Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính
STAINED GLASS AND THE ART OF GLASS PAINTING
Tác giả bài viết: NGUYỄN THỊ BÍCH LIỄU
(Trường Đại học Mở Hà Nội)
TÓM TẮT
Kính ghép màu là thuật ngữ dùng để nói đến vật liệu thủy tinh màu và các sản phẩm được tạo ra từ cách ghép các thủy tinh màu lại với nhau. Kính ghép màu được dùng sớm nhất trong hình thức trang trí cửa sổ của các nhà thờ, các công trình tôn giáo quan trọng. Ban đầu, kính ghép màu là những tấm thủy tinh phẳng, dùng làm cửa sổ. Về sau, bằng sự sáng tạo của những họa sĩ, nghệ sĩ, kính ghép màu đã được sử dụng để tạo nên rất nhiều sản phẩm nghệ thuật độc đáo, lạ mắt và ấn tượng phục vụ cho con người.
Từ khoá: Kính ghép màu, nghệ thuật tranh kính, sản phẩm.
ABSTRACT
Stained glass is the term used to refer to colored glass materials and products created by combining colored glass together. Stained glass is used as early as the window decoration of churches, important religious buildings. Initially, stained glass is flat glass panels used for windows. Later, with the creativity of artists, stained glass was used to create a lot of unique, strange and impressive art products for people.
Keywords: Stained glass, the art of glass painting, products.
1. Đặt vấn đề
Trải qua quá trình hình thành và phát triển, kính ghép màu tạo nên các tác phẩm trang trí trên cửa sổ được xem là một loại hình nghệ thuật, những cửa sổ kính màu trong các công trình nhà thờ, công trình tôn giáo vẫn tồn tại nguyên vẹn và uy nghi đến nay. Nội dung mô tả trên các cửa sổ kính màu có thể được kết hợp từ những câu chuyện trong Kinh thánh, lịch sử hoặc văn học, miêu tả các thiên thần, thần thánh. Các cửa sổ kính ghép màu trong một công trình thường có nội dung miêu tả theo một chủ đề, đề tài nào đó, chẳng hạn cửa sổ kính ghép màu trong nhà thờ thường miêu tả về các điển tích trong Kinh thánh, về cuộc đời của Chúa, của Đức Mẹ…(hình 1).
Theo sự phát triển của xã hội, kính ghép màu về sau được con người sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật khác. Kính ghép màu ngày càng được sử dụng phổ biến, được ứng dụng để trang trí ở trên nhiều công trình và trở thành những tác phẩm tranh kính độc lập. Tranh kính màu hiện diện trong nhà thờ, các công trình nhà ở, khách sạn, nhà hàng…nhằm mang lại vẻ đẹp độc đáo, sang trọng cho không gian. Chủ đề và phong cách thể hiện tranh kính màu ngày càng đa dạng đã khiến cho tranh kính màu được yêu thích. Từ những nội dung được mô tả trên các bức tranh kính màu, có thể thấy được những ý niệm, những mong ước, tâm tư tình cảm của con người, thể hiện văn hóa đương thời phản ánh trong mỗi tác phẩm. Tranh kính màu là hình thức nghệ thuật tinh tế sử dụng ánh sáng để phóng đại và làm lung linh vẻ đẹp huyền ảo cho các tác phẩm.
Kính màu du nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Hình thức ban đầu là tranh gương ở Huế), trong nhà thờ ở một số vùng trên cả nước và dòng tranh kiếng thờ, tranh kiếng trang trí của người dân Nam Bộ. Qua quá trình du nhập và phát triển, các họa sĩ, nghệ sĩ người, nghệ nhân Việt đã biến tranh kính thành những tác phẩm phục vụ cho người Việt, “các họa sĩ Việt Nam đã mượn chất liệu kính màu để chuyển tải bản sắc, tinh thần dân tộc Việt” [1, tr.348] vào trong các tác phẩm phục vụ người Việt trong cuộc sống hàng ngày. Hiện nay, các sản phẩm tranh kính được sử dụng từ kiến trúc đến nội thất, các hình thức trang trí của nhiều loại hình công trình khác nhau: từ nhà ở, nhà hàng, café, khách sạn, các công trình công cộng…nhằm phục vụ cho nhu cầu thưởng thức nghệ thuật và thị hiếu của người dân Việt Nam.
