Kịch viết về đề tài lịch sử sau năm 1945 – Nhìn từ phương diện ngôn ngữ kịch

LITERARY GENRES WRITTEN ABOUT HISTORY AFTER 1945 –
FROM THE PERSPECTIVE OF THE LANGUAGE OF DRAMA

Tác giả bài viết: TRẦN THỊ THƯ
(Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội)

TÓM TẮT

     Kịch viết về đề tài lịch sử giai đoạn sau 1945 có những biến chuyển tương đối lớn về đề tài cũng như hướng tiếp cận lịch sử. Về nội dung, kịch lịch sử giai đoạn nửa sau thế kỷ XX phân chia thành hai chủ đề lớn: chiến tranh cách mạng và lịch sử phong kiến. Về thi pháp, trong vòng hơn một trăm năm tồn tại và phát triển, kịch Việt Nam đã có nhiều thay đổi để tiếp cận với thi pháp kịch hiện đại trên thế giới. Những đặc điểm này được thể hiện rất rõ trong hành động, xung đột, nhân vật và ngôn ngữ kịch. Trong đó, ngôn ngữ kịch ít được nói đến, nhưng lại là yếu tố quan trọng làm nên diện mạo của kịch nói chung và kịch về đề tài lịch sử nói riêng.

Từ khoá: Kịch về đề tài lịch sử; ngôn ngữ, thi pháp kịch.

ABSTRACT

     The written plays about the history in the period after 1945 have relatively significant changes in the themes as well as the historical approach. About the content, the historical plays in the second half of the twentieth century divided into two subjects: revolutionary war and Vietnam feudal history. About the poetics, Vietnamese plays made many changes to reach modern poetics in the world over the past hundred years of the existence and development. These traits are showed in action, conflict, character and language drama. Besides, the language of drama is less talked about, but it is an important factor that makes the appearance of drama in general and drama in the topic of history in particular.

Keywords: The play, historical theme, the language, the poetic.

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Mặc dù ra đời khá muộn so với các thể loại khác, nhưng kịch Việt Nam lại sớm có nhiều thành tựu nổi bật, trong đó không thể không nhắc đến kịch viết về đề tài lịch sử. Với đặc trưng thể loại là sự đề cao xung đột kịch tính, vai trò diễn xuất của diễn viên, sự tái dựng cuộc đời trên sân khấu…, nên kịch có tác động mạnh mẽ đến khán giả. Các vở kịch về đề tài lịch sử, do đó, càng có sức sống khá lâu dài, không ngừng được tái dựng trên sân khấu, không ngừng được khai thác, dàn dựng theo quan điểm và phương thức diễn xướng đương đại. Từ những năm ba mươi của thế kỷ trước, kịch lịch sử đã bắt đầu được chú ý với sự ra đời của một loạt vở kịch được sáng tác và dàn dựng dựa trên các “tích cổ”, theo tinh thần “dĩ cổ vi kim”. Gắn với hiện thực hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, các kịch phẩm thời kì chống Pháp và chống Mỹ đã đạt đến sự thống nhất cao về tư tưởng, chủ đề, giá trị nội dung và nghệ thuật. Bên cạnh các vở kịch tái dựng hình ảnh dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử là các kịch phẩm tập trung thể hiện chủ đề chiến tranh cách mạng. Một số vở kịch tiêu biểu như Bắc Sơn, Những người ở lại của Nguyễn Huy Tưởng; Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi; Nổi gió, Đại đội trưởng của tôi của Đào Hồng Cẩm; Nợ non sông của Phạm Quang Long; Độc thoại đêm của Lê Duy Hạnh, Cột trụ chống trời của Nguyễn Anh Biên… đã đánh dấu một chặng đường phát triển mới, ghi nhận nhiều yếu tố cách tân, sáng tạo về phương diện nội dung, nghệ thuật kịch cũng như hiệu ứng lan tỏa, tác động thẩm mĩ sâu rộng đến đông đảo công chúng. Ngoài cốt truyện, hành động, xung đột kịch tính…, ngôn ngữ kịch đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện chân dung, tính cách của các nhân vật kịch. Dưới đây, chúng tôi điểm lại một số nét đáng chú ý của ngôn ngữ kịch trong các kịch phẩm viết về đề tài lịch sử.

