Một số di tích thờ tự Dương Vân Nga, hoàng hậu hai triều Đinh – Lê

SOME WORSHIPING RELICS OF DUONG VAN NGA,
THE QUEEN IN THE DINH – LE DYNASTIES

Tác giả bài viết: HOÀNG THỊ HỒNG THẮM
(Khoa Ngữ văn – KHXH)

TÓM TẮT

     Dương Vân Nga (Dương hậu thời Đinh – Lê) là một nhân vật lịch sử đặc biệt bởi hành trạng gây tranh cãi của bà: bà vốn là hoàng hậu của Đinh Tiên Hoàng, sau khi vua Đinh bị sát hại, triều đình rối loạn, bà đã trao ngai vàng của con trai mình cho Thập đạo tướng quân Lê Hoàn rồi tái giá với vị tướng tiền triều này. Vì hành động này, không ít người chỉ trích bà là dâm phụ, vì tư tình mà đặt dấu chấm hết cho một dòng họ đế vương; nhiều người lại ngợi ca bà biết nhìn xa trông rộng, hi sinh lợi ích cá nhân vì sự sống còn của cả dân tộc. Trong thực tế, bất chấp sự trái chiều trong việc ghi công luận tội của hậu thế, qua khảo sát của chúng tôi, bà vẫn hiện diện trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt, được thờ tự ở 11 ngôi đền tại các địa phương Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hóa và Nghệ An; trong đó, Ninh Bình là nơi có mật độ đền/ đình thờ nhiều nhất (bảy điểm thờ), các nơi khác đều có một điểm thờ.

Từ khóa: Dương Vân Nga, Đinh Tiên Hoàng, Lê Hoàn, thờ tự.

ABSTRACT

     Duong Van Nga (Duong queen in the Dinh – Le dynasties) is a special historical figure due to her controversial behavior: she was originally queen of Dinh Tien Hoang, after the king was murdered, the court was in turmoil. She handed over her son’s throne to the Chancellor – Le Hoan and remarried to him. Because of this action, she was criticized for being a lewd woman, because that love put an end of the royal family; others praised her for foreseeing, sacrificing personal gain for the survival of the nation. In fact, in spite of the contradiction in the recognition of the posterity of the descendants, through our survey, she is still present in the spiritual cultural life of the Vietnamese, being worshiped at 11 temples in Ninh Binh, Nam Dinh, Ha Nam, Thanh Hoa and Nghe An; in which, Ninh Binh is the place having the highest density of temples (7 places of worship), in other places there is only one place of worship for each.

Key words: Duong Van Nga, Dinh Tien Hoang, Le Hoan, worship.

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Bên cạnh đời sống vật chất, người Việt từ bao đời nay rất coi trọng lĩnh vực văn hóa tinh thần, trong đó phải kể đến văn hóa tâm linh. Đây là lãnh địa thiêng liêng, bất khả xâm phạm bởi nó thuộc về phạm trù tín ngưỡng của dân gian. Sự lưu tồn của nó được thể hiện ở cả phương diện vật thể (qua các di tích, hiện vật) và phi vật thể (qua lễ hội, nghi thức thờ cúng). Tuy là một nhân vật có hai chiều tranh luận nhưng với những công trạng nổi bật của mình trong lịch sử, Dương Vân Nga vẫn được thờ tự ở 11 ngôi đền tại các địa phương Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thanh Hóa và Nghệ An. Không gian thờ tự bà vừa cho thấy điểm chung trong tín ngưỡng thờ tự của người Việt, vừa thể hiện quan niệm cũng như cách đánh giá của dân gian về bà hoàng hậu “một vai gánh vác cả đôi sơn hà”.

