Không gian công và tôn giáo (Phần 2)

Tác giả bài viết: Tiến sĩ  NGUYỄN XUÂN NGHĨA
(Trường Đại học Mở, Thành phố Hồ Chí Minh)

4. Tôn giáo trong không gian công tại một số quốc gia Phương Tây

     Trong thực tế, vai trò của tôn giáo trong không gian công không chỉ hạn chế ở thảo luận chính trị, mà còn mở rộng ở khía cạnh vật thể và phi vật thể của khái niệm này. Có thể hình dung không gian công là nơi giao thoa của lĩnh vực công quyền, xã hội dân sự, lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực cá nhân. Hơn nữa, vai trò của tôn giáo trong không gian công luôn gắn với nguyên tắc thế tục của các xã hội dân chủ, gắn liền với lịch sử văn hóa tôn giáo của từng quốc gia cụ thể. Dưới đây là một vài sự kiện trong tương quan giữa tôn giáo và không gian công của Pháp và Mỹ, hai quốc gia tiên phong trong quá trình dân chủ.

     4.1. Tôn giáo trong không gian công ở Pháp

     Pháp là một trong những nước sớm nhất tách biệt lĩnh vực chính trị và lĩnh vực tôn giáo. Với Luật 1905 (thường gọi là Luật phân ly), nhà nước Pháp đã đẩy tôn giáo từ tư cách là quy chiếu chung cho các lĩnh vực xã hội vào không gian riêng tư cá nhân. Rõ ràng hơn, nhà nước Pháp dựa trên nguyên tắc thế tục (principe de laïcité) bao gồm hai thành tố chính: Nguyên tắc phân tách quyền lực chính trị với các tổ chức tôn giáo, nhà nước phải trung lập với tất cả tôn giáo, hệ tư tưởng. Nguyên tắc bảo đảm tự do lương tâm thể hiện qua tự do hành đạo. Tự do lương tâm, tự do tư tưởng đòi hỏi nhà nước không đặt một quan điểm nào trên một quan điểm khác và xác định những quan điểm tinh thần hay triết lý là thuộc lĩnh vực ý thức của cá nhân.

     Chính việc áp dụng nguyên tắc thế tục này trong giáo dục mà nước Pháp đã thiết lập chế độ trường công với mong ước có thể đón nhận tất cả trẻ em không phân biệt nguồn gốc, giới tính và chọn lựa tinh thần của cha mẹ chúng. Vụ việc khăn choàng Islam giáo dẫn đến việc Quốc hội Pháp năm 2004 thông qua một đạo luật có điều khoản trong các trường công, cấm mang các dấu hiệu hay cách ăn mặc của học sinh biểu hiện lộ liễu việc thuộc về một tôn giáo. Đây là một ví dụ trong vô vàn ví dụ cho thấy nguyên tắc thế tục của Pháp muốn hạn chế ảnh hưởng của tôn giáo trong các định chế công.

     Nhưng mặt khác, cũng thấy rằng, việc áp dụng nguyên tắc này có thể mâu thuẫn với tự do biểu đạt (liberté d’expression), tự do thực hành tôn giáo mà hiến pháp nhiều quốc gia đã chấp nhận.

     Việc áp dụng nguyên tắc thế tục này qua thời gian với thực tiễn tại Pháp đã cho thấy có những thích ứng. Ví dụ, mặc dù “Nhà nước Cộng hòa không thừa nhận, không trả lương, không tài trợ cho bất kỳ tôn giáo nào” (Điều 2, Luật 1905), nhưng thực tế cho thấy phức tạp hơn. Luật ngày 31/12/1959, còn gọi là Luật Debré (lấy tên Bộ trưởng Michel Debré) chấp nhận cho các cơ sở giáo dục tư (90% là Công giáo) được nhà nước Pháp tài trợ, vì nhà nước nhận thấy sự đóng góp của các trường tư thuộc tôn giáo vào sự nghiệp giáo dục chung. Trước sự phát triển của các hiện tượng tôn giáo mới/ các giáo phái, để tránh lệch lạc nhận thức trong thanh niên, năm 2001, nhà nước Pháp đặt hàng cho nhóm Régis Debray viết báo cáo Việc giảng dạy sự kiện tôn giáo trong trường công. Nhà nước tài trợ phần nào cho việc xây dựng các cơ sở thực hành tôn giáo (chỉ riêng ở Ile de France từ năm 1905 đến nay có 1.800 địa điểm được xây dựng). Vì tôn trọng nguyên tắc thực hành tôn giáo, nhà nước Pháp chấp nhận công tác tuyên úy (aumonier) của tôn giáo trong trường công, bệnh viện, nhà tù, v.v… (Điều 2, Luật 1905)12.

