Một số nhân vật tiêu biểu Thanh Hoá triều Nguyễn

Tác giả bài viết: CAO XUÂN THƯỞNG*
PHẠM KIM QUY
(*Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hoá)

     Từ khi Nguyễn Hoàng, vị chúa khai sáng của triều Nguyễn vào trấn thủ Thuận Hoá (giữa thế kỷ XVI) cho đến nửa đầu thế kỷ XX, dòng họ Nguyễn ở Gia Miêu (Tống Sơn, Thanh Hoá) đã trở thành một trong những thế lực có ảnh hưởng lớn nhất trên vũ đài chính trị nước ta trong suốt gần 4 thế kỷ. Sau một thời kỳ gây dựng và củng cố chính quyền Đàng Trong, vương triều nhà Nguyễn đã được thiết lập vào năm 1802 và kết thúc năm 1945. Trong khoảng thời gian gần trọn một thế kỷ (1802 – cuối thế kỷ XIX), nhiều người con ưu tú của Thanh Hoá – vùng đất quê hương nhà Nguyễn đã trở thành những danh nhân nổi tiếng trên khắp các lĩnh vực chính trị, quân sự, văn hoá, giáo dục … Có người tuy chỉ đỗ đạt thấp nhưng lại là những nhà văn hoá lớn với nhiều trước tác có giá trị hoặc trở thành đại thần có đóng góp lớn vào việc xây dựng vương triều Nguyễn. Có người đỗ đạt cao, là quan văn trong triều nhưng khi đất nước bị kẻ thù xâm lược đã trở thành những nhà chỉ huy quân sự nổi tiếng, là lãnh tụ của các phong trào khởi nghĩa chống ngoại bang. Sau đây chúng tôi xin giới thiệu khái quát một số nhân vật tiêu biểu trong số hàng trăm người con ưu tú của xứ Thanh:

     Đào Duy Từ (1572 – 1634):

     Quê ở làng Hoa Trai thuộc xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia. Xuất thân trong gia đình có truyền thống ca hát nên Đào Duy Từ không được tham dự các kỳ thi do triều Lê tổ chức ước mơ thực hiện chí hướng trên con đường khoa cử của ông tan vỡ. Năm 1613 Đào Duy Từ quyết định bí mật vào Nam hy vọng tìm được minh chủ. Ông dừng chân ở Vũ Xương (Thừa Thiên) sau vào Tòng Châu (Hoài Nhơn) xin làm thuê, chăn trâu, dạy học. Ông được Khám Lý Trần Đức Hoà, người này là “nghĩa đệ” của chúa Nguyễn rất khâm phục. Năm 1627 Đức Hoà dâng lên chúa bài “Ngoạ long cương vãn” của Đào Duy Từ. Chúa xem xong thấy lạ, truyền mời Đào Duy Từ tới trao ngay chức Nha uý nội tán tước Lộc khê hầu, trông coi việc quân cơ trong ngoài. Ông sớm trở thành một nhà quân sự nổi tiếng giúp chúa Nguyễn đề xuất nhiều chính sách lớn quyết định vận mệnh chính quyền Đàng Trong lúc bấy giờ.

     Về quân sự: Ngoài tác phẩm “Hổ trướng khu cơ” mang tính lý luận và thực hành quân sự. Ông còn giúp chúa vạch ra nhiều kế sách quan trọng đối phó với Đàng Ngoài như: Lập “kế hoãn binh” với Trịnh bằng cách tạm thời “nhận sắc phong” để tăng cường bố phòng và củng cố lực lượng (1629), lập “kế vạn toàn” cho đắp luỹ Trường Dục (1630), hiến kế đắp “luỹ Đồng Hới”. Đề ra phương pháp tổ chức xây dựng lực lượng quân đội, chế tạo vũ khí, chiến cụ quân sự. Những mưu lược của ông đã giúp chúa Nguyễn chặn đứng các cuộc tấn công của quân Trịnh giảm đi ngọn lửa chiến tranh đem lại sự ổn định cho hai xứ Đàng Trong và Đàng Ngoài.