2. Nội dung nghiên cứu

     Cho đến nay, qua kết quả điền dã của chúng tôi, có 11 di tích thờ tự Thái hậu Dương Vân Nga (gồm 1 điểm thờ chính và 10 điểm phối thờ, trong đó Ninh Bình có số điểm thờ nhiều nhất là 7 điểm, các địa phương còn lại là Hà Nam, Nam Định, Thanh Hóa và Nghệ An đều có 1 điểm thờ), cụ thể như sau:

Bảng 1: Các di tích thờ tự Dương Vân Nga còn lưu tồn đến ngày nay

TTTên điểm thờNhân vật chính được phụng thờĐịa phương
1Đền vua Lê Đại Hành (cố đô Hoa Lư – Ninh Bình)vua Lê Đại HànhNinh Bình
2Đình Mỹ Hạ (Gia Thủy, Nho Quan,
Ninh Bình)
vua Đinh Tiên HoàngNinh Bình
3Đình Trai (Gia Hưng, Gia Viễn,
Ninh Bình)
vua Đinh Tiên HoàngNinh Bình
4Đình Trung Trữ (Ninh Giang, Hoa
Lư, Ninh Bình)
hai vua Đinh – LêNinh Bình
5Đền Thượng Ngọc Lâm (Yên Lâm,
Yên Mô, Ninh Bình)
vua Lê Đại HànhNinh Bình
6Đình Yên Lâm (Lai Thành, Kim
Sơn, Ninh Bình)
vua Lê Đại HànhNinh Bình
7Đền Đồng Bến (phường Đông
Thành, thành phố Ninh Bình)
vua Lê Đại HànhNinh Bình
8Đình Yến (Ứng Liêm, Thanh Hà,
Thanh Liêm, Hà Nam)
vua Đinh và các vị vua thời Tiền LêHà Nam
9Đền Bách Cốc (Thành Lợi, Vụ
Bản, Nam Định)
Dương Vân Nga (thành hoàng làng) (sau này phối thờ Thái phó Bùi Ư
Đài, một vị quan thời Hậu Lê)
Nam Định
10Đền vua Lê Đại Hành (Trung Lập, Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa)vua Lê Đại HànhThanh Hóa
11Đền Bạch Mã (Liên Thành, Yên Thành, Nghệ An)Lý Nhật Quang cùng vua cha và
mẫu hậu
Nghệ An

     2.1. Cụm đền thờ Dương Vân Nga tại Ninh Bình

     Trong số các di tích thờ tự Dương Vân Nga thì đền vua Lê Đại Hành tại cố đô Hoa Lư luôn được coi là trung tâm của các điểm thờ. Theo Đặng Công Nga [4], tương truyền ngôi đền này và đền vua Đinh được xây dựng sau khi Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long. Ban đầu, dân làng Trường Yên đã thờ chung hai vua và Dương hậu trong cùng một ngôi đền, đến khi Lê Thúc Hiển về làm An phủ sứ lộ Trường Yên năm 1436 thì mới lệnh cho dân làm thêm một ngôi đền thờ Lê Đại Hành và Dương hậu vì cho rằng bà đã tái giá thì phải theo người chồng mới. Nếu tư tưởng Nho gia không chấp nhận hiện tượng thờ chung “lộn sòng” ấy thì với dân gian, đó lại là một điều hết sức bình thường, bởi thực tế, Dương hậu là vợ của hai vua. Việc họ thờ chung hai ông một bà xuất phát từ thực tế chứ không nhằm mục đích “để người đời sau giễu nhại” như có người từng nói. Tập tục của người Việt đã ghi nhận hiện tượng thờ hai ông một bà và nghi lễ ấy được thực hành một cách rất trang trọng vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm, đó là tục cúng Táo quân. Nếu Táo quân là kết quả của những lớp văn hóa trầm tích kết hợp với trí tưởng tượng dân gian thì “hai vua và một hậu” lại là một hiện tượng cụ thể của lịch sử. Sự trùng hợp ngẫu nhiên thú vị ấy đã tạo nên nét tương đồng độc đáo trong tục thờ “hai ông một bà” của người Trường Yên và tín ngưỡng dân gian.