     Nhà nước Pháp càng ngày càng chấp nhận vai trò của tôn trong các lĩnh vực công. Đầu năm, thông thường Tổng thống Pháp đều có buổi lễ tiếp đón đại diện của các tôn giáo ở Điện Élysée. Chủ tịch nhiều thành phố lớn tổ chức các buổi tranh luận với đại diện các tôn giáo ở địa phương để tạo nên tiếng nói chung. Về truyền thông đại chúng, theo Nghị định ngày 16/9/1994, Kênh France 2 (kênh của nhà nước) được giao nhiệm vụ phát chương trình tôn giáo vào sáng Chủ nhật dành cho những tôn giáo chính đang thực hành tại Pháp.

     Báo cáo Stasi, do Tổng thống Chirac đặt hàng vào năm 2003 với Ủy ban Suy nghĩ về việc Áp dụng Nguyên tắc Thế tục trong Nhà nước Cộng hòa Pháp, còn đi xa hơn khi giải thích tại sao tôn giáo cho dù trong chế độ thế tục còn lâu mới bị quy giản vào lĩnh vực riêng tư như người ta thường vẫn nghĩ, và cho thấy tự do biểu đạt của tôn giáo gắn với không gian công: “Trong khuôn khổ thế tục, các chọn lựa tâm linh và tôn giáo thuộc về tự do cá nhân. Điều đó không vì vậy mà có nghĩa những vấn đề này bị giới hạn vào bên trong lương tâm, “bị riêng tư hóa” và bị từ chối mọi chiều kích xã hội hoặc khả năng biểu đạt nơi công cộng. Nguyên tắc thế tục phân biệt sự tự do biểu đạt tâm linh và tôn giáo trong không gian công, hợp pháp và chủ yếu ở các tranh luận dân chủ, khác với sự chi phối bắt buộc của tôn giáo trên không gian công, điều này là không chính đáng. Đại diện của các chọn lựa tâm linh khác nhau đều có cơ sở tham gia tranh luận công cộng với tư cách là các thành tố của xã hội”13.

     Nhà nước Pháp cũng quan tâm đến vai trò của các tôn giáo trong quan hệ quốc tế. Năm 2004, những đại diện cho Islam giáo ở Pháp đã tham gia thương lượng để phóng thích các con tin người Pháp ở Iraq. Trong chính trị quốc nội, năm 1995, Quốc vụ khanh đặc trách các khu vực khó khăn (vùng người Arab theo Islam giáo) công khai mời gọi các tổ chức tôn giáo tham gia vào nỗ lực của chính quyền trong lĩnh vực này. Lãnh đạo nhiều tổ chức tôn giáo tham gia Hội đồng Tư vấn cho các Khoa học về Sự sống và Sức khỏe (Conseil consultatif d’Ethique pour les Sciences de la Vie et de la Santé), được thành lập vào năm 1983. Đối diện với những biểu hiện của chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc, bài Do Thái, một phong trào đại kết đã hình thành nhằm liên kết người Công giáo, người Do Thái giáo, người Islam giáo,… trong việc đề cao những giá trị tự do, bình đẳng, huynh đệ.

     Ở nước Pháp hiện nay, người ta nhân danh tự do lương tâm để đòi được công khai biểu lộ tôn giáo của mình, điều mà trước đây hầu như không tồn tại. Ngoài việc đòi mang các dấu hiệu tôn giáo, người ta còn nêu lên vấn đề thức ăn ở căng tin trường học, bệnh viện; ngày nghỉ lễ tôn giáo, việc bố trí thời gian làm việc để tôn trọng các nghi lễ tôn giáo; việc xây dựng nơi thờ tự cũng như việc bố trí không gian cầu nguyện nơi làm việc, nơi học tập; những dịch vụ công dành riêng cho phụ nữ, ngay cả đòi hỏi việc áp dụng những quy tắc riêng cho những nhóm người thuộc một tôn giáo cụ thể (ví dụ, người theo Islam giáo đòi hỏi ở hồ bơi công cộng phải có phiên bơi dành riêng cho phụ nữ Islam).