     Về kinh tế: Ông giúp chúa Nguyễn định giá các đặc sản (hồ tiêu, kỳ nam, yến sào…”. Lập kế hoạch di dân, khai khẩn các miền đất mới, phân loại dân để đánh thuế, bớt sưu, giảm thuế, khuyến nông …

     Về văn hoá giáo dục: Khuyến khích việc học, tích cực tuyển dụng nhân tài, thông qua tổ chức thi cử và tiến cử. Truyền dạy môn nghệ thuật hát tuồng và hát cung đình, dựng vở tuồng “Sơn Hậu” nổi tiếng. Ông là người mở đầu cho nền văn học Đàng Trong với các tác
phẩm “Tư Dung vãn” “Ngoạ Long Cương vãn” …

     Sau khi ông mất chúa Nguyễn Phúc Nguyên truy tặng ông là “Hiệp niên đồng đức công thần, đặc tôn kim tử Vinh Lộc Đại Phu”.

     Hiện nay có 3 nơi thờ ông và dòng tộc:

     – Đền thờ lớn tại thôn Cự Tài (xã Hoà Hảo, huyện Hoà Nhơn, tỉnh Bình Đình).

     – Đền thờ tại Tùng Châu (nay là thôn Ngọc Sơn, xã Hoài Thắng, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định).

     – Đền thờ ông ở quê nhà làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn (nay là xã Nguyên Binh, huyện Tĩnh Gia).

     Nguyễn Hữu Dật (1604-1681) :

     Người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung) cha là tham tán Nguyễn Triều Văn theo Nguyễn Hoàng vào trấn thủ vùng đất Thuận – Quảng.

     Năm 16 tuổi (1619) Hữu Dật được chúa Nguyễn Phúc Nguyên cho làm văn chức. Ông nổi tiếng về văn thơ và tài hùng biện, tài thao lược được người đời ví với “Khổng Minh” “Bá Ôn”. Đặc biệt ông là một võ tướng nổi tiếng có nhiều mưu kế, cầm quân giúp chúa Nguyễn đánh tan nhiều đợt tấn công của quân Trịnh vào các năm 1627, 1648, 1655, 1657, 1660, 1672. Hữu Dật là người chỉ đạo quân sĩ xây dựng luỹ Trường Sa, luỹ Trấn Ninh, kho Trường Dục, cùng với Đào Duy Từ chỉ đạo xây dựng luỹ Nhật Lệ tại các điểm hiểm yếu nhằm cản bước tiến của quân Trịnh. Ông còn là người đề xuất đắp đài hoả hiệu ở các cửa biển Quảng Bình để báo tin biên giới cho nhanh. Ngoài ra ông còn chỉ đạo xây dựng chùa Cảnh tiên được chúa Nguyễn ban biểu ngạch “Sắc trí cảnh tiên tự” và là tác giả truyện Hoa vân cáo thị.

     Sau khi ông mất chúa Nguyễn truy tặng là Tán Trị Tinh Nan Công Thần Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng quân Cẩm y vệ Tả quân Đô Đốc phủ Chưởng phủ sự chiêu quận công. Ban tên thuỵ là Cần Tiết.

     Nhân dân Quảng Bình ghi nhớ công lao lập đền thờ ông tại Thạch Xá (gọi ông là Bồ Tát).

     Nguyễn Hữu Cảnh (1650 – 1700) :

     Quê làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn (nay là xã Hà Long – huyện Hà Trung) là con thứ Tĩnh Quốc công Nguyễn Hữu Dật. Xuất thân trong gia đình võ tướng Nguyễn Hữu Cảnh sớm theo cha tham gia nhiều trận đánh giúp chúa Nguyễn chống lại họ Trịnh. Ông được giữ chức cai cơ. Từ năm 1692 – 1700 Nguyễn Hữu Cảnh là người có nhiều công lao giúp Nguyễn Phúc Chu đánh dẹp quân Trà Bàn, quân A Ban, quận Nặc Thu (vương quốc Chân Lạp) giúp Chúa ổn định và mở rộng vùng đất phương Nam. Làm thống xuất đi kinh lược đất Chân Lạp (nay là Đồng Nai) chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh trấn Biên (nay là Biên Hoà), lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh phiên trấn, mỗi dinh đều đặt các chức quan. Ông còn chiêu mộ những dân phiêu bạt từ Bố Chính trở vào đến ở cho đông đúc, thiết lập cơ quan hành chính cấp xã, thôn, phường, ấp, phân chia địa giới, làm sổ đinh, sổ điền, khai khẩn ruộng đất, định thuế tô dung … cho người Thanh (đã là thần dân nước Đại Việt) đến buôn bán ở trấn Biên, lập Thanh Hoà xã, ở phiên trấn lập Minh Hương xã. Năm 1700 sau khi dẹp xong Nặc Thu ông dẫn quân về đến Sầm Khê, tỉnh Định Tường (nay là tỉnh Kiên Giang) ông ốm nặng rồi qua đời. Chúa Nguyễn Phúc Chu truy tặng ông là Hiệp Tán Công thần Đặc tiến Chưởng Dinh, ban tên thuỵ là Trung Cần rồi cho vàng lụa để hậu táng. Năm Gia Long thứ 9 (1810) đưa vào ở miếu Khai Quốc công thần. Năm Minh Mạng thứ 12 được truy tặng là Khai Quốc công thần Tráng vũ Tướng quân, thần cơ doanh Đô Thống, đổi tên thuỵ là Tráng Hoàn, phong là Vĩnh An Hầu.