2. Nội dung
Kính màu được làm từ thủy tinh pha màu, người thợ cho muối kim loại trong quá trình sản xuất. Kính màu được sử dụng trong các cửa sổ bằng cách ghép những miếng kính màu nhỏ lại mô tả nội dung cần chuyển tải, rồi gắn lại bằng chì, bên ngoài có khung bao quanh để giữ chắc.
Về lịch sử kính màu, Pliny the Elder1 cho rằng, thủy tinh được khám phá tình cờ bởi các thủy thủ Phoennician2. Các thủy thủ Phoennician bị đắm tàu trong quá trình chinh chiến, để có thể nấu được đồ ăn trên bãi biển, họ đã đặt nồi nấu lên các khối natron3 (soda) có trong hàng hóa của họ, sau đó họ đốt lửa phía dưới các khối natron. Sức nóng của lửa đã làm tan chảy hỗn hợp cát và natron. Kết quả, khi nguội hỗn hợp này đông cứng lại, trong suốt, thành thủy tinh. Tuy nhiên, hiện nay, các nhà nghiên cứu cho rằng, Pliny đã thu thập nhiều tài liệu, chứng cứ chứng minh cho điều đó, nhưng giả thuyết này không đáng tin cậy. Có nhiều khả năng những người thợ gốm thời Ai Cập cổ đại hoặc người Mesopotamia4 đã vô tình phát hiện ra thủy tinh khi họ bắt giữ các thủy thủ Phoennician và khám tàu của họ. Kính nhân tạo được biết đến sớm nhất là ở dạng hạt Ai Cập từ năm 2750 đến 2625 TCN (trước Công nguyên). Các nghệ nhân đã tạo ra những hạt này bằng cách cuộn một chuỗi thủy tinh nóng chảy mỏng xung quanh lõi đất sét có thể tháo rời.
Thời La Mã cổ đại (năm 753 TCN – 476 SCN), người La Mã đã dán kính vào cửa sổ. Họ đúc các tấm kính và sử dụng kỹ thuật thổi để quay đĩa và làm kính xi lanh. Kính không đều và không trong suốt. Sau đó họ còn sử dụng kính ghép màu trang trí trong các nhà tắm công cộng Caracalla.
Kính màu được khám phá tình cờ trong quá trình lao động của thợ gốm và thợ kim hoàn, thời đại của kính màu bắt đầu từ khoảng năm 2750 – 2650 trước công nguyên. Nghề thủ công làm kính màu dần hình thành kỹ thuật kính màu. Về sau, người ta dùng các khung sắt để gắn các mảnh kính lại với nhau, nhờ đó tranh kính màu được sử dụng rộng rãi với kích thước lớn hơn [1].
Đến thế kỷ thứ IV và thứ V, trong các nhà thờ Thiên chúa giáo đầu tiên, có nhiều cửa sổ dùng các khung bằng gỗ trang trí bằng các mảnh thủy tinh màu mỏng, ghép lại với nhau, tạo ra hiệu ứng như kính màu. Thế kỷ thứ VII, kính màu đã được sử dụng trong các cửa sổ ở nhà thờ và tu viện nước Anh. Thế kỷ thứ VIII, ở Tây Nam Á việc sản xuất kính màu được phát triển, người thợ kim hoàn Jābir ibn Hayyān, ở Kitab al-Durra al-Maknuna đã phát hiện nhiều công thức chế tạo thủy tinh màu và sử dụng kỹ thuật chế tạo thủy tinh màu thành đá quý nhân tạo. Lúc này, trong không gian của các nhà thờ Hồi giáo được trang trí bằng kính màu trong suốt. Kính màu Hồi giáo thời kỳ đó không mang những hình ảnh tôn giáo, mà là những hình học cơ bản, hoặc có họa tiết hoa văn Hồi giáo (Hình 2,3).
Thời Trung Cổ, “đến thế kỷ thứ X, tranh kính đạt đến đỉnh cao, được coi là thuộc về nghệ thuật nhưng phần lớn là để phục vụ cho các công trình kiến trúc Kito giáo” [1, tr.349]. Các tác phẩm tranh kính thời bấy giờ được sử dụng như hình thức để minh họa các câu chuyện trong Kinh Thánh cho các giáo dân không biết chữ. Thời kỳ Romanesque và tiền Gothic, từ khoảng năm 950 đến năm 1240, cửa sổ trong các công trình tôn giáo thường có kích thước lớn, do đó các trang trí kính màu phải dùng đến các khung sắt để đỡ (hình 4).