     Trước những đòi hỏi nêu trên, có hai nguyên tắc chi phối các quyết định: tính trung lập tuyệt đối của nhân viên công quyền (công chức) và sự bình đẳng trong đối xử với người sử dụng các dịch vụ công. Nguyên tắc thứ hai có thể đòi hỏi những xử lý đặc biệt nhưng trong giới hạn là phải làm cho dịch vụ công vận hành tốt. Trong các địa điểm của dịch vụ công, công chức phải tuân thủ nguyên tắc trung lập trong dịch vụ công, nhưng những người sử dụng không bị ràng buộc trên. Họ có quyền biểu lộ xác tín tôn giáo qua cách ăn mặc hay qua các biểu tượng họ mang ngay ở những địa điểm của dịch vụ công trong giới hạn là phải làm cho dịch vụ công vận hành tốt và với điều kiện không làm rối trật tự công cộng.

     Nhà nước Pháp ngày càng chấp nhận vai trò gia tăng của tôn giáo trong không gian công. Tuy nhiên, hàng loạt sự kiện liên quan đến mối quan hệ này đặt ra những tranh cãi gay go cho hệ thống tư pháp ở Pháp.

     Dưới đây là một vài vụ việc tiêu biểu:

     – Năm 1988, một nhóm người Công giáo bảo thủ đốt cháy rạp chiếu phim Saint Michel ở Paris, vì chiếu phim Cám dỗ cuối cùng của Chúa của đạo diễn M. Scorese.

     – Năm 2005, một thương hiệu biến chế bức tranh Tiệc ly của họa sĩ L. De Vinci với hình các phụ nữ khỏa thân khêu gợi để quảng cáo.

     – Tháng 8/2006, Fanny Trachelut, chủ một khách sạn không chấp nhận hai phụ nữ Islam giáo mang khăn choàng đầu.

     – Tháng 9/2007, chồng của một phụ nữ Islam giáo đã xông vào đánh và mắng một nam bác sĩ khi ông này đang giúp đỡ một phụ nữ sinh nở khó khăn.

     – Năm 2008, chủ tịch vùng Vigneux sur Seine chống lại việc các thánh đường Islam giáo tổ chức thi đấu bóng rổ nữ ở sân thể thao công cộng mà không cho nam giới vào xem.

     – Tờ Charlie Hebdo đăng tải các biếm họa về Sứ giả Muhammad. Tòa Thượng thẩm Paris tuyên bố tha bổng.

     Phán quyết của hệ thống tòa án Pháp về các vụ kiện nêu trên rất đa dạng, nhưng tựu trung đặt trên các cơ sở: tính trung lập của dịch vụ công, sự bình đẳng của người sử dụng, tuân thủ an ninh công cộng, tôn trọng tự do tư tưởng, tự do biểu đạt và tự do thực hành tôn giáo. Chẳng hạn, có thể phê bình khôi hài về tư tưởng của một tôn giáo hay một học thuyết nào đó, nhưng không được vu khống, lăng mạ, xúi giục bạo lực.

     Tóm lại, mặc dù còn nhiều vấn đề, nhưng nhìn chung, tôn giáo càng ngày càng được thừa nhận trong không gian công ở Pháp. J. P. Willaime giải thích về sự biến chuyển này như sau: “Điều này có được là do Giáo hội Công giáo không còn đe dọa các nền tảng của chế độ cộng hòa. Chế độ cộng hòa ở trong tình trạng có thể hội nhập Giáo hội Công giáo và các lực lượng tôn giáo khác vào không gian công và giao cho Giáo hội chức năng điều hòa xã hội dân sự”; và “Nhà nước thế tục càng từ bỏ quyền hành trên xã hội dân sự, càng phải thừa nhận sự đóng góp của các tôn giáo cho đời sống công cộng. Làm được điều này, nhà nước càng mang tính thế tục”14.

     4.2. Tôn giáo trong không gian công ở Mỹ

     Nước Mỹ được hình thành do những đợt người di cư từ Châu Âu. Họ là những người chống đối bất bình đẳng giai cấp trong xã hội từng sống, hoặc là nạn nhân của các xung đột chính trị, xung đột và kỳ thị tôn giáo ở Pháp, Đức và Anh. Họ cũng hiểu được sự độc quyền của một tôn giáo nào đó ở Châu Âu là nguyên nhân tạo nên những xung đột. Trước khi thống nhất, nước Mỹ là những vùng đất có nhiều khu kiều dân (colony), thuộc địa với những khuynh hướng tôn giáo rất đa dạng. Mỗi vùng thường chính thức hóa (establish) một tôn giáo, thông thường là tôn giáo của đa số. Hai sự kiện trên ít nhiều giải thích tại sao tôn giáo thấm nhuần trong không gian công của Mỹ và tại sao khi thống nhất, Hiến pháp của quốc gia này chống lại việc chính thức hóa một tôn giáo15.