2. Nội dung

     2.1. Sơ lược về các dạng thức ngôn ngữ kịch, ngôn ngữ độc thoại

     Bàn về kịch (kịch bản văn học), chúng ta có thể nhận thấy những đặc thù của ngôn ngữ thể loại. Đối với một tác phẩm kịch, khác với ngôn ngữ của thể loại trữ tình và tự sự, mọi vấn đề đều nằm trong ngôn ngữ nhân vật, nghĩa là tác giả dùng ngôn ngữ thoại để xây dựng nhân vật chứ không dùng ngôn ngữ miêu tả. Ở đây, người kể chuyện hoàn toàn không tham gia vào việc dẫn dắt nội dung tác phẩm mà thay vào đó, tác giả kịch bản sẽ gửi gắm tất cả những quan điểm nghệ thuật của mình thông qua ngôn ngữ của nhân vật, do đó, quan điểm sáng tác của nhà văn được thể hiện cùng một lúc qua nhiều tiếng nói khác nhau. Bởi vậy, về cơ bản, kịch bản văn học chỉ có một thành phần lời nói. Đó là lời các nhân vật được truyền đạt bởi những diễn viên đóng vai các nhân vật ấy. Lời của các nhân vật gọi là thoại, bao gồm ba dạng: đối thoại, độc thoại và bàng thoại.

     Theo Lại Nguyên Ân, “ngôn từ đối thoại là sự giao tiếp qua lại (thường là giữa hai phía) trong đó có sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia (giữa những người tham gia giao tiếp). Mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát ngôn có trước và là sự phản xạ lại phát ngôn ấy. Ngôn ngữ đối thoại trong kịch bản văn học là sự đối đáp qua lại giữa các nhân vật. Vì kịch bản chủ yếu là sự liên kết một chuỗi các đối thoại, nên đây là thành phần lời văn quan trọng nhất, giữ vị trí then chốt tạo nên cấu trúc của kịch bản văn học” [1, tr.130]. Đối thoại là nói với nhau nhưng không phải cứ nói với nhau là có đối thoại trong kịch. Bêlinxki nói, tính kịch không phải là do có nói qua lại mà tạo nên được, nó phải do hành động giao lưu sinh động giữa hai người mà tạo thành. Nghĩa là cấu trúc của đối thoại kịch thường phải chứa đựng nội dung đối nghịch nhau để tạo nên tính kịch nói chung và xung đột kịch nói riêng. Vì chứa đựng nội dung của những hành động đối nghịch như thế nên ngôn ngữ đối thoại trong kịch giống như một tổ chức điểm nhìn thay thế cho điểm nhìn của người trần thuật, đồng thời là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện.

     Độc thoại là phát ngôn của nhân vật nói với chính bản thân mình. Trong cuộc sống, có những nỗi xúc động mãnh liệt trong lòng mà chưa thể hoặc không thể giãi bày cùng ai, thì người ta thường trò chuyện với chính mình. Trong kịch, biện pháp này được vận dụng để bộc lộ nội tâm nhân vật. Trong những trường hợp nội tâm phức tạp, dằn vặt thì độc thoại chính lại là cuộc đối thoại giữa con tim và lý trí của bản thân. Bằng ngôn ngữ độc thoại, nhân vật tự nói lên những uẩn khúc chìm khuất bên trong, qua đó, các tác giả kịch bản đạt tới mục đích khai thác chiều sâu tâm lí của nhân vật của mình. Trong kịch, không chỉ riêng lời đối thoại mà ngay cả lời độc thoại cũng có những đặc điểm của một hành động. Sự khác nhau chỉ là ở chỗ, trong độc thoại, đối tượng tác động của lời thoại không phải là người khác mà chính là bản thân nhân vật đang độc thoại.