Khi kiến trúc Gothic phát triển, các cửa sổ kính màu được trang trí công phu hơn, kích thước cửa sổ lớn để lấy ánh sáng cho không gian nội thất của công trình. Các ô cửa sổ được chia thành các phần khác nhau bằng trục thẳng đứng và có khung đá bao quanh. Việc xây dựng như vậy đã đạt đến độ rực rỡ trong kiến trúc Gothic, đặc biệt là trong công trình tôn giáo nhà thờ. Với hình thức kiến trúc phát triển về chiều cao, các cửa sổ kính màu lớn trong công trình tôn giáo thời Gothic trở lên vô cùng uy nghi, lộng lẫy. Không chỉ có cửa sổ hình chữ nhật, cửa sổ hình tròn, cửa sổ hoa hồng cũng được xây dựng . Các tác phẩm cửa sổ kính màu thời kỳ này đều mang trong mình những điển tích lịch sử trong Kinh Thánh và cuộc đời của các thánh đồ, những bức chân dung từ kính màu mang biểu tượng giáo điều của Giáo hội. Nội dung tranh kính tập trung vào việc giảng dạy Kinh thánh tới các giáo dân mà thông qua đó những điều răn dạy của Kinh Thánh truyền tới trái tim của giáo dân bằng con mắt chứ không phải bằng đôi tai. Các tác phẩm kính màu phản ánh hình ảnh của Thiên chúa là Đấng Tạo Hóa, là Đức Cha mang lại những điều tốt đẹp nhất, mang đến ý thức về đạo đức con người và mang đến cả thế giới. Ánh sáng xuyên qua các bức tranh kính trên cửa sổ của nhà thờ lung linh huyền ảo, nó dường như là thứ ánh sáng của Chúa Trời soi rọi và chiếu khắp con dân Công giáo. Có thể nói kiến trúc Gothic là nền tảng thúc đẩy và là bệ nâng đỡ cho tranh kính màu phát triển rực rỡ (hình 5).
Thế kỷ XV, thời kỳ Phục hưng, tranh kính màu vẫn được phát triển mạnh mẽ. Bên cạnh đó, các họa sĩ còn “đưa nghệ thuật tạo hình vào tranh kính màu” [1, tr.350]. Những năm 1405 đến năm 1445, một số nghệ sĩ nổi tiếng thời kỳ này đã sáng tạo ra ba cửa sổ kính màu hình vòm cho mái vòm của nhà thờ và cho mặt tiền của nhà thờ. Mỗi cửa sổ chứa hình ảnh được vẽ từ cuộc sống của Chúa Kito hoặc cuộc sống của Đức Trinh Nữ Maria. Cửa sổ lớn, phía bên ngoài nó được bao quanh bởi một đường viên hoa rộng, hai cửa sổ nhỏ hai bên có hình các thánh tử vì đạo (hình 6). Thời Phục Hưng, với sự phát triển vượt bậc về khoa học kỹ thuật, các họa sĩ dùng nhiều kỹ thuật mới để tạo ra hiệu ứng cho kính màu, như sử dụng các công thức hóa học, các loại axit khác nhau trong việc tạo màu, cải thiện các khung bằng khung kim loại để chống sự xói mòn của thời tiết. Lúc này, các họa sĩ đã tự sản xuất được kính màu để sử dụng cho tác phẩm của riêng mình.
Năm 1600, cách làm tranh kính mới xuất hiện, cảnh vật đươc vẽ trực tiếp lên các mảnh kính vuông, giống như ngói lợp nhà. Màu sắc đươc nung để lưu bền trên kính, sau đó các mảnh kính sẽ được lắp vào khung kim loại. Từ giữa thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX, nhiều biến đổi lịch sử ảnh hưởng đến tranh kính màu, nhiều công trình bị phá bỏ [1, tr.351]. Tranh kính không còn được sử dụng trong các công trình kiến trúc, công nghệ và việc sản xuất kính màu cũng lãng quên.
