Một số nghiên cứu về vấn đề dạy học theo quan điểm kiến tạo
Tác giả bài viết: HOÀNG BÁCH VIỆT
(Bộ Giáo dục và Đào tạo)
ABSTRACT
Constructivist theory is a theory of learning activities, built on the consideration of learning activities of students. Therefore, to consider teaching activities based on constructivist theory, we need to first consider the constructivist learning activities of students. This article further analyzes the philosophical premises of constructivist theory; constructivist arguments, inheritance and criticisms in constructivism.
Keywords: Constructivist theory, research, teaching.
x
x x
1. Mở đầu
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên), kiến tạo được định nghĩa là “xây dựng nên”, nhằm nhấn mạnh vào hành động của người kiến tạo tác động lên đối tượng để hiểu biết về đối tượng ấy. Kết quả của sự hiểu biết ấy được trí óc con người thu nhận và được sắp xếp lại thành hệ thống có mối quan hệ bên trong và được khái quát hóa trong quá trình tư duy thành kiến thức mới [1; tr 894]. Ngoài ý nghĩa là “xây dựng nên”, kiến tạo còn có nghĩa là tạo thành, sáng lập, đào luyện, sáng tạo theo nhu cầu bản thân; là hành động của con người ở miền trung gian giữa những cái gì có trước và cái gì bản thân con người muốn làm mới hơn.
Hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu dùng khái niệm quan điểm kiến tạo, tư tưởng kiến tạo, lí thuyết kiến tạo và giữa chúng có sự phân biệt rất mong manh cần lưu ý… Vì vậy, khi vận dụng quan điểm kiến tạo, chúng tôi chủ yếu đặt nó vào vị trí quán triệt những nội dung cơ sở của lí thuyết và tư tưởng kiến tạo trong quá trình dạy học.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Lịch sử nghiên cứu Thuyết kiến tạo
Tư tưởng về Thuyết kiến tạo vốn có từ tư tưởng hoài nghi và ngụy biện thời Hi Lạp cổ đại và từ thuyết học tập của Bruney với quan niệm người học tạo nên kiến thức một cách tích cực bằng cách tạo lập một giản đồ (diagram) kết nối các kinh nghiệm với nhau giữa những gì đã biết và cái vừa lĩnh hội được.
Thuyết kiến tạo ra đời chính thức từ cuối thế kỉ XVIII với câu nói có ý nghĩa về nhận thức của con người của nhà triết học Battista Vico: “Con người chỉ có thể hiểu một cách rõ ràng những gì mà người học tự xây dựng nên cho mình”. Vico đã thách thức nguy cơ bá quyền đang manh nha trong ngành khoa học tự nhiên đầu thế kỉ XVIII và tồn tại tới nay trong tư tưởng của Richard Rorty.
Ngược lại tư tưởng kiến tạo xã hội, nói đúng hơn là kiến tạo tri thức xã hội lại cũng có tham vọng “bành trướng” sang cả khoa học tự nhiên. Tư tưởng kiến tạo xã hội muốn bác bỏ bất kì hình thức bất biến của tri thức có trong lịch sử, dù đó là tri thức nào. Họ cho rằng tri thức có sẵn là võ đoán cần thay thế. Mọi tri thức đều có bản chất xã hội. Với họ, nghiên cứu xã hội học có thể được áp dụng với mọi đối tượng và giải thích bất cứ điều gì.
Vào những năm 80 của thế kỉ XX, trường phái kiến tạo luận có thêm sự cổ vũ của cấu trúc luận, lí thuyết diễn ngôn và lí luận văn học với những tên tuổi mới như Foucault, Pratt, Derrida, Lyotard coi đặc điểm xã hội như một dạng văn bản, một diễn ngôn, hay như cách hiểu của Lyotard chính là trò chơi ngôn ngữ. Từ đó mà có sự kiện phản đối và mỉa mai những kết luận như đinh đóng cột của các nhà lí luận văn học hậu hiện đại như Derrrida, Lacan, Deleuze rằng: các định luật khoa học tự nhiên được phát hiện bởi các nhà khoa học chỉ là những kết cấu mang tính xã hội và văn hóa.
