Lễ hội nghinh Ông ở thị trấn Sông Đốc huyện Trần Văn Thời với việc phát triển du lịch
Tác giả bài viết: NGUYỄN ANH CƯỜNG
TÓM TẮT
Lễ hội nghinh “ông”, hay là lễ cúng cá “ông” gắn liền với tục thờ cá voi phổ biến từ đèo Ngang trở vào đến Hà Tiên, đảo Phú Quốc, là loại lễ hội nước lớn nhất của ngư dân. Lễ hội nghinh Ông ở thị trấn Sông Đốc huyện Trần Văn Thời là một trong những lễ hội có tầm quan trọng của tỉnh Cà Mau. Hiện nay lễ hội ngoài việc đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân tại địa phương, còn mang ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần thu hút khách
du lịch và phát triển du lịch sông nước tại địa phương. Bên cạnh những điều kiện thuận lợi vốn có, lễ hội vẫn còn một số mặt cần khắc phục và bổ sung để thị trấn Sông Đốc trở thành một trong những điểm du lịch phát triển của huyện và tỉnh Cà Mau.
Lễ hội nghinh “ông”, có nhiều tên gọi khác nhau như lễ rước cốt ông, lễ cầu ngư, lễ tế cá “ông”, lễ cúng “ông”, lễ nghinh “Ông”, lễ nghinh ông Thuỷ tướng. Tất cả đều có chung một quan niệm rằng cá “Ông” là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đó trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.
Thị trấn Sông Đốc ở vàm cửa sông, trải dài 5 kilômét hai bên bờ sông. Bờ Bắc có 5 con kênh: Xẻo Đôi, rạch Băng Ky, rạch Ruộng Nhỏ, kênh Nhiêu Đáo và kênh Phủ Lý. Bờ Nam có 4 con kênh: Sỏu Cứng (nay là kênh Xỏng mới), kênh Xẻo Quao, kênh Rạch Vinh Lớn và Rạch Vinh Nhỏ; sau này có thêm các kênh: xỏng Cùng, Thầy Tư và kênh Bảy Thanh. Sông rộng khoảng 500m, độ sâu khoảng 10m, do ta nhận chỡm ghe làm rào cản hồi khỏng chiến chống Pháp nên hiện nay độ sâu ở Vàm Cửa chỉ còn khoảng 5m. Từ thị trấn Sụng Đốc đến đảo Hòn Chuối xa 18 hải lí; thị trấn Sông Đốc cách huyện lỵ Trần Văn Thời 17km là khu chợ tập trung dân cư đông đúc so với 10 thị trấn trong tỉnh Cà Mau. Hầu hết cư dân ở đây đều làm nghề đánh bắt cá trên sông và trên biển. Vì vậy Cá ông luôn được coi là vị cứu tinh của họ trong các chuyến ra khơi đánh cá. Do đó lễ hội Nghinh ông là một trong những lễ hội được tổ chức lớn nhất tại thị trấn này.