     Sang thế kỉ XVII, đền vua Đinh và vua Lê được đại trùng tu. Trong cuộc đại tu này có ba pho tượng thờ được tạc là tượng vua Lê Đại Hành, Bảo Quang Hoàng thái hậu và Lê Ngọa Triều vào năm 1611 [5]. Hiện nay, pho tượng Bảo Quang Hoàng thái hậu ở đền vua Lê được đề tên là Thái hậu Dương Vân Nga. Theo cách lí giải của Trần Hậu Yên Thế thì có lẽ tên hiệu Bảo Quang Hoàng thái hậu được đặt để tránh tên Đại Thắng Minh hoàng hậu, bởi “các nhà nho rất ác cảm với việc Lê Đại Hành lấy tên hiệu Đại Thắng Vương của Đinh Tiên Hoàng, chồng cũ của Dương hậu làm danh hiệu mới” cho bà và tên hiệu này có thể là pháp danh của bà khi bà đi tu ở chùa Am Tiên [5]. Tác giả cũng chú ý đến điểm đặc biệt của bức tượng là “mặt rất đỏ”, “một đặc điểm chưa từng có trong nghệ thuật tạc tượng chân dung các bà hoàng phi công chúa” của Việt Nam và lí giải nó theo quan niệm của dân gian: những người đàn bà mặt đỏ thường bị coi là có nhu cầu tình dục cao (“đa mao hồng diện”), đồng thời minh giải thêm rằng do bà vụng trộm với Lê Hoàn nên xấu hổ đỏ mặt và dù đã chết rồi nhưng khi quay mặt về đền thờ chồng cũ vẫn không hết hổ thẹn. Tuy nhiên, theo một cách giải thích khác thì dân gian để tượng quay mặt về phía đền Đinh (quay mặt về phía Nam) có “ý nghĩa là bà vẫn còn tình nghĩa với nhà Đinh” [3, tr. 399], vì “Tình cảm của bà với vua Đinh Tiên Hoàng rất sâu nặng và mang nhiều duyên nợ” [1, tr. 56].

     Nét đặc biệt của bức tượng Dương Vân Nga không chỉ ở những câu chuyện hấp dẫn xung quanh nó mà còn bởi những đường nét tạo tác của người nghệ sĩ điêu khắc xưa. Một số nhà nghiên cứu đã có những cảm nhận tinh tế về khuôn mặt tượng Dương hậu, đó là đứng ở những điểm nhìn khác nhau sẽ phát hiện thấy những dáng nét khác nhau của bà. Nhìn chính diện, bà hơi cau mày, trăn trở suy tư; nhìn từ ngoài vào bà như thoáng mỉm cười; từ trong nhìn ra lại thấy khuôn mặt gượng gạo và u buồn. Phải chăng mối đồng cảm sâu sắc với số phận éo le của bà lưỡng triều hoàng hậu đã khiến người thợ điêu khắc tạo tác nên một diện mạo chất chứa nhiều nỗi niềm u uẩn không thể thổ lộ hết thành lời? Nếu như đứng trước các pho tượng La Hán chùa Tây Phương, nhà thơ Huy Cận còn băn khoăn tự hỏi: “Nhà nghệ sĩ xưa đã vô tình hay hữu ý mượn đề tài chuyện Phật mà miêu tả xã hội đương thời, một xã hội quằn quại đau khổ trong nhiều biến động và bế tắc không tìm được lối ra” thì ở bức tượng Dương Vân Nga, có thể nói rằng “nhà nghệ sĩ xưa đã hữu ý” gửi vào bức điêu khắc chân dung Dương hoàng hậu những nỗi niềm trăn trở, suy tư về thân phận con người trong những cuộc vật đổi sao dời của lịch sử. Cụ thể hơn là ta sẽ thấy được “lịch sử Đại Cồ Việt thuở ấy với những dòng họ, những thế lực khác nhau vừa ẩn bên trong hậu trường, vừa công khai bên ngoài cung đình, với những đảo lộn giao thời vừa mãnh liệt vừa dần dà và những toan tính phức tạp” [2, tr. 748]. Pho tượng Dương Vân Nga ở đền Hoa Lư đã đi vào thi ca đời sau với những cảm xúc chân thành, lắng đọng:

– “Ngàn năm vằng vặc Thái hậu ơi

Tượng gỗ nguy nga mỉm miệng cười

Ngàn năm đất nước thu một mối

Mối tình san sẻ cả đôi nơi”