Chính Dewey đã từng tổng kết rằng năng lực của học sinh (HS) sẽ được điều chỉnh bởi những đòi hỏi từ nhu cầu của bản thân và cộng đồng xã hội. Giáo viên (GV) là người truyền cảm hứng và trở thành đối tác phục vụ cho việc tìm ra tri thức và kiểm tra, xác nhận sự đúng đắn của tri thức. Những tổng kết của Dewey rất gần gũi với nhu cầu hoạt động và nhận thức tự thân của người học trong thuyết kiến tạo. Sau đó, Piaget và Vygotsky đã xây dựng một cách khá hoàn chỉnh Lí thuyết kiến tạo mang trường phái riêng, thuộc lĩnh vực tâm lí học.
Gần đây một số nhà khoa học, thậm chí có người đã từng lập thuyết và cổ vũ cho thuyết kiến tạo cho rằng cụm từ “sự kiến tạo xã hội về tri thức” vốn vừa tinh tế vừa mơ hồ, có thể hiểu theo những cách khác nhau và sử dụng quá đà (thậm chí lạm dụng nó) như “sự kiến tạo xã hội phổ quát” (universal constructivism) theo nghĩa bất kì cái gì kể cả khoa học tự nhiên cũng đều do con người kiến tạo nên. Nếu chỉ công nhận tính xã hội của tri thức mà không công nhận tính khách quan của nó có thể dẫn tới chủ nghĩa tương đối hoặc giáo điều. Ngược lại, nếu chỉ công nhận tính khách quan hiện thực của tri thức mà không thừa nhận tính xã hội của tri thức thì kết quả chỉ là sự lặp lại nguyên trạng, máy móc.
Điều chúng ta có thể tin cậy vận dụng Thuyết kiến tạo vào quan điểm đúng đắn của nó là chỗ kiến thức kiến thức được xây dựng và trao truyền cho các thế hệ bởi hoạt động nhân văn văn hóa và hành động trí óc của con người. Kiến thức không phải là sự tập hợp các sự kiện khái niệm, định luật chờ đợi được khám phá. Kiến thức không độc lập và vô cảm với chủ thể nhận thức. Con người cần góp phần xây tạo kiến thức khi muốn lí giải nó trong kinh nghiệm và hiểu biết riêng cần được nhìn nhận lại. Nó không hề bất biến và sẽ được dự đoán, thử nghiệm và bộc lộ trong những tình huống mới và trường hợp cụ thể do nhu cầu của người học.
Ở Việt Nam, một số tác giả góp phần giới thiệu Thuyết kiến tạo và vận dụng chúng vào lĩnh vực giáo dục như Nguyễn Hữu Châu, Bùi Gia Thịnh,…
2.2. Quan điểm kiến tạo trong dạy học
Quan điểm kiến tạo trong dạy học góp phần điều chỉnh lại cơ chế dạy học truyền thống bằng cách tập trung nhiều hơn vào hành động học tập tích cực của HS để tạo nên tri thức mới trên nền tảng tri thức và kinh nghiệm đã có.
Dạy học kiến tạo không chỉ chú trọng vào hành động học của HS mà còn phải phát triển tư duy sáng tạo ở họ mới có khả năng kiến tạo nên tri thức mới trong quá trình nhận thức. Quá trình dạy học kiến tạo không chỉ bao gồm nhận thức trí tuệ đã được đúc kết thành khoa học mà còn phát huy cái mà Sôcơrát (470-399 trước Công nguyên) đã nêu lên về chủ thể cá nhân có ý thức về mình, để từ cái “đang tồn tại có thật” ấy trở thành cơ sở vật chất của tư duy như một hoạt động không thể thiếu trong quá trình nhận thức để sáng tạo tri thức.
Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển triết học và tâm lí học, “cái thế giới tinh thần vô hạn và vĩnh hằng của con người” với hai thuộc tính “tư duy” và “trí tưởng tượng” đã được đánh thức để nhận ra con người cần phải biết suy nghĩ về chính mình – trong trường hợp này là biết suy nghĩ về cách học, trước tiên là học tư duy, tự kiến tạo tri thức cho mình để dùng trong thực tiễn cuộc đời tốt đẹp hơn.
Những điều vừa trình bày có liên quan đến nội dung thiết yếu như ai kiến tạo? Chính HS, nhưng không thể quên vai trò của GV. HS có nhiệm vụ kiến tạo tri thức mới, GV kiến tạo tri thức cơ bản và con đường nhận thức bằng tư duy để HS tìm kiến tri thức mới hơn. Đôi khi, GV phải kiến tạo siêu nhận thức hỗ trợ HS trong dạy học bằng tư duy phản biện và sáng tạo. Quá trình này được tích hợp vào hoạt động dạy học.