     Ông được nhân dân các tỉnh Quảng Bình, Đồng Nai, Biên Hoà, An Giang, Thành phố Hồ Chí Minh lập đền thờ.

     Nguyễn Hữu Hào (1646 – 1713) :

      Quê làng Gia Miêu huyện Tống Sơn (nay là xã Hà Long, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá) ngụ cư ở Quảng Bình. Cha là Tĩnh quốc Công Nguyễn Hữu Dật. Xuất thân trong một gia đình võ tướng Hữu Hào thấu hiểu việc binh rất sớm. Sau nhiều năm theo cha đi đánh trận, lập được thành tích chúa Nguyễn cho tập tước Hào Lương Hầu vào năm 1672. Đến năm 1689 được bổ dụng giữ chức cai cơ coi trấn cựu Dinh tại Ái Tử (Quảng Trị). Năm Kỷ Tỵ (1689) chúa Nguyễn cử Hữu Hào đi đánh Nặc Thu ở Chân Lạp nhưng ông không dùng quân sự mà chỉ dùng mưu kế và ngoại giao “không mất một mũi tên mà Chân Lạp tự quy phục”.

     Năm 1689 chúa Minh lên nối nghiệp thăng cho ông chức Chưởng Cơ, năm Giáp Thân (1704) giao cho ông giữ chức trấn thủ Quảng Bình, đóng tại dinh Võ Xá. Trong 11 năm làm quan trấn thủ, ông thường xuyên chăm lo quân sĩ, vỗ về trăm họ, quân dân rất nể vì. Đặc biệt ông là người sùng bái hiểu đạo thánh hiền, ông sáng tác tác phẩm “Song tinh bất dạ” chứa đựng sự giáo huấn về đạo lý cương thường và là một thiên tình sử thuỷ chung vẹn nghĩa. Khi ông mất chúa Nguyễn thương tiếc truy tặng là Đôn hậu Công thần, ban tên thuỵ là Nhu Từ.

     Nguyễn Hữu Tiến (1602 – 1666) :

      Người xã Văn Trai huyện Ngọc Sơn (nay là xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia). Sau gia đình di cư vào huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Tháng 8 năm Tân Mùi (1631) chúa Nguyễn cử Đào Duy Từ đi tìm hiền tài. Đào Duy Từ gặp Hữu Tiến rất mừng tiến cử lên chúa Nguyễn. Chúa giao cho chức đội trưởng đốc suất thuyền vào ban đêm, sau đó thăng làm cai đội, cai cơ rồi chưởng cơ. Hữu Tiến nhiều lần cầm quân giúp chúa Nguyễn đánh bại nhiều cuộc tấn công của quân Trịnh. Vào các năm 1648, 1655, 1656, 1658, 1660, 1662, 1664. Ông được coi là một trong những bậc Khai quốc công thần của nhà Nguyễn.

     Năm Bính Ngọ (1666) Hữu Tiến ốm nặng rồi mất chúa Nguyễn tặng phong hàm Hiệp Mưu tá Lý công thần, đặc tiến tả quân Đô Đốc phủ chương sự, Tiết chế, Thuận quận công lại ban cho gấm lụa tiền bạc cho an táng theo lễ tước công. Đền thờ ông ở ấp Tràng Tiệp huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Đến đời Gia Long được đưa vào thờ ở Thái.