– “Hoàng bào chính nghĩa không minh định

Nhung giáp hi sinh tất nhạt nhòa

Giúp rập hai vua, đời nể trọng

Hoa Lư hương khói tượng Vân Nga”

     Cách trung tâm cố đô Hoa Lư khoảng 7 km là làng Trung Trữ, nơi có ngôi đình thờ tự hai vua Đinh – Lê và hoàng hậu Dương Vân Nga. Ông Bùi Đình Hiển (Trung Trữ, Ninh Giang, Hoa Lư) cho chúng tôi biết vào năm 1492, người con trưởng của dòng họ Đinh Thế từ Trường Yên Thượng đã đến khai phá và lập nên làng Trung Trữ. Để tỏ lòng nhớ về nguồn cội, ông đã bốc chân hương từ đền Trường Yên, nơi thờ hai vua và hoàng hậu Dương Vân Nga để lập đình thờ mới. Đến nay, ngôi đình vẫn giữ được nét đặc biệt là cách đặt tượng thờ “hai vua một hậu” theo “tục dân” buổi ban đầu. Tượng hai vua được đặt cạnh nhau giữa tòa hậu cung, tượng vua Lê thấp hơn và lùi về phía sau so với tượng vua Đinh. Còn tượng Dương hậu được đặt riêng, ở bên trái của hậu cung (tên tượng là Thái hậu Dương Vân Nga), ngược với cách định vị tượng thờ truyền thống “tả nam, hữu nữ”. Ngôi đình có một số sắc phong, trong đó, bà Dương hậu có ba sắc phong của các triều vua: Thành Thái năm thứ 13, Duy Tân năm thứ 3, Khải Định năm thứ 9. Ngôi đình đã từng được tu sửa vào năm Bảo Đại 11 (1939) và cho đến nay, nó ngày càng in hằn dấu ấn tháng năm: cửa đình bạc phếch, những chiếc cột bị mối mọt xông lỗ chỗ. Dù vậy, ngôi đình vẫn có một vị trí tâm linh đặc biệt trong tâm thức người dân Trung Trữ với những sinh hoạt văn hóa của cộng đồng như tổ chức hội làng, “khai xuân yết lão”…

     Đối với người dân Gia Thủy (Nho Quan, Ninh Bình), ngôi đình mang tên Mỹ Hạ (có nghĩa là miền đất đẹp dưới trần gian) thờ Đinh Tiên Hoàng và Dương Vân Nga đã trở thành một biểu tượng thiêng trong đời sống văn hóa tâm linh của họ. Người dân địa phương cho biết ngôi đình được dựng từ thời Tiền Lê để nhớ tích tập trận cờ lau thời thơ ấu của Vạn Thắng Vương ở quê ngoại. Tương truyền, đây cũng là nơi ngài chào đời. Đình có 14 sắc phong của các đời vua triều Nguyễn gồm: vua Tự Đức (một sắc phong), vua Thành Thái (bốn sắc phong), vua Đồng Khánh (một sắc phong), vua Duy Tân (hai sắc phong), vua Khải Định (sáu sắc phong). Hiện Ban quản lí đình còn lưu giữ được 8/ 14 sắc phong nhưng chúng không còn nguyên vẹn nữa. Bên cạnh đó, trong hậu cung còn hai bộ triều phục của vua Đinh và bà Dương hậu. Hằng năm, vào đúng Ngọ ngày thanh minh, dân làng làm lễ và phơi hai bộ triều phục này cùng với tám sắc phong. Vào ngày này, buổi sáng nếu có mưa thì chỉ đến đúng Ngọ sẽ hửng nắng (người dân gọi là “hào quang”). Đình Mỹ Hạ đã hai lần bị cháy bởi bom napan của thực dân Pháp, nhưng cả hai lần, lửa chỉ cháy đến chính điện long cung rồi tắt, nhờ thế mà đến nay còn lại hai cỗ ngai thờ, hai vương miện, một hộp đựng các sắc phong và hai bộ triều phục, trong đó, hai bộ triều phục là thứ quý nhất của ngôi đình, vì theo tương truyền, chúng là lễ phục của vua Đinh và hoàng hậu Dương Vân Nga trong những dịp hành lễ tại quê nhà.