     Bàng thoại là lời nhân vật nói riêng với khán giả. Khi các nhân vật đang đối thoại với nhau, một nhân vật tiến lên phía trước, hướng về khán giả nói vài câu để giải thích một cảnh ngộ, một tâm trạng hay một điều bí mật nào đó. Khi nói như thế, nhân vật mặc nhiên xem như những nhân vật khác không nghe thấy lời nói đó. Bởi vậy, lời bàng thoại thể hiện rõ nhất tính chất “trò diễn” đầy ước lệ của ngôn ngữ kịch.

     Đối thoại được xem là yếu tố chính trong tất cả các tác phẩm kịch. Tuy nhiên, trong tương quan đối sánh giữa hai dạng thức đối thoại và độc thoại, chúng ta nhận thấy có một sự thay đổi khá lớn trong từng giai đoạn phát triển của kịch. Ở giai đoạn đầu thế kỉ XX, kịch viết về đề tài lịch sử không nhiều, chủ yếu ở các vở kịch tâm lý – xã hội, do đó, ngôn ngữ độc thoại được coi trọng. Song tần suất độc thoại trên thực tế không nhiều và thường chỉ xuất hiện ở cuối vở kịch khi nhân vật bắt đầu thấy hối hận về hành động cũng như sai lầm của mình trong quá khứ. Trong Chén thuốc độc,Vũ Đình Long đã để cho nhân vật của mình độc thoại trước khi tìm đến cái chết như một sự hối cải trong tâm hồn: “Ta mà chết đi thì mẹ ta, vợ ta, em ta, ai nuôi, ai nấng, ai trông, ai nom?”, và quyết định viết thư để lại cho người em lưu lạc, ủy thác cho em thay mình làm tròn trách nhiệm với gia đình “Vậy ta hãy viết cho nó cái thơ để nó về phụng dưỡng mẹ ta. Phải rồi, ta hãy viết thơ cho nó, rồi chết cũng cam tâm” [4, tr.56]. Sang đến giai đoạn nửa sau thế kỉ, các vở kịch của Nguyễn Huy Tưởng, Học Phi hay Đào Hồng Cẩm có chung xu thế “chủ nghĩa anh hùng cách mạng được khẳng định như một đặc điểm, một phẩm chất, một giá trị tinh thần lớn lao của con người thời đại” [2, tr.212]. Do vậy, ngôn ngữ kịch trong các tác phẩm này chủ yếu là ngôn ngữ đối thoại, thể hiện ý chí của bản thân cũng như lý tưởng cách mạng. Tuy nhiên, vai trò của ngôn ngữ độc thoại trong các tác phẩm kịch viết về về đề tài lịch sử vẫn được khẳng định, trở thành điểm nhấn, làm tăng giá trị nghệ thuật của các tác phẩm kịch đáng kể.

     Qua khảo sát dạng ngôn ngữ trong một số văn bản kịch, chúng tôi nhận thấy, ngôn ngữ độc thoại có sự gia tăng cả về số lượng câu và độ dài câu. Nếu như Bắc Sơn (Nguyễn Huy Tưởng – 1946) tỉ lệ câu độc thoại của nhân vật là 6/726 và chủ yếu xuất hiện ở cảnh đầu và cảnh cuối, thì đến những vở kịch sau này của Đào Hồng Cẩm như Chị Nhàn, Đại đội trưởng của tôi…, số câu độc thoại đã tăng lên nhằm thể hiện ý chí vượt qua những thử thách lớn lao, đấu tranh tâm lý, xung đột tư tưởng… của các nhân vật. Đến các vở kịch của Nguyễn Đình Thi, số lượng câu độc thoại đã tăng lên đáng kể, chẳng hạn vở Rừng Trúc (1978) có 15 lời độc thoại; Nguyễn Trãi ở Đông Quan (1979) có 7 lời trên tổng số 550 đơn vị câu thoại. Trong các truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam, dạng câu kể độc thoại nội tâm chỉ thực sự phổ biến trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI với sự ảnh hưởng của dấu ấn hậu hiện đại. Còn trong kịch, trước cả giai đoạn trước đổi mới, ngôn ngữ độc thoại đã trở thành một trong những phương thức được các tác giả kịch bản sử dụng để tạo nên dấu ấn trong việc xây dựng xung đột và tính cách nhân vật.