Thế kỷ XIX, trước sự phục hưng Công giáo ở Anh đã mang lại sự quan tâm mới về tranh kính. Thời kỳ này, phong trào Phục hưng lại nền kiến trúc Gothic diễn ra mạnh mẽ đã mang đến phong cách Công giáo thực sự trong kiến trúc. Nhiều công trình tôn giáo được xây dựng ở các thị trấn lớn, nhiều công trình nhà thờ cũ được phục hồi lại. Đây cũng là sự hồi sinh mạnh mẽ của nghệ thuật kính màu. Việc sản xuất kính màu trở lên phong phú hơn, nhiều công ty sản xuất kính màu được thành lập trong giai đoạn này.
Ở Pháp, việc sản xuất kính màu phát triển mạnh mẽ hơn ở Anh. Những tấm kính màu với kích thước lớn ra đời, các họa sĩ dùng sơn để vẽ trực tiếp trên các tấm kính lớn. Nội dung có trong các tác phẩm tranh kính thường được sao chép trực tiếp từ tranh sơn dầu của các họa sĩ nổi tiếng. Nhiều cửa sổ kính màu cổ đẹp nhất của Pháp được khôi phục lại vào thời điểm đó. Nhu cầu sử dụng kính màu ngày càng nhiều, các nhà máy sản xuất kính màu được thành lập. Kính màu lúc này nổi bật là màu sắc rực rỡ của màu xanh lam, thủy tinh màu hồng và màu hoa cà (hình 7).
Năm 1857, tại New York, Hoa Kỳ, công ty sản xuất kính màu trang trí đầu tiên được thành lập. Nhiều năm sau đó, công ty này là nhà sản xuất kính màu lớn nhất thời bấy giờ.
Thế kỷ XX, nghệ thuật kính màu phát triển trở lại. Các cuộc cách mạng công nghiệp đã ảnh hưởng đến sản xuất kính màu, các họa sĩ, nghệ sĩ không sử dụng kính màu do mình chế tác ra, họ chuyển sang sử dụng kính màu công nghiệp cho các tác phẩm của mình. Với thành tựu của cách mạng công nghiệp, việc sản xuất kính màu công nghiệp có sự cải thiện rõ rệt. Chất lượng, màu sắc tốt và phong phú hơn, độ trong, độ bắt ánh sáng cao hơn (hình 8).
Trong suốt thế kỷ XX và đầu những năm đầu thế kỷ XXI, tranh kính màu phụ thuộc vào xu thế phát triển của kiến trúc hiện đại. Nếu như trước đây tranh kính là một yếu tố quan trọng không thể thiếu nhằm xác lập yếu tố kiến trúc, thì nay vai trò đó không còn nữa mà trở thành một bộ phận của ngành kiến trúc.
Trong lịch sử phát triển của mình, tranh kính màu cũng chịu ảnh hưởng của các trào lưu của mỹ thuật thế giới và mang đậm dấu ấn, cá tính của từng họa sĩ, từng vùng miền. Kỹ thuật tranh kính cũng thay đổi và đa dạng hơn về thể loại, chất liệu, ngôn ngữ tạo hình. Đây là sự thay đổi cần thiết để tranh kính màu tồn tại và phát triển theo nhu cầu của từng thời đại [1, tr.353, 354].
Ở Việt Nam, thời Văn hóa Sa Huỳnh, được xác định vào khoảng năm 1000 TCN đến thế kỷ thứ II là thời kỳ mà người dân đã biết chế tác và sử dụng đồ thủy tinh để làm trang sức và đồ trang trí. Trong các khu mộ táng, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều bộ hạt chuỗi, cườm bằng thủy tinh có màu xanh, vàng hoặc nâu.
Thủy tinh nhân tạo là một thành tựu rực rỡ của văn hóa Sa Huỳnh. Các cư dân dùng cát trắng để nấu thủy tinh làm bát lọ và đặc biệt những chuỗi hạt trang sức bằng thủy tinh mà sử sách Trung Quốc gọi là “Lưu li” gốc từ chữ Phạn là verulia từ đầu công nguyên. Đây là một trong những nơi làm ra thủy tinh nhân tạo sớm trên thế giới. Chúng không những đa dạng về kiểu dáng mà còn phong phú về màu sắc như xanh lơ, xanh đen, xanh lá mạ, xám, tím, đỏ và nâu. Sử Trung Hoa đã từng ghi chép về một chén thủy tinh xuất phát từ vùng đất này mà họ gọi là chén lưu ly với một sự trân trọng và khâm phục.