2.3. Những đóng góp của J. Piaget và của L. Vygotsky cho Thuyết kiến tạo
2.3.1. Đóng góp của J. Piaget
J. Piaget là người đặt nền móng cho tâm lí học phát triển trí tuệ, trong đó nổi bật nhất là vấn đề nhận thức. Ông cho rằng cấu trúc nhận thức không có tính di truyền bẩm sinh mà là quá trình nhận thức của con người được phát triển trong lịch sử nhân loại. Sự phát triển trí tuệ ấy được mặc định bởi hai quá trình tương hỗ cho nhau mà ông gọi là sự đồng hóa làm cho cái khác giống hay phù hợp với bản thân về quan niệm và mục đích nhận thức.
Đồng hóa là quy trình chủ thể tiếp thu thông tin mới của đối tượng hiện thực mà bản thân chưa hiểu biết thành của mình với sự trợ giúp về tri thức và kĩ năng đã có để xử lí thông tin đó nhằm bổ sung tri thức mới bằng phương thức tư duy đã từng sử dụng.
Điều ứng là quá trình chủ thể thích nghi với yêu cầu của môi trường học tập và xã hội hiện tại mà con người cần biến đổi nhận thức của mình khi nhận ra hiểu biết hiện thời của mình là chưa đầy đủ [2].
2.3.2. Đóng góp của L. Vygotsky
Để giải quyết sự mất cân bằng trong lí thuyết của J. Piaget, nhà bác học Nga L. Vygotsky đưa ra cách giải quyết sự mâu thuẫn giữa kinh nghiệm học và sự tiếp thu, phát triển tri thức mới bằng xử lí mối quan hệ giữa trình độ tri thức hiện tại với vùng phát triển vùng gần nhất.
L. Vygotsky là người có những đóng góp mới cho tâm lí học nhận thức. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng, Vygotsky đã nghiên cứu tâm lí học phát triển với cách tiếp cận đa hướng mang tính xây dựng, tạo tác tri thức như là kết quả hoạt động nhận thức và tư duy. Cái nổi bật của Vygotsky là phát hiện và quan tâm đặc biệt đến vùng phát triển gần nhất. Khái niệm khoa học này chứa rất nhiều dự cảm mới mẻ về dạy học đi trước sự phá triển nhưng vẫn chừng mực về khối lượng tri thức và mức độ khoa học, HS có thể “tiêu hóa” mà vẫn không lạc hậu lỗi thời và vô dụng [dẫn theo 3].
Có nhiều cách hiểu và giải thích về vùng phát triển gần nhất. X.Rogiers trong công trình “Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường” quan niệm là phù hợp nhất. Tác dụng của “vùng phát triển gần nhất” là tạo ra sự phát triển liên tục giữa cấu trúc nhận thức bên trong HS và những thông tin bên ngoài. Đó là cách hội nhập của họ với môi trường văn hóa xã hội để nắm vững tri thức có ích từ môi trường đó [4].
Kế thừa những thành tựu phát triển trí tuệ thông qua hoạt động nhận thức và tư duy theo hai nguyên lí được bổ sung cho nhau của J. Piaget và của L.Vygotsky, các nhà nghiên cứu khác như Glasserfeld và Ernest đã chia thuyết kiến tạo thành hai dạng thức: Kiến tạo cơ bản (Radical constructivism) và kiến tạo xã hội (Social constructivism).
2.4. Những luận điểm của Thuyết kiến tạo
Từ nghiên cứu tài liệu, tác giả cho rằng có thể chỉ ra một số luận điểm cơ bản sau của Thuyết kiến tạo:
2.4.1. Luận điểm 1
Chủ thể nhận thức để kiến tạo “tri thức mới” là hoạt động học tập tích cực, sáng tạo của HS. Luận điểm này xác nhận vai trò chủ thể trong quá trình học tập phù hợp với nhận thức luận mác-xít. HS tiếp thu và vận dụng kiến thức mới theo cách làm chứ không dựa vào việc dạy quy tắc để làm và thực hành lí thuyết. Đương nhiên, không thể không quan tâm đến việc dạy theo lối chứng minh lí thuyết khái niệm, nhưng chính tư duy sáng tạo bằng ý tưởng do HS thực hiện mới là quan trọng.