Hàng năm lễ hội được bắt đầu diễn ra từ ngày 14 đến ngày 16 tháng 02 âm lịch, tại Lăng Ông Nam Hải và vùng biển cửa Sông Đốc theo hướng tây khoảng vài hải lý trờn địa bàn thị trấn Sông Đốc. Theo người dân ở địa phương thỡ “Vạn Lăng Ông Nam Hải ra đời vào tháng 06 năm 1925. Lúc đầu Lăng Ông Nam Hải được cất ở bờ phía Đông vàm Rạch Ruộng nhỏ, lăng rộng 5 tầm, dài 8 tầm. Lăng cất theo kiểu đỡnh miếu cổ xưa, nhà trước lớn, nhà sau nhỏ nối liền nhau gọi là tiền sảnh và chánh điện. Mái lợp ngói đầu song, phía Đông Lăng có nhà khách, hậu có nhà ngói để phục vụ ngày cúng tế hội hè. Giữa chánh điện để cốt Ông có bàn thờ, chín lư hương đồng, bộ lư sư tử, đôi chân đèn bằng đồng thau, ở trước bàn thờ có treo tấm chắn lớn thêu rồng phượng hý chõu, bụng hoa kim tuyến, tua ren sắc rực rỡ, dưới có cặp lọng vàng, trước đó là đôi hạc bạc đứng trên kim quy. Hai bên dựng hai hàng khí cụ thời xưa: (đao – siờu – kớch – giỏo – đinh ba – xà mõu – bỳa giảo…) thành hành lang bảo vệ. Đến năm 1949 do nhiều tác động của các yếu tố khách quan nên Ban trị sự đó chọn khu đất phía đông rạch Xẻo Đôi để xây cất Lăng Ông, diện thích toàn phần là 10.000m2 do chánh chủ Nguyễn Văn Mùi (tức Năm Hết) phụ trỏch thiết kế xõy cất. Cụng trỡnh gồm: lăng chính – tiền sảnh – chớnh điện, cột đúc xây tường, lợp tôn ximăng, nền lót gạch bông, phớa Tõy bắc cú xõy miếu thờ Thuỷ Long Thần Nữ Nương Nương, phía Nam đầu song là nhà khách, hậu phía đông là nhà khói, công trỡnh hoàn thành vào đầu năm 1963 và thỉnh Ông về an vị. Về phía Bắc cũn cú khu đất dành làm nghĩa địa. Đến năm 1990 Ban trị sự xây dựng tường rào mặt tiền cú lan can, song chắn hỡnh trũn cú khắc chữ Vạn – cổng chớnh ra vào cú hai cõu đối:
Nam Việt thỏi bỡnh nhõn dõn phỳ
Bắc Hải thuận phong long ngư hội
Để chuẩn bị cho ngày chính hội diễn ra thỡ ngay từ ngày 10/02 âm lịch, Ban trị sự đó họp bàn bạc chuẩn bị cho lễ hội và bầu Ban trị sự mới, phõn cụng, phõn nhiệm từng khâu của lễ hội (kinh phớ, ban lễ, ban nhac, ngoại giao, ban tiếp tõn, ban hiến tế, ban ỏnh sỏng,…), và tiếp đó là các ngày chuẩn bị, trang trí, thiết kế các biểu trưng, biểu ngữ của toàn thể khu lễ khoảng 1000m2, xây dựng nhà Thuỷ lục, thiết kế trang phục, cờ phướn, thư mời, quảng cáo cho hoạt động của lễ hội.
Từ 14h đến 17h ngày 15/02 là giờ Nghinh Ông, nghi lễ chính thức được diễn ra. Chánh chủ cùng Ban trị sự sắp thành hai hàng tại chánh điện thỉnh lư hương Đại Tướng Quân Nam Hải. Đoàn lễ từ từ tiến ra cổng lăng, theo trỡnh tự: Đi đầu là lân, trống, kế đến là Ban cờ gồm 54 cây cờ ngũ sắc sắp thành hai hàng, tiếp theo là Long Đỡnh để lư hương Ông (cú 04 học trũ lễ khiờng và 04 học trũ theo hầu). Chánh Vạn đi sau Long Đỡnh. Tiếp theo là hai hàng binh khớ gồm 18 cỏi: kớch, giỏo, xà mõu, kiếm… Tiếp nữa là Đoàn múa mâm vàng (dõng mõm lễ vật) gồm 08 người. Rồi đến đoàn cờ ngũ sắc hai hàng cộng 4 cờ đỏ có chữ Đại Tướng Quân Nam Hải và một cờ Thần