     Việc chú ý xây dựng các đoạn độc thoại cũng được các nhà viết kịch chú ý nhiều hơn. Nếu như ở Bắc Sơn, độc thoại nội tâm chỉ xuất hiện rõ nét nhất qua lời của bà cụ Phương ở lớp kịch thứ nhất và của Thơm ở lớp cuối của vở kịch thì đến Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Nguyễn Đình Thi đã để riêng nhân vật Nguyễn Trãi độc thoại đến 6 lần, đặc biệt hơn, trong Rừng Trúc, tác giả đã để Lý Chiêu Hoàng độc thoại ngay từ lúc đầu xuất hiện; có đoạn độc thoại dài đến bốn mươi bốn câu, khi chuyển thể lên sân khấu, riêng màn độc thoại này đã chiếm đến hai mươi phút đồng hồ. Đây là nhân vật lịch sử được Nguyễn Đình Thi dành rất nhiều tâm huyết để xây dựng. Lý Chiêu Hoàng một người phụ nữ quyền quý nhưng lại phải đứng chơi vơi giữa bão táp triều đình khi tuổi đời còn quá trẻ. Nàng phải hi sinh rất nhiều để đổi lấy bình yên cho đất nước, phải chấp nhận mất vương quyền, tình yêu, tình thương… và cả sự ghẻ lạnh của người xung quanh. Trong tình thế cô độc đó, nàng độc thoại với từng người:

     – Mẹ chắc cũng còn đôi chút tình mẹ con chứ nhỉ… Là mẹ ta, nhưng lại là vợ kẻ đã bắt cha ta phải chết. Thế thì ta là con gái đáng thương của bà, hay ta là kẻ thù đáng sợ của vợ chồng bà? Bà nhìn thấy ta là con bà hay nhìn thấy ta chỉ như cái oán hiện hình, không thể nào tan đi được!

     – Tội nghiệp cho chị, chị Thuận Thiên ạ, đáng lẽ chỉ còn có chị với em thôi. Thế nhưng bây giờ họ đang lôi chị vào đấy, biết đâu, lúc này chị nhìn em chẳng thấy em đã hóa ra như một cái gai rồi, một cái gai phải bẻ đi, nhổ đi, không thì cũng phải làm thế nào gói kín cất sang một bên…

     – Đáng lẽ người gần ta nhất, thương ta nhất, là chàng đấy, chàng Hai của em ơi… Chàng chẳng có tội gì với cha em. Có lẽ chàng cũngthương yêu em từ năm ấy em lên 7, chàng lên 8 nhỉ, cho đến bây giờ, hơn mười năm có lẽ lòng chàng cũng chưa đến nỗi quên chút nghĩa cũ từ ngày ấy. Nhưng mà chàng chẳng phải chỉ là chàng Hai của ta… [9, tr.259].

     Qua những lời độc thoại của nhân vật, người đọc và người xem có thể hình dung ra những dằn vặt, đau khổ cũng như sự chịu đựng kiên cường của nhân vật trong tình thế đầy bi kịch. Sử dụng câu độc thoại đồng nghĩa với việc chức năng giao tiếp ở những lời thoại đó đã giảm xuống mức thấp nhất. Tác giả có ý đồ sử dụng cách thức này như một cách khắc họa sâu đậm hơn sự cô đơn của nhân vật. Chiêu Hoàng là công chúa, nhưng cũng lại là một đứa con gái mất cha; là nữ hoàng, nhưng lại là một nữ hoàng mất ngôi; là hoàng hậu, nhưng cũng lại là một người vợ mất chồng. Đó là một minh chứng rất rõ nét cho xu hướng đưa dạng ngôn ngữ độc thoại vào các văn bản kịch lịch sử trong những năm sau cách mạng đến nay. Trong dòng chảy của các tác phẩm kịch viết về đề tài lịch sử, kể cả các tác phẩm viết sau này, lời độc thoại, vô hình trung, đã trở thành một phương thức phổ biến để khắc hoạ cuộc đấu tranh tinh thần, xung đột bên trong của các nhân vật kịch.