Nổi bật trong những vật trang sức của người Sa Huỳnh là khuyên tai ba mấu dành cho phụ nữ và khuyên tai hai đầu thú của nam giới. Nếu khuyên tai ba mấu dịu dàng, tinh tế và khá duyên dáng thì khuyên tai hai đầu thú lại thể hiện chất dũng mãnh, kiêu hãnh và cường tráng của nam giới. Những vật trang sức chế tác từ đá, mã não và thủy tinh có thể nói là những tinh hoa đặc sắc nhất mà nền văn minh này sáng tạo ra và được phổ biến khắp vùng Đông Nam Á [2].
Thời gian về sau, mặc dù nghề chế tác thủy tinh có từ rất sớm, nhưng không được phát triển. Tới thế kỷ XIX, tranh kính xuất hiện và phát triển tại Việt Nam. Lúc này, sự xuất hiện và phát triển tranh kính được chia theo 3 khu vực với 3 thể loại tranh kính biêu tiểu khác nhau.
Tranh kính nhà thờ
Khi Công giáo đến Việt Nam, các linh mục tới truyền giáo và cho xây dựng nhà thờ, lúc đó, tranh kính màu được sử dụng trong một số nhà thờ Công giáo cuối thế kỷ XIX, một số nhà thờ Công giáo đầu tiên có các trang trí bằng tranh kính màu như: Nhà thờ Tân Định, xây dựng năm 1876 (Nhà thờ Thánh Tâm chúa Giêsu, Tân Định) – nhà thờ Công giáo tại thành phố Hồ Chí Minh và thuộc giáo xứ Tân Định. Sau đó tranh kính được sử dụng trong Nhà thờ Đức Bà (xây dựng năm 1880) (hình 9), Nhà thờ Lớn Hà Nội (xây dựng năm 1887)…
Nội dung trong các bức tranh kính màu ở Nhà thờ đa phần đều nói về Chúa nhưng “những đặc điểm của nhân vật mang nét đặc trưng của người Việt như vóc dáng, khuôn mặt, búi tóc đến trang phục, nón lá, cảnh quan. Sự thay đổi về hình ảnh này đem lại cảm giác gần gũi, thân thiện đối với giáo dân Việt Nam và cho thấy dấu hiệu Việt hóa” [1].
Tranh gương cung đình Huế (hình 10, 11).
Theo nhà nghiên cứu Thái Văn Kiểm, tác giả cuốn Cố đô Huế (cùng lời truyền của một số người cao tuổi ở Huế) nhận định: Tranh gương cung đình Nguyễn đa phần được các Vua triều Nguyễn đặt hàng vẽ từ Trung Quốc. Nguyên là vua Thiệu Trị (1841-1847) có tập thơ Thần kinh nhị thập cảnh, vịnh 20 cảnh đẹp của đất Huế, đã gửi các bài thơ này qua Trung Quốc đặt vẽ. Một bài thơ này được thể hiện thành một bức tranh gương, sau đó mới mang trở về kinh đô Huế, treo ở tại các miến điện [3]. Mặc dù vậy, nhưng các tác phẩm tranh gương đó lại mang trong mình những nội dung và các yếu tố đặc trưng riêng của nền nghệ thuật Cố đô Huế.
Tranh kiếng Nam Bộ
Tới cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, một bộ phận người Quảng Đông (Trung Quốc) di dân đến mảnh đất Nam Bộ sinh sống và lập nghiệp, họ đã mở các cửa tiệm buôn bán kiếng, với các loại kiếng tráng thủy tinh làm gương soi, kiếng khuôn cửa tủ, khung cửa chớp, ô cửa thoáng… theo thời gian cùng với sự phát triển của đời sống xã hội đã ra đời dòng tranh kiếng Nam Bộ. Tranh kiếng Nam Bộ mang trong mình những nét đặc sắc riêng với ba dòng nổi tiếng, đó là: tranh kiếng Chợ Lớn (Sài Gòn); tranh kiếng Lái Thêu (huyện Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương), và dòng tranh kiếng Chợ Mới (An Giang) [4].