màu biển lợt to nhất (khoảng 10m). Tiếp theo là cỏc vị chức sắc và cỏc bụ lóo trong Vạn cựng nhõn dân đi hành lễ, mang theo các lễ vật hiến tế.. Cả đoàn hành bộ đến bói Liờn doanh hoặc bói biờn phũng (nếu đi bói này thỡ về bói kia). Đến bói, Chỏnh chủ rước lư hương lên Thuỷ Lục, là chiếc tàu to nhất mang vúc dỏng thuyền rồng, trang hoàng cờ đủ màu sắc, có bàn hương án, hai bên có hai tàu hộ vệ: cũng có cờ hoa và trang hoàng tương tự, nhưng nhỏ hơn nhà Thuỷ Lục. ễng chánh chủ làm lễ đọc bài Nguyện Hương:
Kinh thỉnh Lịnh Ông Nam Hải Đại Tướng Quân
“Hôm nay ngày…tháng…năm…. Thường niên đáo lệ cúng Ông. Chúng tôi – Chức sắc Vạn Lăng – xin thay mặt toàn thể nhân dân thị trấn Sông Đốc: Chánh soái đại càng nam hải; Vạn bang ngũ hành, lịnh bà chúa xứ ; Linh sơn chư vị sơn thần; Ông đốc vàng – thần hoàng bổn cảnh; Liệt vị Tôn Thần; Trường sa bói biển;Cỏc chỳa sơn lâm; 12 cửa rừng; Chư vị Long Vương;Chúa Hỷ nương nương; Lịnh Bà hai cậu; Chư vị siêu mồ lạc mó; Hựm tha; Sấu bắt; Các đảng cô hồn; Chư vị Chiến sĩ vong thân vị quốc; Đồng lai vạn lăng thọ tài hưởng thực. Chúng tôi thay mặt nhân dân thị trấn Sông Đốc đũng dõng văn tế, nguyện cầu âm siêu dương thới, nguyện cầu người sanh tiền mạnh giỏi làm ăn, nhà nhà đều an cư lạc nghiệp.Chúng tôi đồng nguyện cầu kớnh bỏi (lạy 03 lạy).
Sau đó, tất cả nhõn dân lên ghe và ghe Thuỷ Lục đi đầu cựng tiến ra biển, trên các mũi ghe đầu đều để lễ vật, hành trỡnh ra cửa biển theo hướng Tây đi khoảng 01 tiếng thỡ dừng lại, rồi đọc bài Nguyện Hương và xin keo. Nếu thấy ễng dọi (từ dưới biển một cột nước phun lên) thỡ dừng lại. Nếu khụng thấy dọi lại nhằm hướng Tây đi tiếp một đoạn, lại xin keo và đọc bài Nguyện Hương. Khi xin keo được thỡ đọc bài Nguyện Hương và thỉnh Ông về lăng.
Tại Lăng, bàn hương án được đặt trước cửa để thỉnh Ông vào Chánh điện an vị (lỳc này lõn mỳa mừng). Dân chúng bắt đầu vào cỳng ễng và hiến tế lễ vật. Đến 10h đêm, ông chủ tế cúng Tiền Văn (cúng trước). Ban chức sắc vào lạy ễng, dõng heo quay hoặc heo trắng. Tới 12h đêm làm Chỏnh lễ (ông chánh tế điều khiển chương trỡnh), đọc văn tế (bài văn tế thần Nam Hải Đại Tướng Quân) với nội dung là để Ông phù hộ cho dõn vạn chài, trong vụ mựa mới làm ăn phát đạt, đánh bắt được nhiều cá, cuộc sống ấm no…..
Qua khảo sát lăng Ông và lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau, tụi cú một số nhận xột sau:
+ Nhỡn từ gúc độ tổ chức:
Thờ cỳng cỏ ễng Nam Hải là tín ngưỡng của ngư dân thị trấn Sông Đốc, khụng theo hệ thống tụn giỏo nào và cũng khụng mang màu sắc chớnh trị. Ban quản trị điều động mọi hoạt động của Vạn, Vạn có quy định, có nội dung hoạt động cụ thể, có quỹ tài chính riêng.
+ Nhỡn từ gúc độ nghề nghiệp
– Xây dựng mối đoàn kết trong ngư dân, động viên ngư phủ đẩy mạnh sản xuất đánh bắt, làm cho ngành ngư nghiệp ngày càng phát triển, sản lượng cao, hiệu quả kinh tế lớn, đời sống nhân dân thêm phồn vinh thịnh vượng.