     Thoạt nhìn, hiện tượng tôn giáo tồn tại khắp nơi trong không gian công ở Mỹ. Chẳng hạn, Tổng thống Mỹ khi nhậm chức phải tuyên thệ trước cuốn Kinh Thánh (được để ở trạng thái đóng); dòng chữ nổi tiếng trên tờ đô la Mỹ “In God we trust” (Chúng tôi tin vào Chúa), câu này xuất hiện từ năm 195616, sau đó cũng xuất hiện ở các tòa án, quốc hội Mỹ; quốc ca Mỹ có câu “Một dân tộc dưới sự che chở của Chúa” (A Nation under God), v.v…17. Nhưng trong thực tế, ở Mỹ có một chế độ phân ly rất nghiêm chặt và triệt để giữa nhà nước và tôn giáo, còn triệt để hơn các nhà nước ở Châu Âu, kể cả Pháp. Chế độ phân ly này có nguồn gốc trong điều tu chính án một của Hiến pháp Mỹ được phê chuẩn vào tháng 12/1791. Điều bổ sung sửa đổi thứ nhất của Hiến pháp: “Quốc hội không được đưa ra những đạo luật về việc chính thức hóa (establishment) một tôn giáo hay cấm đoán quyền tự do tôn giáo”18. Có hai vấn đề được khẳng định qua điều này: Một là, quyền thực thi tự do tôn giáo. Hai là, nhà nước tách khỏi tôn giáo. Qua điều khoản này, rõ ràng có sự phân ly giữa nhà nước và tôn giáo, mà người Mỹ thường dùng cụm từ “bức tường phân ly” (Wall of Separation), nhưng điều này không minh nhiên được ghi nhận. Do đó, ít nhiều không rõ ràng, các tòa án ở Mỹ thường dựa trên các án lệ (jurisprudence). Dưới đây là một số án lệ điển hình trong hàng trăm án lệ liên quan đến tôn giáo ở Mỹ:

     – Năm 1878, Reynolds bị kết án vì lấy hai vợ, nhưng ông chống án lên Tòa án Tối cao Mỹ với lý do là tín đồ Mormon, một tôn giáo cho phép đa thê. Nhưng Tòa án Tối cao bác lý lẽ của ông với lý do, nếu cho phép, người khác cũng lấy lý do tôn giáo để đòi tế sinh con người. Điều này làm cho những chủ thuyết đang được rao giảng của tôn giáo cao hơn luật của quốc gia, nghĩa là cho phép mọi người dân tự làm luật. Luật không chống quan điểm (của một tôn giáo), nhưng có thể ra luật để chống hành động từ quan điểm trên19.

     – Năm 1940, Cantwell và hai con là tín đồ phái Chứng nhân Jehovah đi truyền đạo tại vùng Công giáo có mang theo sách báo, băng đĩa có nội dung chống Công giáo. Họ đi truyền đạo từ nhà này sang nhà khác. Khi bị bắt, Cantwell kiện lên Tòa án Bang Connecticut với lý do chính quyền không có thẩm quyền xác định hoạt động của họ là có tính cách tôn giáo hay không. Tòa án Bang Connecticut đã bác lập luận của Cantwell. Nhưng Tòa án Liên bang phán quyết rằng, hành động của Cantwell được bảo hộ bởi điều một sửa đổi của Hiến pháp, được tự do hành đạo, và hành vi của Cantwell không gây rối trật tự công cộng.

     – Năm 1947, Emerson, với tư cách một người trả thuế, kiện Bang New Jersey dùng thuế để tài trợ cho tôn giáo. Nhưng Tòa án Liên bang, với số phiếu 4/5, đã bác đơn của Emerson khi cho rằng, tiền trợ cấp đó dành cho tất cả học sinh bất kể tôn giáo nào và được trả lại cho cha mẹ học sinh, chứ không phải cho tôn giáo.

     – Tháng 6/2000, các thẩm phán của Tòa án Liên bang bác yêu cầu của Hội Thánh Evangelist cho phép học sinh đọc kinh ở thềm trước khi vào lớp.

     – Năm 2009, Tòa Thượng thẩm Columbia Circuit bác đơn của nhà vô thần Michael Meadow kiện John Roberts, Giám đốc Pháp luật Tòa án Tối cao Mỹ, vì cho rằng câu “So help us God” trong diễn văn nhậm chức của Tổng thống Obama là vi hiến. Tòa án Tối cao cho rằng, sự khiếu nại là không thích hợp20. Trước đây, M. Meadow cũng bị thất bại như vậy khi kiện Tổng thống Bush.