Đời sống người dân Nam Bộ lúc đó gắn liền với sông nước và đa phần thờ Phật, cho nên các bức tranh kiếng lúc bấy giờ hòa quyện được cả yếu tố dân gian và tôn giáo. Tranh kiếng có nhiều chủng loại: Tranh thờ tổ tiên, tranh thờ Thần, Phật, tranh chúc tụng, tranh cảnh vật trang trí nhà ở…Tranh kiếng lúc này đã đáp ứng như cầu thờ cũng, tín ngường và thẩm mỹ của người dân và trở thành những tác phẩm nghệ thuật dân gian không thể thiếu trong những gia đình Nam Bộ (hình 12)
Những bức tranh kiếng thờ tổ tiên, Thần Phật luôn được người dân Nam Bộ coi trọng, nó vừa thể hiện rõ nét tín ngưỡng hiếu kính, tâm linh ấm áp, vừa tạo nên không gian thẩm mỹ đẹp cho mọi căn nhà ở Nam Bộ. Tranh kiếng thờ tổ tiên Nam Bộ, ngoài bộ chữ tấm ngang, câu đối hai bên, còn có một bức tranh kiếng khổ lớn, được treo tại vị trí thờ cúng tổ tiên, nhưng không treo quá cao như tục lệ của người miền Bắc, miền Trung. Bộ tranh kiếng thờ được người dân Nam Bộ treo ở vị trí vừa phải, vừa mong muốn tỏ lòng hiếu kính với tổ tiên, vừa mong muốn tổ tiên Thần Phật luôn gần gũi chở che con cháu. Ta có thể nhận thấy hình thức treo tranh thờ miền Bắc và miền Trung Việt Nam có điểm khác biệt so với tục treo tranh kiếng thờ của người dân Nam Bộ. Người dân miền Bắc và miền Trung treo tranh thờ cúng tổ tiên thường treo bộ Hoành phi (cuốn thư) – câu đối rất tôn nghiêm, uy nghi ngay tại gian giữa trung tâm của ngôi nhà, nhà thờ của dòng họ. Hoành phi là một bức thư họa (bức tranh được vẽ bằng chữ) được treo ngang phía trên của gian thờ, chữ viết trong hoành phi đều mang ý nghĩa ca tụng công đức của tổ tiên, những lời răn dạy của tổ tiên dành cho con cháu….Câu đối là một cặp câu đối xứng được treo ở hai cột hai bên gian thờ (hình 13), câu đối ghi lại giá trị đạo đức truyền thống của dòng họ, tổ tiên, ca ngợi công đức của các bậc tiên tổ, răn dạy cháu con đạo nghĩa làm người. Điểm khác biệt về cách bài trí và treo tranh này xuất phát từ sự chất phác, sự bình dị bao đời của người dân Nam Bộ, sự bình dị xuất hiện ngay cả trong cách thức tín ngưỡng thờ cũng tổ tiên Thần Phật.
Những nghệ nhân, người thợ vẽ tranh kiếng nói chung, người vẽ tranh kiếng thờ nói riêng, mặc dù không được đào tạo bài bản qua trường lớp, chỉ được tiếp truyền lại từ đời trước đến đời sau bằng hình thức cha truyền con nối, tuy nhiên với cảm xúc chân thật, bình dị và tình yêu sâu sắc đối với nghề vẽ tranh kiếng, họ đã cho ra đời những bức tranh kiếng được chăm chút kỹ lưỡng từ từ nội dung đến hình thức, từ bố cục đến không gian, từ nét vẽ đến màu sắc rất độc đáo và đẹp đẽ. Với kỹ thuật tạo hình được nghiên cứu kỹ lưỡng, cân đối, bố cục chính phụ, to nhỏ thay đổi phong phú, khéo léo lồng ghép giữa con người với cảnh vật, đường nét mềm mại linh hoạt, nhịp điệu uyển chuyển, màu sắc rõ ràng khúc triết đã làm cho những bức tranh kiếng trở nên sống động, gần gũi, giản dị mà thanh cao. Có thể họ chưa nắm được tường tận về ngôn ngữ hội hoạ, tính thẩm mỹ, tuy nhiên ở trong tâm của họ dường như luôn tồn tại ý thức tâm linh và triết lý về tín ngưỡng thờ cúng để từ đó họ đã truyền tải vào các tác phẩm tranh kiếng với nội dung thờ cúng với tổ tiên, với Thần Phật, với những người đã mất một cách hết sức độc đáo và sâu sắc.