     Xã liền kề Gia Thủy là Gia Hưng cũng có một ngôi đình thờ Đinh Tiên Hoàng và Dương Vân Nga. Đình có hai tên là đình Trai (đình được làm bằng gỗ trai) và đình Viến (đặt theo tên làng). Đình được xây dựng từ thời Lý. Điều đặc biệt là dưới gầm bàn thờ vua Đinh có lô nhang Đỗ Thích. Ông thủ đình giải thích rằng cách bài trí bát hương như vậy là để nhắc nhớ người đời sau về kẻ thủ ác họ Đỗ đã hành thích nhà vua. Tương truyền trước kia dưới tượng vua Đinh trong đền Thượng ở cố đô Hoa Lư cũng có một tượng Đỗ Thích rất nhỏ bằng gỗ. Vì có tội giết vua nên hàng năm, cứ đến ngày tế vua Đinh, dân làng lại đem tượng Đỗ Thích ra đánh ba roi (hay “khảo ba vồ”) để răn dạy những kẻ có tội. Vì năm nào cũng bị khảo như vậy nên đến nay, tượng Đỗ Thích không còn nữa.

     Xã Yên Lâm (Yên Mô, Ninh Bình) không chỉ là địa bàn chính của Thần Phù – cửa biển nổi tiếng với câu ca “Lênh đênh qua cửa Thần Phù…”, mà còn là nơi thờ vua Lê và Dương hoàng hậu. Làng Ngọc Lâm xưa (Yên Lâm ngày nay) do quốc sư Khuông Việt khai lập năm 1007. Làng có hai ngôi đền, đền Thượng thờ vua Lê và Dương hậu, đền Hạ thờ thành hoàng làng là quốc sư Khuông Việt. Khi chúng tôi hỏi lí do vì sao làng thờ vua Lê và Dương hậu thì người dân kể rằng vì họ tôn quốc sư của triều Tiền Lê làm thành hoàng nên đồng thời cũng phối thờ vua Lê và hoàng hậu Dương Vân Nga. Tại đền Thượng có bảng trích lược ghi nhận công đức của vua Lê và Dương hậu, một vị có công đánh Tống, bình Chiêm và chấn hưng đất nước; một vị nhường ngôi của con trai cho người có tài cầm quân đánh giặc. Điều thú vị là đình Yên Lâm (Lai Thành, Kim Sơn) chính là bản sao của đình Thượng (Ngọc Lâm), bởi người dân Lai Thành vốn gốc ở Ngọc Lâm di cư đến, vì nhớ làng quê cũ nên xin chân nhang ở đình Thượng Ngọc Lâm đến làng mới lập đền thờ. Đình Yên Lâm nằm giữa cánh đồng, xung quanh có vài hộ dân sinh sống. Thời điểm chúng tôi đi điền dã thì thủ đình là ông Lê Văn Trịnh (57 tuổi). Ông nhận trọng trách này từ năm 1999. Ông Trịnh kể với niềm tin rằng chính đức vua Lê và bà Dương Thái hậu đã phù trợ cho ông khỏi bệnh, bởi lẽ trước kia ông thường đau ốm liên miên, nhưng từ khi trông coi đình, ông đã dần bình phục. Ông cho biết ngôi đình có tuổi đời khoảng 200 năm. Trong đình có đôi câu đối ca ngợi công đức của vua Lê: “Chính thống tương thừa Đinh chi tiền Lí chi hậu; Anh uy viễn chiếu Tống dĩ Bắc Chiêm dĩ Nam”.