     Hà Duy Phiên (1791 – 1853) :

     Người làng Thượng Bột (nay là làng Hoàng Bột xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hoá). Đây là vùng quê có truyền thống học hành khoa bảng. Ông xuất thân trong gia đình quan chức nhỏ. Năm Kỷ Mão (1819) Hà Duy Phiên thi đỗ Hương Cống được bổ nhiệm làm quan tại các trấn gần 10 năm. Năm 1828 Hà Duy Phiên được triệu vào kinh. Ông là người mẫn cán siêng năng điều hành công việc giỏi nên đảm nhận nhiều trọng trách lớn trong triều đình. Ông giúp vua củng cố công việc Nội Các và ở Viện Đô sát cùng với 3 người nữa Toản Tu Bộ Thực Lục Tiền Biên (từ lúc quốc triều mới gây dựng đến năm Tân Dậu (1801). Và Đại Nam Hội Điển (Tổng Vựng). Giúp vua dẹp loạn ở Thanh Hoá, làm khâm sai đại thần ở hai huyện Yên Hoà và Lạc Thổ (Ninh Bình) mới đặt lưu quan, chiêu dụ và vỗ về người Man. Ông giúp vua sửa cung Cán Thành, điện Trung Hoà, xây dựng ngôi cát địa Vạn Sơn, trông coi các sở hành cung ở Thừa Thiên và Quảng Trị. Hà Duy Thiên còn làm độc quyển cho hai kỳ thi Hội 1832, 1933. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) Hà Duy Phiên được cử đi đánh dẹp quân khởi loạn ở Hồi Xuân, Thanh Hoá lập được nhiều thành tích, bắt được Lê Duy Hiển và đồng bọn, được vua ban thưởng Bài Ngọc trắng có chữ “cát tường” và gia thăng Quận công gồm 4 cấp. Khi về triều được xung chức Thượng thư Bộ công, kiêm quản tài chính. Thời vua Thiệu trị năm thứ nhất 1841 Hà Duy Phiên tiếp tục được giao nhiều chức vụ trọng yếu như: Gia hàm Hiệp biện Đại Học sĩ , rồi Thượng Thư Bộ Hộ, tổng lý việc xây dựng Sơn Lăng. Được xung chức Cơ mật Viện Đại Thần. Năm Nhâm Dần (1842) ông được thăng Hiệp Biện Học sĩ, kiêm sung phó Tổng Tài Quốc sử quán, sau sung tổng vựng bộ Đại Nam Hội Điển. Đời vua Tự Đức thứ 5 (1852) ông được khen là “bề tôi tài giỏi có khí tiết”, được tham gia hàm Thái tử, Thiếu bảo, giữ chức Thượng thư Bộ Hộ, xung lại cơ mật Viện.

      Khi mất được vua tặng hàm Thái Bảo, Văn Minh Điện Đại học sĩ, ban tên thuỵ là Văn Thận, rồi sai quan đến cúng tế theo điển phép Nhà nước. Về sau ông được đưa vào thờ ở đền Hiền Lương.

     Nguyễn Viên (1752 – 1804):

     Ông quê làng Bột Thượng, xã Hoằng Lộc (Hoằng Hoá). Là cháu nội của Nguyễn Quỳnh. Nguyễn Viên đậu Hương cống đời Lê. Ba khoa thi hội sau đó 1780, 1784, 1787 ông đều đỗ Tam Trường. Dù chỉ đậu cử nhân song ông là người có học vấn uyên bác, tâm tàng kinh sử, phúc ẩn kinh luân. Sau khi nhà Lê mất ông định vào Nam theo Nguyễn Ánh nhưng bị chặn đường. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi, liền cử cận thần là Trương Trọng Vĩ ra Bắc để chiêu dụng hào kiệt. Nguyễn Viên liền vào Huế yết kiến vua Gia Long, ông là người học rộng có tài văn võ đã giúp Gia Long ổn định nội trị trong những năm đầu mới lên ngôi. Ông còn giúp nhà vua soạn Quốc Triều Luật Lệ và xét rõ tôn thất phả hệ xa gần. Vì vậy ông được trao chức Cần Chánh điện học sĩ kiêm Thái thường Tự khanh, hàm Tòng Nhị Phẩm tước Viên Ngọc hầu. Mùa thu năm 1804 ông theo Gia Long ngự giá Bắc tuần, vua xuống chiếu cho dân có oan khuất thì đến nơi hành tại làm đơn trấn trình tâu lên. Ông được vua giao thu nhận những đơn ấy và tâu cách xử đoán. Ông mất tại Phú Xuân được tặng phong Thanh Tiết công thần Bình Trị Khanh, phụng huấn Đại phu tước châu phong hầu.