     “Bức tường phân ly” ở Mỹ rất nghiêm khắc. Do đó, khác với Pháp, nơi mỗi năm chi nhiều tỷ Euro cho các cơ sở tôn giáo, việc tài trợ cho các cơ sở tôn giáo là điều không thể có ở Mỹ. Các cơ sở tôn giáo ở Mỹ phải tìm nguồn tài chính cho riêng mình.

     Vấn đề tài trợ công cho hoạt động từ thiện tôn giáo ở Mỹ

     Từ năm 2001, Tổng thống Bush đặt ra tổ chức White House Office of Faith – Based and Community Initiatives/ OFBCI (tạm dịch: Văn phòng Nhà trắng về Sáng kiến Cộng đồng và Dựa trên Niềm tin). Dưới thời Tổng thống Obama, tổ chức này đổi thành White House Office of Faith – Based and Neighborhood Partnerships. Sáng kiến nhằm củng cố các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo, phát triển khả năng các tổ chức này trong việc cung cấp những dịch vụ xã hội được liên bang tài trợ, với lý do các tổ chức này nắm vững các tình huống thực tế, do đó dễ đáp ứng nhu cầu của những cá nhân ở địa phương. Như vậy, các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo có thể cạnh tranh trong các hợp đồng của chính quyền nhằm cung cấp các dịch vụ xã hội.

     Tuy nhiên, để tránh sự liên kết giữa nhà nước và các tôn giáo đang thống trị, Nhà Trắng đặt ra ba hạn chế cho các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo để bảo vệ nguyên tắc phân ly giữa nhà nước và tôn giáo: Một là, không được dùng tài trợ trực tiếp của chính quyền để hỗ trợ các hoạt động thuần túy tôn giáo như thực hành nghi lễ, giảng dạy giáo lý, cầu nguyện và truyền đạo. Hai là, các hoạt động từ thiện được tài trợ phải được tách biệt rõ ràng giữa các dịch vụ xã hội tài trợ, như nồi cháo từ thiện hay cung cấp áo quần, với các dịch vụ tôn giáo. Ba là, các tổ chức dựa trên niềm tin tôn giáo không được phân biệt đối xử vì lý do tôn giáo khi cung cấp dịch vụ21.

     Sự tài trợ này khá quan trọng. Đến năm 2005, hai tỷ USD đã chi qua các hình thức tài trợ liên bang cho các hoạt động từ thiện tôn giáo. Điều này dấy lên những chống đối, ngay cả ở một bộ phận các tổ chức tôn giáo, vì họ muốn bảo vệ nguyên tắc phân ly nhà nước và tôn giáo.

     Vấn đề người lao động có tôn giáo và không gian công

     Xã hội Mỹ càng ngày càng đa dạng hơn về tôn giáo, một mặt do điều khoản tự do hành đạo trong Hiếp pháp (free exercice clause), mặt khác do nguồn gốc dân nhập cư có nhiều tôn giáo khác biệt từ nhiều quốc gia trên thế giới. Hơn nữa, nước Mỹ có đạo luật Quyền công dân (Civil Rights Act) năm 1964 cấm phân biệt chủng tộc, giới tính và tôn giáo nơi công cộng. Vì vậy, nhiều người lao động lên tiếng đòi được thể hiện quyền tự do tôn giáo trong công việc. Theo quy định của luật, họ có quyền được thu xếp công việc cho phù hợp với nhu cầu hành đạo, điều mà không phải mọi lãnh đạo và đồng nghiệp nơi họ làm việc đồng ý. Dưới đây là một số tranh chấp và vụ án điển hình liên quan đến vấn đề này:

     – Từ năm 2002 đến năm 2007, hơn 4.800 khách du lịch ở Sân bay Quốc tế Minneapolis St. Paul bị những người tài xế taxi theo Islam giáo nhập cư từ Somalia từ chối phục vụ, vì họ nhìn thấy hoặc nghi ngờ hành khách cất rượu trong hành lý. Tranh chấp này hiện chưa được giải quyết ngã ngũ.