– Tương trợ giúp đỡ lẫn nhau trong ngành nghề, tạo điều kiện cùng góp phần cải tiến phương tiện đánh bắt khai thác thuỷ sản theo cụng nghệ tiờn tiến, khuếch trương nền kinh tế biển.
+ Nhìn từ gúc độ văn hoỏ
– Ngày cúng Ông là ngày hội của ngư dân và nhân dân vùng biển. Đây là một hoạt động văn hoá rất có ý nghĩa, biểu hiện thế giới quan của người dõn Sông Đốc, từ một niềm tin đó giúp những người làm nghề biển vốn đó bần hàn, nghốo khú vươn lên chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, tin vào sự tốt đẹp của cuộc sống, tạo nên một ý chớ kiờn cường, bất khuất,
– Lễ hội Nghinh ễng đó gúp phần vun đắp tỡnh yờu quờ hương, yêu nghề, là sụ gắn kết giữa con người với con người, giúp mỗi cá nhân trở về với nguồn cội,, soi mỡnh vào đó để hoàn thiện nhân cách. Đồng thời, lễ hội này cũng là nơi giao lưu, trao đổi học tập, truyền bỏ nghề nghiệp cho nhau. í nghĩa này rất lớn lao bởi hàng năm vào mựa lễ hội, có trên 2.000 tàu bè các loại cùng tụ hội về và có khoảng 20.000 người dự hội, thành phần dự hội là ngư dân vùng biển Sông Đốc và ngư dân, nhân dân khắp mọi miền tụ hội về đây để tham quan thưởng lóm và tỏ lũng tin tưởng.
– Lễ hội Nghinh ễng là một tớn ngưỡng của ngư dân vùng biển, không chỉ có ở Sông Đốc, mà nó trải suốt theo chiều dài đất nước, khắp Bắc – Trung – Nam, dọc theo bờ biển và có ảnh hưởng lớn đến cộng đồng người Việt Nam về văn hoá vật chất cũng như về tinh thần. Trong bài “Nguyện Hương” của lễ hội Nghinh Ông tại Sông Đốc có những điểm gần giống với bài Nguyện Hương ở một số lễ hội Nghinh ễng và lễ hội khỏc của hệ thống lễ hội dõn gian truyền thống. Xột về vai trũ và tư cách của những lễ hội này ta đều thấy một điểm chung, đa số những vị nhiên thần là đại diện chính cho đối tượng thờ phụng của ngư dân vùng biển.
+ Nhỡn từ gúc độ kinh tế và du lịch
Lễ hội Nghinh Ông đó tạo ra một bộ mặt văn hoá cho thị trấn Sông Đốc, những giá trị tinh thần đó tạo thành một lực hỳt mạnh mẽ. Dõy truyền kinh tế từ sản xuất, lưu thông phân phối đến tiêu thụ diễn ra nhanh chóng. Điều đó đó đưa kinh tế thị trấn Sông Đốc phát triển vượt bậc, hiện nay thị trấn Sông Đốc đang được UBND tỉnh đánh giá cao về tiềm năng kinh tế, hướng tới thành một đặc khu kinh tế của tỉnh. Khi đời sống vật chất được nâng cao, nó cũng tạo ra những nhu cầu lớn về thoả món đời sống tinh thần, từ đó có thể lí giải tại sao thời gian gần đây lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc ngày càng phong phú về nội dung và hỡnh thức, trở thành một sự kiện văn hoá lớn của tỉnh Cà Mau. Theo số liệu thống kê của Ban trị sự Vạn Lăng Ông Nam Hải và Ban Văn hoá thị trấn Sông Đốc thỡ năm 2009 số lượng người tham dự lễ hội Nghinh Ông là trên 20.000 người, chưa kể những ngày rằm, ngày giỗ Ông 16 tháng 06 âm lịch và ngày giỗ Bà Nam Hải Thần Nữ Nương nương cũng diễn ra tại Vạn Lăng Ông. Số lượng tàu thuyền đi biển tham gia trên 2.000 chiếc gồm tàu đánh cá, tàu vận tải, tàu buôn cùng ghe thuyền, vỏ lói… Số lượng tiền mà bá tánh cúng tế trong một năm cúng Ông lên đến hàng trăm triệu chưa kể lễ vật bằng hiện vật như: Heo quay – Gà vịt – Cây trái và nhiều đồ hiến tế khác. Đầu tư của Việt kiều cho việc xõy dựng cơ sở vật chất cũng lên đến hàng trăm triệu đồng.