     Có một địa danh rất nổi tiếng, là chứng tích cho câu chuyện Dương Thái hậu trao áo hoàng bào cho Lê Hoàn và mời ông lên ngôi vua. Đó chính là đền Đồng Bến, nơi thờ vua Lê và Dương Thái hậu. Ngôi đền nằm ở phường Đông Thành, thành phố Ninh Bình. Trước đền có một cây lộc vừng rất to, cụ Đinh Văn Tính (81 tuổi, trú tại tổ dân phố 6, đường Đông Phương Hồng, thành phố Ninh Bình) – thủ đền, nói rằng đây chính là nơi bà Thái hậu đã trao long bào cho Lê Hoàn, hẹn rằng nếu đánh thắng giặc Tống thì sẽ làm lễ hợp cẩn trên sông Vân Sàng. Năm 2015, Ban quản lí cho tu sửa lại ngôi đền. Sau đó, con đường phía trước ngôi đền cũng được mở rộng hơn nhưng cây lộc vừng đặc biệt ấy vẫn được giữ lại, trở thành điểm nhấn xanh cho cảnh quan của đền.

     2.2. Cụm đền thờ Dương Vân Nga tại các địa phương khác

     Các tỉnh phụ cận Ninh Bình là Nam Định, Hà Nam và Thanh Hóa cũng có đền thờ Dương Vân Nga. Ở làng cổ Bách Cốc (Vụ Bản, Nam Định), bà được tôn làm thành hoàng với danh xưng là vua Bà và được thờ ở Thượng đẳng linh từ mang tên làng. Người dân Bách Cốc vẫn kể cho nhau nghe chuyện bà cùng triều đình lo việc binh lương trong kháng chiến chống Tống năm 980. Bà đã từng đi thuyền rồng đến vùng Thiên Bản (Vụ Bản ngày nay) là nơi tập trung quân lương của Đô Hiệu lương thảo sứ Phạm Phòng Át. Bến Ngự làng Bách Cốc là dấu tích bà dừng thuyền, động viên nhân dân chở binh lương ra trận. Báo Nam Định điện tử (www.baonamdinh.com, ngày 02/ 8/ 2012) đã dựa vào dấu tích của một bến cảng có niên đại khoảng một nghìn năm tại vùng đất Nam Định, kết hợp với truyền thuyết địa phương để nhận định rằng rất có thể nó là bằng chứng thực sự của việc tích trữ binh lương trong kháng chiến chống Tống, mà người đảm trách nhiệm vụ quan trọng này là Thái hậu Dương Vân Nga. Thông tin này bước đầu củng cố “cái lõi lịch sử” của truyền thuyết địa phương về bà, góp phần khẳng định công trạng của bà đối với đất nước. Hiện tại, trong hậu cung của đền Bách Cốc có tượng vua Bà ngồi trên ngai, đầu vấn khăn tang bỏ thõng xuống sau lưng, tóc búi cài trâm giống tượng bà tại đền vua Lê ở Trường Yên và đền Trung Trữ (Ninh Giang, Hoa Lư, Ninh Bình). Trong những pho tượng về bà mà chúng tôi từng được chiêm bái, đây là pho duy nhất tạc bà vấn khăn tang chồng (rất tiếc là chúng tôi không được phép chụp ảnh pho tượng). Điểm đặc biệt này không chỉ góp phần xua tan những mối hoài nghi xung quanh hành trạng của bà mà còn khắc họa một Dương Thái hậu mạnh mẽ, đã vượt lên nỗi đau của bản thân và hoàng tộc để đảm nhận tốt vai trò nhiếp chính. Hiện Ban quản lí đền còn giữ được 10 sắc phong từ năm 1730 đến năm 1924 dành cho bà. Nội dung các sắc phong từ năm 1730 (năm Vĩnh Khánh thứ 2) đến năm 1783 (năm Cảnh Hưng 44) tập trung ca ngợi công đức của Dương hậu: “Sắc vua Bà Lê Đại Hành chiêu vương là Thần quan đại vương linh thiêng ứng nghiệm giúp nước cứu dân, đức hạnh tốt đẹp: nhu mì nhún thuận, đôn hậu hòa hợp, dung nhan tươi đẹp, cốt cách đoan trang, cảm hóa huyền diệu, ban ơn rộng rãi, phúc đức rực rỡ, thông minh quyết đoán, thành tựu rộng lớn. Đúng đạo nhún nhường thuận theo, hợp đức đoan trang tiết liệt, luôn diệt họa trừ tai giúp nhân dân sống giàu mạnh yên vui, mong mỏi sẽ thông suốt, cầu xin luôn ứng nghiệm, kéo dài cơ đồ vững bền cho tông xã. Đã ghi nhớ công lao của thần, theo phép tắc mà khen tặng. Ta may mắn được nối ngôi vua, đến ở nơi chính phủ kính cẩn phò giúp tông xã, củng cố cơ đồ lớn, long trọng làm lễ thưởng phẩm trật, nên phong tặng thêm cho vua Bà Lê Đại Hành chiêu vương là Thần quan đại vương luôn nêu cao tấm gương trung trinh tiết liệt, thực thi nhiều việc phúc lành. Cho nên sắc phong”. Đến các sắc phong sau đó, từ năm 1810 (năm Gia Long thứ 9) đến 1924 (năm Khải Định thứ 9), nội dung ngắn gọn hơn, cho thấy việc ban sắc chỉ là chuẩn theo các triều đại trước: “Sắc chỉ thôn Bách Cốc, xã Bách Cốc, huyện Thiên Bản, viên sắc, thôn trưởng cùng nhân dân cả thôn các ngươi theo trước phụng thờ vị hoàng hậu của vua Lê Đại Hành triều Lê. Đã được các triều tôn tặng nhiều mĩ tự. Nay chuẩn cho phụng thờ như trước để bày tỏ lòng kính cẩn vậy. Cho nên sắc chỉ”.