2.4.2. Luận điểm 2
Quá trình nhận thức theo Thuyết kiến tạo là quá trình thích nghi bằng đồng hóa và tổ chức lại bằng điều phối trên cơ sở những gì đã nhận thức từ trước. Luận điểm này góp phần trả lời cho câu hỏi nhận thức là gì. Đó là quá trình khuyến khích HS vận dụng tri thức, kĩ năng chắc chắn để thích nghi với những đòi hỏi của tình huống mới có liên quan đến việc tìm ra tri thức.
2.4.3. Luận điểm 3
Quá trình học theo Thuyết kiến tạo là học trong xã hội mang tính trao đổi trí tuệ của cộng đồng tiếp thu tri thức của các thành viên. Luận điểm này chỉ rõ người học cần hòa mình vào các hoạt động trí tuệ của cộng đồng xã hội. Vì thế người học theo thuyết kiến tạo không những cần khám phá tri thức mà còn biết giải thích trao đổi, giao ước, kết nối và đánh giá tri thức xã hội cung cấp. Luận điểm này rất đáng chú ý vì là cơ sở để hình thành dạy học đối thoại giữa các cá nhân có kiến thức và cách vận dụng kiến thức khác nhau cùng đi tìm chân lí. Chính điều này làm nên động lực bên trong thúc đẩy quá trình học tập.
2.4.4. Luận điểm 4
Tri thức nền và tri thức mới của cá nhân theo thuyết kiến tạo có được từ sự điều chỉnh quan niệm về thế giới khách quan và quan niệm về cuộc sống nhân sinh để đáp ứng tốt những yêu cầu tự nhiên và xã hội. Luận điểm này đảm bảo mục tiêu giáo dục phổ thông theo thuyết kiến tạo tránh được sự quá tải nội dung học tập lí thuyết hàn lâm và cũng không cung cấp tri thức lạc hậu so với thời cuộc và xã hội để biến HS thành “thợ học” mà vô dụng, chẳng biết để làm gì.
2.4.5. Luận điểm 5
Học tri thức mới theo thuyết kiến tạo cũng là một quy trình phá huy và vận dụng tư duy sáng tạo để kiếm tìm tri thức mới. Luận điểm này khác về chất so với kiểu học tiếp thu thụ động trong dạy học truyền thống ở chỗ nó khích lệ sự sáng tạo, không ngừng học tập.
3. Kết luận
Thuyết kiến tạo góp phần làm thay đổi mục tiêu quá trình giáo dục – từ giáo dục cho tất cả mọi người sang mục tiêu lớn hơn là sự nghiệp giáo dục được tạo ra bởi tất cả mọi người. Đó là xã hội hóa giáo dục, học lẫn nhau, dạy lẫn nhau nhằm phát huy tiềm năng tri thức xã hội và tri thức cá nhân một cách tổng lực để có một xã hội văn minh, văn hóa, thực hiện mục đích tự giáo dục bằng học tập suốt đời.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Hoàng Phê (2019). Từ điển tiếng Việt. NXB Hồng Đức.
[2] Jean Piaget (2001). Tâm lí học và Giáo dục học. NXB Giáo dục.
[3] Lê Nguyên Long (2000). Thử đi tìm những phương pháp dạy học hiệu quả. NXB Giáo dục.
[4] Xavier Roegiers (1996). Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường. NXB Giáo dục.
[5] Phan Trọng Ngọ (2005). Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường. NXB Đại học Sư phạm.
[6] Remo Bodei (2011). Triết học thế kỉ XX. NXB Thời đại.
[7] Lê Thị Lệ Hà – Lưu Thanh Tú – Nguyễn Thị Lan Anh (2016). Tiếp cận lí thuyết kiến tạo trọng dạy học. Tạp chí Giáo dục, số đặc biệt tháng 5, tr117-119.
[8] Trần Văn Đạt (2015). Lí thuyết học tập mang tính xã hội và lí thuyết kiến tạo – Nền tảng của phương pháp học hợp tác. Tạp chí Giáo dục, số 355, tr 16-18.
Nguồn: Tạp chí Giáo dục, Số 474 (Kì 2 – 3/2020), tr 27-29
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Một số nghiên cứu về vấn đề dạy học theo quan điểm kiến tạo (Tác giả: Hoàng Bách Việt) |