Lễ hội Nghinh Ông Hải tại Sông Đốc có một sức hấp dẫn đặc biệt với khách du lịch, đó lụi cuốn cỏc tầng lớp xó hội, đó trở thành một nhu cầu, một khát vọng lớn lao của đông đảo ngư dân. Theo lời kể của cụ Huỳnh Văn Xiệu, cụ Nguyễn Huệ thỡ những lỳc khú khăn hoạn nạn hay những lúc trúng mùa, phát tài, người ngư phủ đều về đây cúng bái và họ rất tin tưởng vào ý niệm “cứu nhân độ thế” phát tài phát lộc, an khang thịnh vượng của Lăng Ông. Lễ hội Nghinh Ông diễn ra vào ngày 15 và 16 tháng 02 âm lịch là lễ hội mùa xuân biển lặng, là lúc được mùa nhất trong năm. Chính sự thuận lợi về không gian, thời gian, điều kiện tự nhiên nơi đây cũng là một tiềm năng du lịch.
Hiện nay lễ hội Nghinh Ông đang dần trở thành một sản phẩm du lịch vỡ người dân và khách từ mọi nơi, nhất là ở cỏc thành phố và trung tõm dõn cư lớn về dự lễ hội. Bờn cạnh yếu tố tõm linh, họ cũn coi đây là một chuyến đi thăm quan tỡm hiểu đời sống của người dân vùng sông nước và đặc biệt là kết hợp thăm quan một số điểm du lịch nổi tiếng của địa phương như điểm Cột mốc biờn giới, đất mũi Ngọc Hiển, vùng đất tận cùng phớa Nam của đất nước, cũng như vùng rừng ngập mặn tại địa phương. Bên cạnh việc thăm quan, các sản vật của địa phương như cá khô, mắm,….được các du khách mua về dùng và làm quà là khá phổ biến. Tất cả các điều kiện này đó gúp phần quảng bỏ cho du lịch của địa phương và ngày càng thu hút được du khách trên cả nước đến thăm quan du lịch.
Bên cạnh điều kiện thuận lợi, hiện nay lễ hội Nghinh ễng vẫn cũn một số tồn tại cần phải giải quyết.
Lễ hội Nghinh Ông tại Sông Đốc, về cơ bản chưa được khai thác mang tớnh chuyờn nghiệp phục vụ du lịch. Từ khâu đầu tư, tổ chức, quản lí, cho đến thiết kế, xây dựng hoàn toàn tự phát. Xét về cơ sở hạ tầng thỡ chưa có quy mô và chiến lược, ta có thể đưa ra những ví dụ: Đường sá giao thông nội ô thị trấn rất hẹp, chưa được quản lớ cú nề nếp, tỡnh trạng mất vệ sinh, ụ nhiễm mụi trường cao, an ninh trật tự, nhất là lối sống, ứng xử văn hoá chưa ổn định, các tệ nạn xó hội cú chiều hướng gia tăng. Các dịch vụ trong du lịch cũn yếu và thiếu như: nhà trọ, ăn uống, đi lại, dịch vụ văn hoá phẩm, quà lưu niệm chưa được thiết kế. Quy trỡnh của lễ hội Nghinh Ông chưa thể hiện rừ nột đặc thù văn hoá của tỉnh. Các chương trỡnh du lịch chưa có sự liên kết đồng bộ, mà chủ yếu là các tour lẻ tẻ. Cụng trỡnh xõy dựng cơ bản trong khuụn viờn Vạn Lăng chỉ là chắp vá, các khu đất phiá sau chưa đưa vào sử dụng, vẻ mĩ quan chưa cao
Với thực trạng của lễ hội Nghinh Ông tại thị trấn Sông Đốc hiện nay, chúng ta cần thức hiện một số giải pháp như:
– Đầu tư thiết kế lại hệ thống giao thông đường thuỷ, bộ của thị trấn đáp ứng cho sự phát triển của thị trấn, đồng thời đáp ứng cho nhu cầu giao thông trong những ngày lễ hội.