     Còn ở Hà Nam, di tích phối thờ Dương Vân Nga là ngôi đình Yến (thôn Ứng Liêm, xã Thanh Hà, huyện Thanh Liêm). Trong đình có 4 bài vị thờ Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lê Trung Tông và Lê Ngọa Triều. Ông Hoàng Minh Lưu (75 tuổi, Ban quản lí đình) kể rằng trước đây, bà Dương hậu bị người đời lên án là bất chính, đã có chồng lại tái giá và trao ngôi báu của con trai cho người khác… vì thế, bà không được thờ tự. Còn ngày nay, khi hành động của bà được nhìn nhận một cách tích cực hơn thì bà đã được thờ vọng bên tây của ngôi đình, tuy không có bài vị. Cách thờ tự vẫn là “tả nam, hữu nữ” theo quan niệm truyền thống.

     Tại Thanh Hóa, ngôi đền thờ vua Lê Đại Hành và Dương hoàng hậu (thôn Trung Lập, xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân) nằm trong một quần thể rất đẹp, bên phải đường dẫn vào đền là một ao sen lá xanh hòa quyện với búp hồng. Ao sen gợi nhớ sự tích bà mẹ Lê Hoàn ra tắm ở hồ sen bên chùa, hái nụ sen đẹp nhất mang về nhà, đêm nằm mộng thấy đóa sen kết hạt trong bụng rồi sau đó thụ thai và sinh ra vị vua khai sáng nhà Tiền Lê. Không gian tĩnh lặng, thanh bình khiến ngôi đền càng thêm vẻ thâm u, trầm mặc. Bên trong đền, tượng Dương Thái hậu được đặt phía bên phải và quay mặt vào bàn thờ vua Lê. Trong tâm thức nhân dân nơi đây, bà là người sáng suốt, biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân mà trao ngôi cho Lê Hoàn, gỡ cho đất nước thoát khỏi cảnh binh đao, khói lửa.

     Qua địa phận tỉnh Thanh Hóa, ở xã Liên Thành (huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An) có một ngôi đền mang tên Bạch Mã thờ Uy Minh Vương (Lý Nhật Quang) cùng với vua cha (Lý Thái Tổ) và mẫu hậu là Trinh Minh Hoàng thái hậu (Lê Thị Phất Ngân). Theo truyền ngôn thì Lê Thị Phất Ngân là con của hoàng hậu Dương Vân Nga với vua Lê Đại Hành: “Lê Hoàn và Dương Vân Nga có người con gái tên Phất Ngân lấy Điện tiền Chỉ huy sứ Lý Công Uẩn, người lập ra nhà Lý vào năm 1010. Bên trái hậu cung thờ đức vua Lê và Dương Thái hậu ở Trường Yên, Hoa Lư có ban thờ công chúa Phất Ngân” [6, tr. 53]. Vì lí do này nên khi dân làng Liên Thành các con cháu của bà thì cũng thờ vọng bà tại đền thờ Bạch Mã.