     Phạm Thanh (1821 – 1863) :

     Người làng Trương Xá, Tổng Đăng Trường (nay là xã Hoà Lộc, huyện Hậu Lộc). Ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình khoa bảng. Phạm Thanh là học trò của thầy Nhữ Bá Sĩ. Năm Tân Hợi (1851) ông đỗ đầu kỳ thi Đình tại Huế nhận danh vị Bảng Nhãn. Sau đó ông được mời vào kinh bổ nhiệm chức Thừa chỉ rồi tham tri Bộ hộ, Phạm Thanh làm quan trong bối cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn thử thách, tâm trạng ông luôn trăn trở, day dứt suy nghĩ về vận mệnh đất nước. Ông làm nhiều thơ văn bày tỏ tình cảm của mình trước thời cuộc, dành tình cảm sâu sức cho gia đình, quê hương bạn bè, tiêu biểu như tác phẩm “Phạm Nghị Trai Thi Tập” “Nghĩa Phụ Hiếu Tử Thuận Tôn Cập nữ Thực lục” “Đạm trai thi khoá”. Ngày 21 tháng ba năm Quý Hợi (1863) Phạm Thanh được vua Tự Đức giao làm phụ tế đàn Nam Giao ở kinh đô Huế, lễ xong ông về đến nhà thì mất, thi hài được quàn tại Huế sau đó triều đình đưa về quê hương mai táng.

     Nhữ Bá Sĩ (1788-1867) :

     Quê ở làng Cát Xuyên (xã Hoằng Cát, huyện Hoằng Hoá). Ông từng làm Lang trung Bộ Hình, Huấn đạo, Tri phủ rồi Đốc học Thanh Hoá. Sau đó ông về quê mở trường Nghi Am để dạy học và viết sách. Là một thầy giáo giỏi, học thức uyên thâm, ông đã đào tạo được nhiều học trò đỗ đạt thành danh như Phạm Thanh, Đỗ Xuân Cát, Hoàng Vỹ v.v… Ông được coi như là một học giả đa năng, xuất sắc cả về văn chương, sử học, địa lý, giáo dục. Tương truyền ông là tác giả của 17 tập sách về nhiều lĩnh vực, trong đó có Thanh Hoá tỉnh chí, Đại học đồ thuyết, Nghi Am biệt lục, Việt sử tam bách vịnh. Khi thực dân Pháp xâm lược, mặc dù tuổi cao sức yếu, ông đã dâng sớ đề nghị việc tổ chức kháng chiến đánh Pháp với ý chí không khoan nhượng.

     Mai Anh Tuấn

     Ông người xã Thạch Giản (nay thuộc xã Nga Thạch, huyện Nga Sơn), đỗ Thám hoa khoa thi năm Quý Mão (1843) và sau đó được bổ làm quan trong triều. Không chỉ là người học rộng, biết nhiều, ông còn nổi tiếng là người trung thực và ngay thẳng. Trong một lần dâng sớ can ngăn nhà vua (về việc đối xử với tàu buôn ngoại quốc), ông bị Tự Đức đưa đi làm án sát ở Lạng Sơn. Khi trấn tự ở đây, ông rất kiên quyết trong việc trấn áp giặc nhà Thanh và bọn thổ phỉ khi chúng quấy nhiễu vùng biên cương. Ông hy sinh lúc còn rất trẻ khi đang làm nhiệm vụ.

     Trần Xuân Soạn (1849-1923) :

     Ông quê làng Thọ Hạc, xã Đông Thọ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hoá). Từ nhỏ ông theo học nghề võ và đến năm 18 tuổi trở thành một võ sĩ nổi tiếng. Ông sớm được triều đình trọng dụng thăng chức đến lãnh binh nhờ có công lớn trong nhiều lần tiễu phỉ. Năm 1885 ông được phe kháng chiến trong triều đình phong chức Tả quân đô thống, Đề đốc kinh thành Huế giúp Tôn Thất Thuyết lo việc chống Pháp. Ông là một trong những người chỉ huy trận tổ chức đánh úp quân Pháp tại đồn Mang Cá đêm 4 rạng 5/7/1885 và đưa vua Hàm Nghi xuất bôn ra Quảng Bình. Sau đó ông được giao chỉ đạo phong trào Cần Vương tỉnh Thanh Hoá, là người trực tiếp tổ chức lực lượng kháng chiến trong tỉnh. Ông còn trực tiếp chỉ huy một đội nghĩa quân đóng ở phủ Quảng Hoá, phối hợp với các đội nghĩa quân khác đánh địch ở vùng Quảng Hoá và ngoại vi Ba Đình (Nga Sơn), Nhân Kỷ (Bá Thước). Sau đó ông sang Trung Quốc và mất ở đó.