– Tăng cương quản lí các mặt an ninh, trật tự, an toàn xó hội, mở cỏc dịch vụ về văn hoá du lịch.
– Đầu tư cho việc trùng tu, xây dựng cơ bản của Lăng Ông Nam Hải.
– Thiết kế lại nghi trỡnh, nghi lễ của lễ hội Nghinh ông Nam Hải.
– Viết sách, in catalogue giới thiệu về điểm du lịch, thiết kế theo đúng đặc trưng du lịch, các hình ảnh đặc sắc lễ hội này cần được nhân rộng.
– Xây dựng, thiết kế các thuyền văn hoá du lịch, thiết kế theo đúng đặc trưng du lịch của miền sông nước Cà Mau, có đặc điểm, dấu ấn riêng.
– Mở thêm tụ điểm giao lưu văn hoá nghệ thuật tại thị trấn Sông Đốc, ở trung tâm này cần có: dàn nhạc dân tộc, dàn nhạc hiện đại, dancing, đặt một khu thư viện, bảo tàng, nhà hát mini, tại đây có thể mở các hội trợ triển lóm về ngành biển, chung quanh khuôn viên cần mở một công viên nhỏ và một sân đa năng sử dụng các hoạt động thể thao, vui chơi giải trí của nhân dân thị trấn, Cần tăng cường đào tạo và nâng cấp chất lượng đội ngũ nghiệp vụ văn hoá và hướng dẫn viên du lịch.
– Tuyên truyền giáo dục lối sống, nếp sống văn minh, tiến bộ cho nhân dân, nâng cao đời sống văn hoá tinh thần, mở mang dân trí.
– Xây dựng một tour du lịch có sự kết hợp của nhiểu điểm du lịch nổi tiến của địa phương (đặc biệt là du lịch sông nước) để thu hút được nhiều du khách hơn.
Xét về cơ bản, lễ hội Nghinh Ông ở thị trấn Sông Đốc huyện Trần Văn Thời là một trong các lễ hội dân gian lớn nhất của tỉnh Cà Mau. Tỉnh Cà Mau ba mặt giáp biển, bốn bề là sông nước nên việc nâng cao các hoạt động văn hoá du lịch từ lễ hội này là hợp lí và có giá trị nhân văn. Về phần mình, du lịch không ngừng được bổ sung những hệ thống sản phẩm có giá trị cao và có ý nghĩa thẩm mĩ, còn về phía lễ hội thì tiếp nhận được các phương tiện hiện đại của du lịch để tăng cường sức sống, mở mang, tiếp xúc, trao đổi với thế giới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Dương Văn Sáu, Lễ hội Việt Nam trong sự phát triển Du lịch (Giáo trình dựng cho sinh viên đại học và cao đẳng ngành du lịch),Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, H, 2004.
2. Ngụ Thị Kim Doan, Những lễ hội Việt Nam tiêu biểu, NXB Văn hóa thông tin, H, 2003.
3. Lờ Trung Vũ, Lễ hội Việt Nam, NXB Văn hóa Thông tin, H, 2005.
4. Báo cáo tổng kết của Ban trị sự Vạn Lăng ụng Nam Hải thị trấn Sụng Đốc huyện Trần Văn Thời, Cà Mau, 2009.
5. Báo cáo tổng kết của Trung tâm Văn hoá – Thể thao huyện Trần Văn Thời, Cà Mau, 2009.