Dù đã xuất hiện và phát triển ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX, nhưng do nước ta những năm này trải qua chiến tranh, phải gánh chịu sự nghèo đói, lạc hậu và hậu quả của chiến tranh. Tranh kính không được phát triển mạnh. Phải tới sau năm 1975, khi Việt Nam thống nhất đất nước, nền kinh tế bắt đầu phục hồi và phát triển, tranh kính được tiếp tục sử dụng, nhưng chỉ ở hình thức nhỏ. Đến thế kỷ XX, những năm 1991, 1994, tại Việt Nam mới thành lập một số nhà máy chế tạo kính màu để đáp ứng nhu cầu của xã hội về trang trí tranh kính màu trong nội thất. Và tranh kính màu được sử dụng ở nhiều công trình khác nhau như: khách sạn, nhà hàng, quán café, hay nhà ở…
3. Kết luận
Mặc dù không phải là loại hình nghệ thuật cổ và lâu đời của nước Việt nhưng quá trình du nhập và phát triển tại Việt Nam đã chứng minh tranh kính nghệ thuật đã có sự đóng góp cho nền nghệ thuật nước nhà. Hiện nay, tranh kính của Việt Nam đang phát triển với nhiều chủng loại, sử dụng trong nhiều loại hình công trình khác nhau và mang trong mình bản sắc riêng của dân tộc Việt Nam.
___________
1. Pliny the Elder (AD 23-79) là một học giả, nhà tự nhiên học, nhà triết học tự nhiên, một chỉ huy hải quân và quân đội của đế chế La Mã.
2. Phoenicia là một nền văn minh cổ đại nằm ở miền bắc khu vực Canaan cổ đại, với trung tâm nằm dọc vùng eo biển Liban, Syria, và bắc Israel ngày nay.
3. Natron là một hỗn hợp tự nhiên. Natron có màu trắng đến không màu ở dạng tinh khiết, thay đổi sang vàng khi có lẫn tạp chất. Các mỏ natron đôi khi được tìm thấy trong đáy các hồ nước mặn ở những môi trường khô hạn.
4. Mesopotamia là một khu vực lịch sử của Tây Á nằm trong hệ thống sông Euphrates của Tigris, ngày nay, tương ứng với hầu hết các nước Iraq, Kuwait, một phần của Bắc Ả Rập Saudi, phần phía đông của Syria, Đông Nam Thổ Nhĩ Kỳ và các khu vực dọc theo Thổ Nhĩ Kỳ Biên giới Syria và Iran, Iraq.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Huỳnh Quang Cường (2015), Mỹ thuật ứng dụng trên con đường tìm về bản sắc Việt, Nhà xuất bản Văn hóa văn nghệ.
2. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. Văn hóa Sa Huỳnh.
https://vi.wikipedia.org/wiki/V%C4%83n_h%C3%B3a_Sa_Hu%E1%BB%B3nh.
3. Nguyễn Tiến Cảnh (1992), Mỹ thuật Huế. Viện Mỹ Thuật – Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế xuất bản.
4. Nguyễn Thị Bích Liễu (2018), Nghệ thuật tranh kiếng thờ và sự hiếu kính của người dân Nam Bộ, Kỷ yếu hội thảo “Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ”, Trường Đại học An Giang, Nhà xuất bản Cần Thơ.
Tiếng Anh
1. APA citation. Coleman, C. (1912). Stained Glass. In The Catholic Encyclopedia. New York: Robert Appleton Company. Retrieved October 15, 2018 from New Advent:
http://www.newadvent.org/cathen/14241a.htm
2. MLA citation. Coleman, Caryl. “Stained Glass.” The Catholic Encyclopedia. Vol. 14. New York: Robert Appleton Company, 1912. 15 Oct. 2018
<http://www.newadvent.org/cathen/14241a.htm>.
3. Discovering stained glass – John Harries, Carola Hicks, Edition: 3 – 1996.
4. http://stainedglass.org/history-of-stainedglass/
Ghi chú: Hình ảnh minh họa bài viết: Kính mời Quý độc giả xem ở tệp PDF đính kèm bên dưới.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 54, (04/2019), 1-8
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Kính ghép màu và nghệ thuật tranh kính (Tác giả: Nguyễn Thị Bích Liễu) |