     – Clarence Thomas, kỹ sư lắp ống dẫn dầu, thuộc Nhà máy lọc dầu Conoco Phillips ở Linden, Bang New Jersey bị yêu cầu phải đi làm vào các buổi sáng Chủ nhật hằng tuần tại công ty. Thomas cho biết, lúc đầu anh được thông báo có thể lấy thời gian nghỉ phép để nghỉ vào thời gian đó, nhưng sau đó ngay cả việc dàn xếp lịch như vậy cũng bị từ chối. Đến nay, tranh chấp này vẫn chưa được phân xử.

     – Bilan Nur, người Somalia nhập cư, 22 tuổi, bị đuổi việc vào tháng 12/2001 vì từ chối bỏ khăn choàng đầu trong cả tháng lễ Ramadan. Cô đã kiện Công ty Alamo Rent A Car. EEOC (US Equal Employment Opportunity Commission/ Ủy ban vì Sự bình đẳng Cơ hội Làm việc) được ủy quyền khởi kiện Alamo. Công ty Alamo thậm chí phải trả 250.000 USD để giải quyết vụ việc này22.

     – Ở Detroit, EEOC khởi kiện Công ty Điều dưỡng tại gia HCR Manor Care vì sa thải một y tá đeo thanh kiếm kirpan cùng trang phục công sở. Kirpan là thanh kiếm lưỡi cùn có vỏ bọc bên ngoài dài 3 inch, một trong những biểu tượng thiêng liêng của Sikh giáo. Ngày 8/6/2010, Manor Care chịu bồi thường 30.000 USD và huấn luyện nghề nghiệp cho mọi nhân viên để dàn xếp vụ kiện tụng trên23.

     Một số quan điểm của lãnh đạo các cơ quan, xí nghiệp

     Người Mỹ có đầu óc kinh doanh và đề cao hiệu năng. Do đó, mặc dù không phải mọi lãnh đạo cơ quan, xí nghiệp đều đồng thuận trong việc tạo điều kiện cho người lao động là tín đồ các tôn giáo có thể thể hiện nhu cầu tôn giáo của mình ở nơi làm việc, nhưng trong những năm gần đây có một số thay đổi trong nhận thức.

     Hãng sản xuất xe hơi Ford Motor Co. và nhiều hãng khác khuyến khích thành lập các nhóm đồng cảm theo định hướng tôn giáo để thành viên trong nhóm có thể gặp nhau cùng cầu nguyện hoặc nói chuyện. Tập đoàn Texas Instruments Inc. đã xây dựng các phòng tịnh tâm (serenity rooms) để người lao động trong các nhà máy lắp ráp có thể cầu nguyện. Một số phòng tịnh tâm còn được trang bị khu rửa chân để người lao động theo Islam giáo có thể tẩy thể trước khi cầu nguyện theo quy định của tôn giáo này. Khi IBM thắt chặt an ninh sau vụ tấn công khủng bố ngày 11/9/2001, một phụ nữ Islam giáo mới được tuyển dụng lo sợ có thể bị mất việc vì không muốn chụp ảnh mà không choàng khăn che mặt để làm thẻ ra vào. Nhưng hãng máy tính khổng lồ này đã tạo điều kiện cho cô bằng cách cấp hai thẻ nhân viên, một thẻ có ảnh chỉ để lộ đôi mắt để cô có thể đeo nơi công cộng, còn thẻ kia có ảnh không choàng mạng che mặt và chỉ có nhân viên bảo vệ nữ mới được phép xem24.

     Tuy nhiên, luật pháp Mỹ cũng quy định việc tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên thực hành tôn giáo không tạo nên sự bất tiện nghiêm trọng trong hoạt động kinh doanh sản xuất. Tòa án Tối cao Mỹ trong vụ Hãng hàng không Trans World Inc. kiện Hardison đưa ra phán quyết rằng, bất kỳ những vấn đề gì lớn hơn chi phí tối thiểu với chủ sử dụng lao động đều là những khó khăn không đáng có25.

5. Một vài nhận xét về không gian công và tôn giáo dưới góc độ xã hội học

     Sự phân biệt không gian công và không gian riêng của tôn giáo là một chủ đề được tranh luận từ thế kỷ XVIII ở Châu Âu ẩn chứa một xung đột về quyền lực liên quan đến quan niệm về vị thế của tôn giáo trong định hướng chính trị, văn hóa và xã hội của các quốc gia hiện đại, như trường hợp của Pháp. Quá trình hiện đại hóa được gắn liền với quá trình thế tục hóa với một đặc trưng là việc riêng tư hóa (privatization) tôn giáo. Nhưng thực chất, tôn giáo là vấn đề riêng tư hay công cộng vẫn là một câu hỏi chưa được trả lời rõ ràng.