     Tống Duy Tân (1837-1892):

     Ông người làng Bồng Trung (xã Vĩnh Tân, huyện Vĩnh Lộc). Đỗ tiến sĩ năm 1875, ông ra làm quan rồi lại từ quan về nhà dạy học. Năm 1879, Tôn Thất Thuyết bổ dụng ông làm Đốc học Thanh Hoá, rồi Chánh sứ sơn phòng Quảng Hoá. Khi có chiếu Cần Vương, ông đã xây dựng căn cứ Bồng Trung – Đa Bút trở thành một trong những trung tâm của phong trào khởi nghĩa ở Thanh Hoá. Tại đây ông đã chỉ huy nghĩa quân tổ chức những trận đánh lớn khi giặc Pháp kéo tới đàn áp. Sau khi Ba Đình thất thủ, ông tạm lánh ra Bắc. Trong các năm 1889-1890 ông và Cao Điển đã chỉ huy nghĩa quân tổ chức nhiều trận đánh địch tại khắp vùng đồng bằng và trung du Thanh Hoá từ Triệu Sơn, Nông Cống đến Thọ Xuân, Vĩnh Lộc. Năm 1892 ông phối hợp cùng nghĩa quân Đốc Ngữ đánh địch tại vùng Mường Kỷ (Bá Thước). Ông bị giặc Pháp bắt và sau đó đưa ra chém ngày 15/10/1892.

     Cao Điển (1853-1896): 

     Ông người làng Trinh Sơn (xã Hoằng Giang, huyện Hoằng Hoá). Sau khi đi lính 2 năm, ông đỗ cử nhân võ rồi sau đó giữ chức suất đội vệ Vũ Lâm. Ông tham gia cuộc tấn công đồn binh Pháp tại Huế (7/1885) và hộ tống vua Hàm Nghi xuất bôn ra các tỉnh Bắc Trung Kỳ. Khi có chiếu Cần Vương, ông đã thành lập đội nghĩa quân ngay tại quê nhà. Sau khi cùng với các đội nghĩa quân trong tỉnh đánh úp tỉnh lỵ Thanh Hoá đêm 11/3/1886, ông đem toàn bộ lực lượng lên Bồng Trung gia nhập nghĩa quân của Tống Duy Tân. Từ đó ông cùng với Tống Duy Tân đã lãnh đạo nghĩa quân Hùng Lĩnh chiến đấu chống Pháp trong gần 7 năm. Là một nhà chỉ huy quân sự tài giỏi, mưu trí, ông đã tổ chức nhiều trận phục kích, tập kích nổi tiếng ở Văn Đồn, Vạn Lại, Yên Lược v.v… làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, giáng một đòn nặng nề vào kế hoạch bình định của chúng. Từ năm 1890, ông hoạt động tại vùng rừng núi Thường Xuân, sau đó lui về vùng Nhân Kỷ (Bá Thước). Khi Tống Duy Tân bị bắt (năm 1892) ông lánh ra Bắc, tham gia phong trào khởi nghĩa Yên Thế của Hoàng Hoa Thám. Tháng 1/1896 ông bị địch bắt tại Bắc Giang, sau đó chúng kết án tử hình và đưa ông ra chém tại tỉnh lỵ Thanh Hoá.

     Phạm Bành (1830-1887) :

     Ông sinh tại làng Trương Xá (nay là xã Hoà Lộc, huyện Hậu Lộc) trong một gia đình có truyền thống khoa bảng (bố đỗ cử nhân, anh trai là Phạm Thanh đỗ đầu khoa thi Hội năm 1851). Ông đỗ cử nhân năm 1867, được bổ làm Đốc học rồi án sát tỉnh Nghệ An. Trong thời gian làm quan, ông là người nổi tiếng thanh liêm, luôn quan tâm đến đời sống nhân dân. Năm 1885 ông bỏ quan về quê cùng người bạn “cọc chèo” là Hoàng Bật Đạt mộ quân khởi nghĩa. Khi xây dựng căn cứ Ba Đình, ông được phong chức Tán lý quân vụ và là người lãnh đạo cao nhất của nghĩa quân Ba Đình. Trong những cuộc chiến đấu tại Ba Đình, ông cùng với những người lãnh đạo ở đây đã mưu trí, gan dạ chỉ huy nghĩa quân đánh lui nhiều đợt tiến công của giặc Pháp có ưu thế hơn hẳn về lực lượng và vũ khí. Khi nghĩa quân rút khỏi Ba Đình, ông chỉ huy một cách quân rút về Hậu Lộc. Giặc bắt mẹ và con trai ông để buộc ông ra hàng. Ông giả vờ ra đầu thú để mẹ và con được tha. Ngày 11/4/1887 ông đã tự sát để tỏ rõ ý chí bất khuất của mình.