     Có thể nói, kịch phẩm về đề tài lịch sử được viết theo nguyên tắc, thủ pháp hiện đại có sự giao thoa giữa các thể loại kịch lịch sử và kịch tâm lí – xã hội. Biểu hiện của sự giao thoa ấy chính là việc các kịch tác gia sử dụng ngày càng nhiều và phổ biến của kiểu lời độc thoại. Không những thế, ở một số tác phẩm tiêu biểu, dạng thức này được vận dụng một cách linh hoạt và đầy biến đổi để tạo nên những câu thoại với cấu trúc khá phức tạp, tạo nên ấn tượng trong việc khắc hoạ nhân vật, đặc biệt đối với các nhân vật có thật trong lịch sử (theo chúng tôi, cách vận dụng ngôn ngữ độc thoại để xây dựng các nhân vật có thật trong lịch sử rõ nét hơn rất nhiều trong các nhân vật hư cấu). Với cách dùng dạng thức ngôn ngữ độc thoại như vậy, kịch viết về đề tài lịch sử đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng và tính cách nhân vật, đặc biệt trong các tình huống tạo nên xung đột kịch.

     2.2. Đặc trưng của ngôn ngữ kịch

     Đối với mỗi tác phẩm kịch nói chung, ngôn ngữ mang trong mình những đặc điểm riêng biệt so với những dạng ngôn ngữ văn học khác. Đó là dạng ngôn ngữ hoàn toàn dựa vào lời thoại của nhân vật để khắc hoạ tính cách, hành động chứ không thông qua ngôn ngữ người kể chuyện như trong văn xuôi. Chính vì lẽ đó, ngôn ngữ kịch phải mang trong mình những yếu tố đặc trưng như: tính hành động, vừa mang tính nghệ thuật vừa phải có tính khẩu ngữ bởi nó được thể hiện bằng hình thức “hội thoại”. Tính hành động của ngôn ngữ kịch chính là yếu tố tối quan trọng đảm bảo sự phát triển kịch tính của cốt truyện. Bên cạnh đó, cần nhận thấy ngôn ngữ kịch là hình thái ngôn ngữ hội thoại vừa gần gũi đời sống, vừa mang tính nghệ thuật. Không giàu tính ước lệ cách điệu, ngôn ngữ kịch ít nhiều mang tính khẩu ngữ, ngắn gọn, dễ hiểu nhưng không đồng nghĩa với thô thiển, vụng về, nó vẫn có tính hàm súc, biểu cảm cao, mang dụng ý riêng của người viết và khắc họa được những tính cách điển hình.

     Sắc thái biểu cảm và đặc điểm từ vựng trong ngôn ngữ kịch lịch sử

     Trong các vở kịch về đề tài tâm lý – xã hội những năm đầu thế kỷ, ngôn ngữ hội thoại thường được đơn giản hóa, gần gũi với lời ăn tiếng nói của tầng lớp thị dân trung lưu. Cách nói chuyện không còn câu nệ, không phải bóng gió xa xôi, những lời đối thoại, những câu chuyện hàng ngày đã được đưa vào trong vở kịch với một lối viết rất chân thực. Đặc biệt, những tác phẩm kịch tâm lý được viết vào giai đoạn này thường được viết dưới dạng câu thoại ngôn ngữ xen tiếng Pháp, phản ánh việc sử dụng ngôn ngữ nửa Tây, nửa ta của phần lớn thị dân thời đó. Ngược lại, ngôn ngữ kịch viết về đề tài lịch sử lại mang trong mình chức năng phản ánh hơi thở của thời đại, do đó, có thể xem đó là những tác phẩm mang “khuynh hướng sử thi và cảm hứng trữ tình”. Điều này có thể lý giải: kịch tâm lý – xã hội thường hướng đến những xung đột giữa cá nhân và gia đình, xã hội, còn kịch lịch sử hướng đến việc phản ánh xung đột giữa con người và thời đại. Chính bởi lẽ đó, ngôn ngữ kịch viết về đề tài lịch sử hầu hết đều có sắc thái mạnh mẽ, hào sảng để nói đến những vấn đề lớn lao của vận mệnh đất nước. Tuy nhiên, với hai mảng chủ đề chính trong kịch lịch sử: chiến tranh cách mạng và lịch sử phong kiến, ngôn ngữ kịch cũng được phân hoá thành hai màu sắc khác nhau: một bên là ngôn ngữ gần gũi, hiện đại và quen thuộc, một bên là màu sắc ngôn ngữ cổ xưa, trau chuốt. Trong Bắc Sơn, tuyến nhân vật chính là những người nông dân chân chất, hết lòng vì cuộc kháng chiến được thể hiện qua ngôn ngữ ngắn gọn súc tích, mang tính khẩu ngữ với nhiều từ ngữ địa phương, ngay từ cách xưng hô:

     – Thơm: Đã trói nó còn làm được gì nữa. Trông khiếp cả người ra mà thiên hạ cứ theo đi rều rễu như ruồi, không biết sợ. Tợn thật! Trông mấy thằng Tây, mặt cứ đỏ gay ra, mặt thì đỏ gay đến khiếp! [11, tr.21].

     – Ông cụ Phương: … Thế con Thơm “mấy” thằng Sáng. Thơm, mày ăn mặc có khác gì con đĩ không? Làm vợ một thằng nho mà sang như bà hoàng ấy. Mày trông chung quanh có ai diêm dúa như mày không? Người ta đang sống dở chết dở, áo không có mà mặc, gạo không có mà ăn, mặt bủng da chì đây kia!… [11, tr.31].

     Trong khi đó, khắc họa nhân vật Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Thi lại có cách lựa chọn ngôn ngữ mang tính chất cổ phong với sự vận dụng từ Hán – Việt cùng những câu văn đậm chất trữ tình làm toát lên khí phách cũng như tài hoa của vị anh hùng dân tộc trong vở Nguyễn Trãi ở Đông Quan:

     – Đông Quan bên kia rồi… Cát bay mờ mịt cả… Gió quá… Đông Quan… Chiếc lá rụng trong cơn binh lửa đã dạt về tới đây… Tội nghiệp, cái bến đò nhỏ mà quân Ngô nó cũng đốt phá! Chiếc bia nơi miếu cũ, chúng cũng đập nát! “Thuý trúc, hoàng hoa… Bạch vân, minh nguyệt”… Hai câu đời Thông Thuỵ… “Trúc biếc, hoa vàng… mây trắng, trăng trong”…

     Bây giờ nhìn đâu cũng chỉ thấy lởm chởm giáo mác quân cuồng bạo! Kinh điển chữ nghĩa cả nước đã thành đá vụn, tro tàn!… Vậy mà túp lều kia, cây đỗ quyên đang nở muôn nghìn đốm son phấp phới… Mùa xuân về đấy ư…? [9, tr.341].

     Tuy nhiên, xét về mặt ngôn ngữ từ vựng, không phải bất kỳ tác phẩm kịch lịch sử viết về thời kỳ phong kiến cũng hoàn toàn khoác lên mình ngôn ngữ của thời kỳ đó. Bởi đúng như nhà văn Quách Mạt Nhược đã từng đặt ra câu hỏi nếu chúng ta viết đúng như ngôn ngữ tuyệt đối của lịch sử thì ai sẽ là người hiểu được ngôn ngữ đó và tìm đâu ra ngôn ngữ tuyệt đối của lịch sử, và khẳng định “viết kịch lịch sử phải dùng ngôn ngữ quá khứ, thật là kỳ quặc” [6, tr.6]. Do vậy, ngôn ngữ được thể hiện trong các tác phẩm kịch lịch sử phần lớn vẫn là từ ngôn ngữ hiện đại đan xen một số từ cổ điển hoặc từ Hán – Việt sao cho phù hợp với hình tượng của nhân vật. Thêm vào đó, ngôn ngữ trong lịch sử chính xác như thế nào là một câu hỏi lớn đối với toàn nhân loại, do đó kịch lịch sử chỉ có vai trò như sự tái dựng lại một vài đặc điểm của ngôn ngữ cổ ngay cả khi đó là văn bản kịch về thời kỳ phong kiến. Cả người sáng tạo kịch bản lẫn người tiếp nhận kịch bản lịch sử đều có chung quan điểm “Ngôn ngữ nhân vật lịch sử trong tác phẩm trược hết phải là hiện thân của tính cách, con người lịch sử, là sản phẩm của văn hoá, xã hội giai đoạn lịch sử đó, sau nữa, phải là ngôn ngữ mà người xem hiện đại có thể hiểu được” [3, tr.108-109]. Cách xưng hô “ta, trẫm, nàng, cô nương, chàng…” được xem như một đặc điểm dễ nhận biết nhất của một vở kịch về thời phong kiến. Những câu thoại của nhân vật có nhiều từ Hán Việt thể hiện được xuất thân và học vấn của nhân vật đó, ngược lại, cách dùng từ địa phương cũng như nhiều thành ngữ dân gian chính là đặc điểm của các nhân vật như người nông dân chân chất, thật thà trong kịch viết về chiến tranh cách mạng.