     Dưới góc độ luật học, triết học có thể xem các xác tín tôn giáo là việc riêng tư, liên quan đến cá nhân. Nhưng dưới góc độ xã hội học, phải thấy rằng, tôn giáo là một hiện thực xã hội. Tôn giáo tồn tại qua tổ chức tôn giáo, hoạt động tôn giáo cho dù có những quyền lực công nhận hay không công nhận sự tồn tại của chúng thì chúng vẫn tồn tại, vẫn là những thực thể.

     Các sự kiện đã trình bày cho thấy, không gian riêng và không gian công có những ranh giới khác nhau tùy theo các tác nhân trong những tình huống đặc thù. Chúng là những biểu trưng dao động, thay đổi qua lịch sử và trong tương quan các lực chi phối. Cách mạng Pháp, đặc biệt Luật phân ly năm 1905 đã đẩy tôn giáo từ một định chế bao trùm xã hội vào vị thế của một định chế riêng biệt cũng như các định chế khác, hơn thế nữa vào lĩnh vực riêng tư cá nhân. Nhưng ngày nay, khi tôn giáo không còn là một đối trọng của quyền lực chính trị, tôn giáo lại được mời gọi đóng vai trò lớn hơn trong không gian công. Lấy trường hợp các nước Đông Âu từ sau Thế chiến thứ II đến những năm 1990, tôn giáo bị giới hạn vào lĩnh vực riêng tư của chọn lựa cá nhân. Nhưng với sự tan rã của các quốc gia thuộc khối Đông Âu, các tôn giáo lại tham gia vào không gian công, đóng góp cho các lĩnh vực giáo dục, xã hội.

     Nhìn chung, trong tương quan giữa tôn giáo và không gian công, có hai mô hình chính yếu: mô hình duy thế tục, muốn đẩy tôn giáo vào lĩnh vực riêng tư và mô hình hậu thế tục (post – secular)26, gắn tôn giáo với chức năng tạo ý nghĩa vững chắc cho cuộc sống đầy biến động hôm nay, là nguồn lực cho cá nhân và xã hội. Giữa hai mô hình chính yếu trên tồn tại nhiều biến thể đa dạng./.

     Chú thích:

1. E. Kant (J. F. Poirier dịch, 1991), Réponse à la question: Qu’est-ce que les Lumières, Flammarion, Paris.

2. J. Habermas (M. B. de Launay dịch, 1978), L’Espace public: Archéologie de la publicité comme dimension constitutive de la société bourgeoise, Payot, Paris.

3. J. Habermas (R. Rochlitz, C. Bouchindhomme dịch,1997), Droit et democratie, Gallimard, Paris.

4. http://en.wikipedia.org/wiki/Public_sphere.

5. J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, European Journal of Philosophy, No. 24: 1.

6. J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, bđd: 9.

7. J. Habermas (2008), Between Naturalism and Religion, Polity Press: 45.

8. E. Kant (A. Tremesaygues dịch, 1923), La Religion dans les Limites de la Raison, Paris: 37, trong Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 6: 23.

9. J. Habermas (2004), “Prépolitiques de l’État démocratique: Pluralisme et morale”, Esprit, Juillet: 18.

10. J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, bđd: 14 – 15; C. Lafont (2009), “Religion and public sphere: What are the deliberative obligations of democratic citizenship?”, Philosophy Social Criticism, Vol. 35: 131 – 132.

11. P. Portier (2012), “Religion and Democracy in the Thought of Jurgen Habermas”, Culture and Society, No. 48: 426 – 432, trong Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, bđd: 17-19.

12. “Laicité en France”,
http://fr.wikipedia.org/wiki/La%C3%AFcit%C3%A9_en_France; J. Baubérot (2004), Histoire de la laicite en France, PUF, Que Sais-je?.

13. Commission Stasi (2004), Laicité et République, La Documentation Francaise, Paris: 31.

14. J. P. Willaime (2009), “La Laicité 100 ans après”, trong L. Chatellier, C. Langlois & J.P. Willaime, Lumières, Religion et Laicité, Riveneuve ed.

15. “Separation of church and state”,
http://en.wikipedia.org/wiki/Separation_of_church_and_state; Sébastien Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, modèle américain”, Questions Internationales, No . 29.