     Hệ thống các điểm thờ tự Dương Vân Nga còn lưu tồn đến ngày nay cho thấy bà có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt. Không gian tâm linh với 11 điểm thờ tự mà Ninh Bình là trung tâm và tỏa ra các khu vực vệ tinh của nó giúp ta hình dung phần nào về không gian sống cùng hành trạng của bà cách đây hơn một nghìn năm. Mỗi một đình, đền thờ lại gắn liền với một sự tích về bà: khu cố đô Hoa Lư gợi nhớ thời kì đương kim hoàng hậu, đền Đồng Bến ghi dấu tích bà trao ngôi cho Lê Hoàn, làng Bách Cốc là nơi bà từng dừng thuyền động viên dân làng cung cấp lương thực cho binh lính trong kháng chiến chống Tống… Theo khảo sát của chúng tôi, bà được phối thờ nhiều nhất với vua Lê Đại Hành (5 điểm gồm: đền vua Lê ở cố đô Hoa Lư, đền Thượng Ngọc Lâm, đình Yên Lâm, đền Đồng Bến, đền vua Lê ở Trung Lập – Thanh Hóa), tiếp đến là với vua Đinh Tiên Hoàng (2 điểm thờ: đình Mỹ Hạ và đình Trai) và cả hai vua (2 điểm: đình Trung Trữ, đình Yến), ngoài ra còn có một điểm thờ với con cháu (đền Bạch Mã) và một điểm thờ chính là đền Bách Cốc. Nhìn vào tương quan con số giữa các điểm thờ, ta có thể thấy dân gian đang tái hiện lịch sử cuộc đời bà: 5 điểm thờ với vua Lê đã xác nhận tính chính danh cho cuộc hôn nhân thứ hai của bà, 2 điểm với vua Đinh nhắc nhớ rằng bà đã từng là hoàng hậu của vị hoàng đế khai quốc này, 2 điểm với hai vua cho thấy vai trò cầu nối của bà trong hai triều đại Đinh – Lê.

3. Kết luận

     Các di tích thờ tự Dương Vân Nga đến nay đều đã “trải qua những cuộc bể dâu”, có di tích bị xuống cấp phủ bóng thời gian, nhưng trong đời sống tinh thần của người dân địa phương, chúng vẫn có giá trị văn hóa đặc biệt. Hiện nay, tại những ngôi đền này vẫn tấp nập người dân đến chiêm bái, nghi ngút khói hương, những câu chuyện về Dương Vân Nga và các nhân vật được phụng thờ luôn được gìn giữ và lưu truyền cho mai sau, tạo nên mối quan hệ gắn bó giữa văn hóa vật thể và phi vật thể, giữa truyền thống và hiện đại trong đời sống người Việt hôm nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lã Đăng Bật (1998), Cố đô Hoa Lư, lịch sử và danh thắng, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

2. Phan Duy Kha, Lã Duy Lan, Đinh Công Vĩ (2003), Nhìn lại lịch sử, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

3. Vũ Ngọc Khánh (2000), Đền miếu Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

4. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Ninh Bình (2008), Thân thế, sự nghiệp và tượng đài Lê Đại Hành, Dương Vân Nga, Kỉ yếu Hội thảo khoa học, Ninh Bình.

5. Trần Hậu Yên Thế (2012), Bảo Quang hoàng thái hậu là ai? Tại sao lại có danh hiệu này?, Thông báo Hán Nôm học 2012, truy cập ngày 01/ 6/ 2020,
http://www.hannom.org.vn.

6. Trương Đình Tưởng (2009), Những nhân vật lịch sử thời Đinh – Lê, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Hải Phòng, số 41, tháng 7 năm 2020

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Một số di tích thờ tự Dương Vân Nga, hoàng hậu hai triều Đinh – Lê
(Tác giả: Hoàng Thị Hồng Thắm)