     Vai trò tái hiện hình tượng nhân vật lịch sử của ngôn ngữ kịch

     Một trong những vai trò quan trọng của ngôn ngữ trong kịch viết về đề tài lịch sử đó là làm sống lại những nhân vật có thật trong lịch sử bằng chính ngôn ngữ thoại mà tác giả trao cho nhân vật của mình. Có thể nói, đây là một điểm khá riêng biệt của ngôn ngữ kịch lịch sử so với kịch tâm lý xã hội bởi những nhân vật trong thể loại kịch khác được sáng tạo tại thời hiện tại, còn nhân vật trong kịch lịch sử lại là sự “tái hiện” qua cái nhìn chủ quan của tác giả. Qua đó, chỉ cần thông qua lời thoại của nhân vật, người đọc (người xem kịch) có thể thấy rõ nhân vật lịch sử đựơc tái hiện như thế nào để có cái nhìn đối sánh với con người trong lịch sử. Những nhân vật lịch sử trước đây chỉ được nhìn nhận bằng những ghi chép trong sử sách thì đến kịch lịch sử, họ được tự mình đứng lên để nói về chính mình, do đó, có thể với một nhân vật lịch sử lại có nhiều hình tượng khác nhau, dựa theo quan điểm và các nhìn của nhà văn và được thể hiện qua ngôn ngữ nhân vật. Trần Thủ Độ là một nhân vật lịch sử được đánh giá trái chiều nhiều nhất trong các ghi chép lịch sử về công và tội. Các tác phẩm kịch về đề tài lịch sử cũng có không ít những tác phẩm nói về nhân vật này.

     Trong Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi, Trần Thủ Độ hiện lên là một nhân vật khác hoàn toàn với hình ảnh một thái sư mưu mô tính toán với những câu nói mang đầy những lo lắng và lưỡng lự trong việc lựa chọn người thay đế Lý Chiêu Hoàng. Trần Thủ Độ của Nguyễn Đình Thi không phải là người hoàn toàn quên đi đạo lý mà bất chấp tất cả vì quyền lực, những câu nói của ông với Thiên Cực đã thể hiện khía cạnh đó trong con người Thủ Độ. Khác với Rừng trúc, Trần Thủ Độ trong Đời luận anh hùng của Lê Chí Trung lại thể hiện là một con người bản lĩnh, mạnh mẽ và có tầm nhìn xa trông rộng, sẵn sàng đứng ra gánh vác công việc trọng đại của đất nước. Những câu thoại như “đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo” mang sức mạnh cũng như ý chí của một con người sẵn sàng bước qua mọi rào cản để gánh vác việc lớn. Hình tượng Trần Thủ Độ tiếp tục được tái hiện qua Mỹ nhân và anh hùng của Chu Thơm với vóc dáng của một vị anh hùng tài giỏi nhưng khá độc đoán và nhẫn tâm qua màn đối đáp khá gay gắt giữa Trần Thủ Độ và Lý Chiêu Hoàng. Bằng những thủ pháp xây dựng ngôn ngữ nhân vật kể trên, những khía cạnh khác nhau về cùng một con người đã được các tác giả thể hiện rõ nét. Người đọc, người xem có thể đồng cảm hoặc không đồng cảm với hình tượng đó nhưng không thể phủ nhận được ấn tượng sâu sắc về nhân vật lịch sử mà các tác giả đã tái hiện. Không chỉ với Trần Thủ Độ mà còn có rất nhiều nhân vật khác trong lịch sử như Dương Vân Nga, Lý Chiêu Hoàng, Quang Trung, Ngọc Hân công chúa, Hồ Quý Ly… đều được tái hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau, và tất cả những điều đó đều được thể hiện qua lời thoại của chính nhân vật. Ngôn ngữ kịch đã thể hiện rất rõ nhiệm vụ của mình trong việc tái tạo và làm sống lại những nhân vật có thật trong lịch sử.