16. Trong bối cảnh Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ chống lại khối Xô Viết theo chủ nghĩa vô thần.

17. Nguyễn Xuân Nghĩa (2011), “Các quan điểm về tôn giáo dân sự”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2.

18. Theo tôi, nên hiểu establisment theo nghĩa là chính thức hóa một tôn giáo (lấy làm quốc giáo), hơn là thuật ngữ thiết lập. Trong cuộc tranh luận ở Quốc hội Mỹ về vấn đề này, người ta không dám dùng thuật ngữ “tôn giáo quốc gia” vì tránh hiểu lầm là Anh giáo do muốn tránh né sự đụng độ giữa những người ủng hộ và những người phản đối hình thức liên bang của Mỹ.

19. Http://en.wikipedia.org/wiki/Reynolds_v._United_States.

20. Amandine Barb (2010), “Le renouveau du militantisme athée aux États-Unis”, Sciences humaines, No. 214: 31. Xem thêm:
http://scholar.google.com/scholar_case?case=13559298291193146253.

21 Sébastien Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen,
modèle américain”, bđd.
22 Xem: http://www.eeoc.gov/eeoc/newsroom/release/5-30-06.cfm.
23 Xem: http://sikhcoalition.wordpress.com/2010/06/10/eeoc-settles-caseprotecting-sikh-employees-right-to-wear-kirpan-at-work/.
24 Gustav Niebuhr (2008), “The Interfaith Movement”, in Freedom of Faith –
Religious Minorities in United States, US Departement of State.
25 Xem: http://supreme.justia.com/us/432/63.
26 J. Habermas (2008), “A Post – Secular Society – What Does that Means”? Paper
presented at Istanbul Seminars by Reset Dialogues on Civilizations, Istanbul, 2nd
– 6th June.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. A. Barb (2010), “Le renouveau du militantisme athée aux États-Unis”, Sciences humaines, No. 214.

2. J. Baubérot (2004), Histoire de la laicite en France, PUF, Que Sais-je?

3. Commission Stasi (2004), Laicité et République, La Documentation Francaise, Paris.

4. S. Fath (2008), “Les Eglises chrétiennes et l’État: modèle européen, modèle américain”, Questions Internationales, No. 29.

5. S. Haber (2001), Jurgen Habermas, une introduction, La Découverte, Paris.

6. J. Habermas (R. Rochlitz, C. Bouchindhomme dịch, 1997), Droit et democratie, Gallimard, Paris.

7. J. Habermas (2004), “Prépolitiques de l’État démocratique: Pluralisme et morale”, Esprit, Juillet.

8. J. Habermas (2004), “Les Fondements Prépolitiques de l’État démocratique. Pluralisme et morale”, Esprit, Juillet.

9. J. Habermas (2006), “Religion in Public Sphere”, European Journal of Philosophy, No. 14.

10. J. Habermas (2008), “A Post – Secular Society – What Does that Means?” Paperpresented at Istanbul Seminars by Reset Dialogues on Civilizationsm Istanbul, 2nd – 6th June.

11. J. Habermas (2008), Between Naturalism and Religion, Polity Press.

12. E. Kant (A. Tremesaygues dịch, 1913), La Religion dans les Limites de la Raison, Paris.

13. E. Kant (J.F. Poirier dịch, 1991), Réponse à la question: Qu’est-ce que les Lumières, Flammarion, Paris.

14. Lafont (2009), “Religion and public sphere: What are the deliberative obligations of democratic citizenship?” Philosophy Social Criticism, Vol. 35, No. 1 – 2.

15. Nguyễn Xuân Nghĩa (2011), “Các quan điểm về tôn giáo dân sự”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 2.

16. Nguyễn Xuân Nghĩa (2012), “Tư tưởng của Jurgen Habermas về tôn giáo”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 6.

17. G. Niebuhr (2008), “The Interfaith Movement”, in Freedom of Faith – Religious Minorities in United States, US. Departement of State.

18. P. Portier (2011), “Religion and Democracy in the Thought of Jurgen Habermas”, Culture and Society, No. 48.

19. “Public Sphere”, http://en.wikipedia.org/wiki/Public_sphere.

20. “Laicité en France”,
http://fr.wikipedia.org/wiki/La%C3%AFcit%C3%A9_en_France.

21. “Separation of church and state”,
http://en.wikipedia.org/wiki/Separation_of_church_and_state.

22. J. P. Willaime (2009), “La Laicité 100 ans après” trong L. Chatellier, C. Langlois, J.P. Willaime, Lumières, Religion et Laicité, Riveneuve ed.

Nguồn: Nghiên cứu tôn giáo, số 09(135), 2014, 20-38

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Không gian công và tôn giáo (Tác giả: TS. Nguyễn Xuân Nghĩa)