độ tiến sĩ (vốn bị đánh giá trước đó là không khác với đào tạo trình độ thạc sĩ). Tuy nhiên, nước Đức chưa thu hút được nhiều nhân tài như ở Anh hay Mĩ, quá trình ấy của giáo dục đại học Đức chưa thật sự hiệu quả. Gần đây nhất, khi Ủy ban châu Âu triển khai thực hiện chương trình Horizon 2020, giáo dục đại học Đức càng chuyển mình mạnh mẽ hơn trong cộng đồng các trường đại học tiên tiến ở châu Âu.

     Thứ hai là cải cách trong lĩnh vực nghiên cứu. Từ năm 2000, chính phủ Đức quyết tâm xây dựng một số trường đại học ‘tinh hoa’ (elite) thông qua chương trình Excellence Initiative (bắt đầu từ năm 2006) dành cho các trường trọng điểm về nghiên cứu. Quá trình này ắt hẳn đòi hỏi nhiều thập kỉ phấn đấu. Hiện tại, theo đánh giá của các tổ chức xếp hạng đại học Times Higher Education 2016, Academic Ranking of World Universities 2017 hay Shanghai Jiaotong Ranking 2017, các trường đại học của Đức vẫn vắng bóng trong top đầu [60, p.18].

     Thứ ba là cải cách trong khâu tài chính, các trường được quyền tự chủ nhiều hơn, mở đường cho quyền tự quyết trong xây dựng và phát triển giáo dục đại học, trong đó có xây dựng VHHĐ. Cũng giống như các lĩnh vực trước, nước Đức vẫn đang ở giữa chặng đường.

     Thứ tư là cải cách trong cấu trúc nhân sự, trọng tâm là chuyển cấu trúc lương giáo sư từ chế độ C (bốn thang lương cố định, có từ thập niên 1970) sang chế độ W (có ba thang lương, chỉ quy định mức lương cơ bản, thu nhập thực tế phụ thuộc vào đóng góp cá nhân của từng giáo sư). So với Mĩ hay Anh, lực lượng giáo sư cao cấp và giáo sư bậc trung có số lượng còn hạn chế, trong khi bộ phận hỗ trợ (assistant staff) chiếm đến 86%. Nước Đức đặt mục tiêu trong thời gian ngắn sắp tới sẽ phát triển thành công nhóm hỗ trợ này nhằm bổ sung cho hai nhóm giáo sư có chất lượng cao hơn. Cải cách này được đánh giá là bước đầu mang lại hiệu quả khi nó kích thích tất cả nguồn nhân lực giáo dục tự thân kiến tạo các giá trị mới đóng góp vào thành quả chung.

     Thứ năm là cải cách trong cấu trúc quản lí. Mô thức cũ duy trì sự song hành giữa quản lí nhà nước và quyền tự tổ chức của các tổ chức đại học, trong khi đó, mô hình mới trao quyền lớn hơn cho việc tự thân tổ chức và vận hành các trường đại học. Nhà nước chỉ quy định khung chung về tổ chức và quản lí chứ không quy định quá cụ thể như trước đó [60, p.25-7].

     Với năm chiến lược trên đây, nước Đức đang dần chuyển đổi dần từ cơ chế nặng tính tôn ti sang mô hình ‘hợp tác ba bên’ (triangle cooperation) giữa quản lí nhà nước, chất lượng học thuật và thị trường lao động (xem [59, p.136], [60, p.109]). Trong mô hình này, nhà nước chỉ xác định mục tiêu trọng tâm (goals), để các trường tự hình thành con đường đạt các mục tiêu ấy.

     Các phân tích trên đây cho thấy hai đặc điểm quan trọng của VHHĐ ở Đức. Thứ nhất, mô thức truyền thống mang nặng tính tôn ti một chiều do ba yếu tố cùng chi phối: mục tiêu quản lí nhà nước, yêu cầu chất lượng giáo dục và quyền hạn tối cao của các giáo sư. Thứ hai, nước Đức đang trong quá trình chuyển đổi cấu trúc giáo dục đại học theo hướng ‘dân chủ’ hơn, kéo gần với mục tiêu đáp ứng nhu cầu thị trường lao động hơn. Do đó, không khí và VHHĐ ngày càng định hình rõ nét hơn theo hướng khai phóng. Tuy nhiên, so với Anh hay Mĩ, nước Đức sẽ cần đến nhiều thời gian hơn để có thể xây dựng thành công mô hình VHHĐ khai phóng, đa văn hóa.

___________
* Nghiên cứu được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh trong khuôn khổ Đề tài mã số A2018-18b-01.

2. Nguyên văn: ‘The Ametican culture is a young, mobile republic that is a composite of nationalities and ethnicities that traditionally reamin identifiably separated by race, socioeconomic status, and cultural differences, who maintain the freedom set forth in the US constitution, coexisting with a high tolerance for diversity, operating a system of free enterprises whose market is far-reaching effects on the world economy, striving to be a world leader and protector of the world with predominantly altruistic intentions, and who are characterized by regional differences and an ever-changing popular culture.’

3. Deal and Kennedy (1983) cho rằng: một hệ thống giá trị định hướng (giá trị và niềm tin) vốn không phải là chuẩn mực trong trường học [40, p.15].

Còn tiếp: Kính mời Quý độc giả đón xem

Khái luận về văn hóa học đường (Phần 2) đang được cập nhật

Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Trà Vinh,
số 37, tháng 3 năm 2020, DOI: 10.35382/18594816.1.37.2020.377

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)