3. Kết luận

     Có thể nói, kịch Việt Nam viết về đề tài lịch sử viết sau 1945 là những tác phẩm đã đạt đến thành công nhất định trên phương diện thi pháp. Ngôn ngữ kịch trong các tác phẩm này vừa thể hiện được những đặc điểm về thi pháp kịch nói chung vừa mang trong mình những nét đặc sắc rất riêng. Trong đó, ngôn ngữ kịch hướng nhiều đến dạng thức độc thoại như nét thủ pháp quan trọng nhất khi miêu tả nội tâm phức tạp của nhân vật trong những tình huống phức tạp cần phải chọn lựa một con đường. Sắc thái ngôn ngữ kịch trong các tác phẩm này cũng mang nhiều đặc trưng riêng. Khác với kịch tâm lý xã hội, ngôn ngữ kịch viết về đề tài lịch sử vừa có sự gần gũi với đời sống của những người dân bình thường trong các tác phẩm viết về chủ đề chiến tranh cách mạng, vừa có sự hào sảng, mạnh mẽ và đầy chất trữ tình trong các vở viết về thời kỳ phong kiến. Đó là những đặc điểm nổi bật về phương diện ngôn ngữ của kịch viết về đề tài lịch sử sau năm 1945, chính những đặc trưng này đã đóng góp vào thành công của các vở kịch, góp thêm thành tựu, tiếng nói chung vào nền văn học Việt Nam hiện đại trong hơn một trăm năm qua./.

     Bài viết là một phần kết quả nghiên cứu của đề tài KHCN cấp Cơ sở: “Những khuynh hướng khai thác đề tài lịch sử trong các tác phẩm kịch sau Cách mạng tháng 8/1945” (2018), Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Mã số CS.2017.10.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, – Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

     2. Phan Cự Đệ, Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam 1945 – 1975, – Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

     3. Phạm Thị Hà (2016), Tính hiện đại trong kịch nói Việt Nam về đề tài lịch sử, Luận án Tiến sĩ, Viện Văn hoá Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam.

     4. Vũ Đình Long (1921), Chén thuốc độc, – H. :Impr. Bảo tồn.

     5. Phương Lựu (Chủ biên) (2006), Lí luận văn học, – Nxb Giáo dục, Hà Nội.

     6. Quách Mạt Nhược (1962), Lịch sử kịch hiện thực lịch sử, – Viện Nghệ thuật Sân khấu.

     7. Tất Thắng (2000), Về thi pháp kịch, – Nxb Sân khấu, Hà Nội.

     8. Tất Thắng (1996), Diện mạo sân khấu – nghệ sĩ và tác phẩm, – Nxb Sân khấu, Hà Nội.

     9. Nguyễn Đình Thi (1993), Tuyển tập kịch, – Nxb Văn học, Hà Nội.

     10. Phan Trọng Thưởng (1999), “Rừng trúc của Nguyễn Đình Thi và một số vấn đề lý luận sáng tác về đề tài lịch sử”, – Tạp chí Văn học, số 11, tr 15-25.

     11. Nguyễn Huy Tưởng tuyển tập, – Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1978.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Thủ đô Hà Nội; Số 22/2018;
Scientific Journal of Hanoi Metropolitan University

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Kịch viết về đề tài lịch sử sau năm 1945 – Nhìn từ phương diện ngôn ngữ kịch (Tác giả: Trần Thị Thư)