     Hoàng Bật Đạt (1842-1887) :

     Ông quê làng Bộ Đầu, xã Thuần Lộc, huyện Hậu Lộc. Năm 1861 ông đỗ cử nhân, làm Giáo thụ huyện Phong Doanh (Ninh Bình) rồi Tri huyện Lang Tài (Bắc Ninh). Khi Pháp đánh Bắc Kỳ ông bỏ quan về Hậu Lộc cùng Phạm Bành chiêu mộ lực lượng chống Pháp. Đêm 24/5/1886 ông đem quân phối hợp cùng nghĩa quân Hoằng Hoá tấn công huyện lỵ Bút Sơn. Ông cũng là một trong những người chỉ huy tối cao trong nghĩa quân Ba Đình từ những ngày đầu xây dựng căn cứ. Với trọng trách là Tán tương quân vụ, ông được phân công trực tiếp phụ trách đồn Hạ (Mỹ Khê). Tại đây ông đã chỉ huy nghĩa quân anh dũng chiến đấu đánh lui nhiều trận tấn công của giặc Pháp, gây cho chúng nhiều thương vong. Khi nghĩa quân rút khỏi Ba Đình, ông cùng Phạm Bành cầm đầu một cánh quân rút về Hậu Lộc để bảo tồn lực lượng. Khi đang trên đường sang Trung Quốc để tìm cách gây dựng lại phong trào, ông bị giặc bắt và bị đưa về giam ở nhà lao Thanh Hoá. Thực dân Pháp tìm cách dụ dỗ mua chuộc ông nhưng ông đã hiên ngang chửi thẳng vào lũ giặc, sau đó bị chúng đưa ra chém ngày 20/3/1887.

     Hà Văn Mao (? – 1887) :

     Ông là người dân tộc Mường ở vùng Mường Khô (Điền Lư, huyện Bá Thước). Xuất thân từ một dòng họ có thế lực, nhiều đời làm lang đạo trong vùng, tuy chỉ làm cai tổng nhưng Hà Văn Mao có uy tín lớn, qui tụ được lực lượng người Mường ở các vùng xung quanh. Nghĩa quân của ông còn liên kết với lực lượng người Hoa để chống lại triều đình bù nhìn từ rất sớm, mở rộng địa bàn hoạt động ra khắp vùng Tây Bắc Thanh Hoá và một số huyện đồng bằng. Khi thực dân Pháp đặt chân đến Thanh Hoá, ông là người tổ chức đánh địch sớm nhất bằng trận tấn công đồn Bái Thượng vào cuối năm 1885. Từ năm 1886 ông giữ chức Tán lý quân vụ phụ trách khu vực miền núi Thanh Hoá, là người phụ trách chính việc xây dựng căn cứ Mã Cao. Với cách đánh tài giỏi, mưu trí, khi dùng mưu lừa địch, lúc phục kích, khi bất ngờ tiến công, nghĩa quân Hà Văn Mao đã đánh thắng địch trong nhiều trận. Đầu năm 1887 sau khi rút khỏi Mã Cao trở về Điền Lư, trong khi lực lượng bị hao tổn lớn nhưng ông không hề dao động mà vẫn quyết tâm đánh giặc đến cùng. Ông đã giải tán lực lượng rồi dùng súng để tự sát, quyết không để giặc bắt.

     Cầm Bá Thước (1859-1895) :

     Ông sinh tại chòm Lùm Nưa, tổng Trịnh Vạn, châu Thường Xuân trong một gia đình người Thái nhiều đời làm lang đạo ở Thường Xuân. Năm 1883 ông được triều Nguyễn cử làm Bang biện quân vụ hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Khi Pháp đánh chiếm Thanh Hoá, ông đã tập hợp lực lượng, xây dựng căn cứ khởi nghĩa Trịnh Vạn trên quê hương mình và một loạt các đồn luỹ khác để chuẩn bị chống Pháp. Sau một thời gian phải tạm trá hàng để củng cố lực lượng, ông đã mở đầu cho cuộc chiến đấu với giặc Pháp bằng trận tấn công tại Hón Đồn vào tháng 2/1894. Trong suốt 2 năm 1894-1895 ông đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu nhiều trận tại Cửa Đặt, Trịnh Vạn, Cọc Chẽ, Hón Bòng… gây cho địch nhiều thương vong. Nhưng trong hoàn cảnh địch đã dập tắt các cuộc khởi nghĩa trong tỉnh và đã bình định xong trong vùng đồng bằng, chúng tập trung lực lượng nhằm đè bẹp cuộc khởi nghĩa cuối cùng của phong trào Cần Vương ở Thanh Hoá. Tháng 5/1895 sau những trận chiến đấu cuối cùng tại căn cứ Hón Bòng, Cầm Bá Thước đã bị giặc bắt và sau đó đã bị xử tử. Sự hy sinh của ông cũng là sự kết thúc của phong trào Cần Vương ở Thanh Hoá.

     Nguyễn Phương (1832-1887) :

     Quê ông ở thôn Yên Minh, xã Trường Sơn, huyện Nông Cống. Khi phong trào Cần Vương nổ ra, ông được phong chức Tán tương quân vụ và được giao chỉ đạo kháng chiến ở khu vực Tĩnh Gia, Nông Cống và một phần Quảng Xương. Nghĩa quân xây dựng căn cứ Hương Trì và đẩy mạnh hoạt động ở vùng đông nam Nông Cống và Tĩnh Gia. Năm 1886, nghĩa quân xây dựng căn cứ ổn Lâm – Kỳ Thượng, tiến đánh đồn Mưng, đốt phá huyện lỵ Nông Cống và tổ chức một số trận tập kích, phục kích ở nhiều nơi khác. Đêm 11/3/1886 Nguyễn Phương chỉ huy một đội quân cảm tử cùng phối hợp với lực lượng Cần Vương trong tỉnh tấn công tỉnh lỵ Thanh Hoá. Sau khi Ba Đình thất thủ ông đã chỉ huy nghĩa quân chiến đấu tại căn cứ Ổn Lâm – Kỳ Thượng. Bị giặc bắt ông đã tự sát để bảo toàn khí tiết.

      Ngoài những nhân vật đã giới thiệu ở trên, còn rất nhiều những nhân vật khác là người ở Thanh Hoá đã có cống hiến cho quê hương, đất nước mà chúng tôi chưa có dịp trình bày ở đây. Nổi bật dưới thời các chúa Nguyễn có thể kể đến Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Dật, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Hữu Cảnh, Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Hữu Kính, Trương Phúc Phấn, Nguyễn Viên v.v… Thế kỷ XIX còn có Ngô Cao Lãng, Nguyễn Huy Khởi, Đỗ Xuân Cát, Lê Văn Điếm, Lê Khắc Tháo, Nguyễn Đôn Tiết v.v…Có thể khẳng định rằng ở bất cứ thời kỳ nào trong quá trình gây dựng và củng cố vương triều Nguyễn cũng như hưởng ứng phong trào Cần Vương chống Pháp xâm lược, nhiều người con của quê hương Thanh Hoá đã đem hết tài năng cống hiến cho đất nước, có đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dù thành phần xuất thân khác nhau, địa vị lớn nhỏ không giống nhau nhưng ở hầu hết mọi lĩnh vực những người con của xứ Thanh đều có những đóng góp xuất sắc. Trong bộ sách lớn Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, chỉ riêng phần “Chính biên” (ghi chép về các nhân vật dưới thời các vua Nguyễn) đã có 70 nhân vật là người Thanh Hoá (ở đây chưa nói đến các lãnh tụ của phong trào Cần Vương chống Pháp cuối thế kỷ XIX). Trong số nhân vật là người Thanh Hoá nói trên, nhiều người đã được tôn vinh là danh nhân của đất nước. Tài năng, đức độ và cống hiến của họ rất xứng đáng được hậu thế trân trọng ghi nhận. Tên tuổi của họ mãi mãi được lưu danh cùng quê hương, đất nước.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX,
Tại Thanh Hóa, ngày 18-19/10/2008

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Một số nhân vật tiêu biểu Thanh Hoá triều Nguyễn (Tác giả: Cao Xuân Thưởng, Phạm Kim Quy)