NAM BỘ trong buổi đầu GIAO LƯU với VĂN HOÁ PHƯƠNG TÂY qua TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH (Phần 1)

HUỲNH THỊ LAN PHƯƠNG 1
NGUYỄN VĂN NỞ 2

(1. ThS, Trường Đại học Cần Thơ
2. PGS TS, Trường Đại học Cần Thơ)

1. Mở đầu

     Nam Bộ là nơi bị Pháp chiếm trước, sớm trở thành xứ thuộc địa. Tính đến ngày người Pháp đặt chân lên xứ sở này thì Nam Bộ hãy còn là vùng đất mới. Nơi đây vốn không phải là thánh địa của Nho giáo. Các di dân khi vào Nam mở đất lập nghiệp, đã bỏ lại nơi quê xưa những ràng buộc khắt khe của phong kiến. Cuộc sống mới, trong điều kiện mới đã dần tạo cho họ tính phóng túng, tự do. Họ đến với cái mới có phần dễ dàng và thoải mái hơn người dân xứ Bắc. Họ có thể trăn trở nhưng không đến mức trằn trọc, đắn đo hay cảm giác hụt hẫng nặng nề. Họ có thể dè dặt nhưng không rơi vào sự cứng nhắc. Người Nam Bộ tiếp xúc với văn hoá phương Tây trong một trạng thái tâm lí đặc biệt và phức tạp, thậm chí có nhiều mâu thuẫn đan xen. Vừa muốn đón nhận cái mới để được đổi mới; vừa thấy xót xa, tủi nhục vì phải đến với cái mới bằng thân phận của người dân nô lệ. Tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không chỉ đậm tính hiện thực mà còn giàu giá trị văn hoá. Đi tìm những nét đẹp trong văn hoá ứng xử của người Nam Bộ ở buổi đầu tiếp xúc văn hoá phương Tây, qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, cũng là một cách tiếp nhận tác phẩm mang nhiều thú vị.

2. Nam Bộ trong buổi đầu giao lưu văn hoá với những biểu hiện tiêu cực, qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh

     2.1. Bão táp chiến tranh đã đưa Nam Bộ nhanh chóng đi vào lối sống mới – lối sống tự do tư sản. Và cũng chính những gì thuộc về văn minh, văn hoá phương Tây đã tập rèn, lôi kéo con người rời xa dần quan niệm sống cho cái ta, vì họ tộc. Một cách sống tuy có tạo thiệt thòi cho con người cá nhân nhưng ít nhiều lại góp phần níu giữ con người cá nhân khỏi tuột hẳn vào sự ích kỉ, chỉ biết cho riêng mình, chạy theo tiền tài, danh vọng và dễ rơi vào tội ác. Với ống kính vạn năng, Hồ Biểu Chánh phát hiện ảnh hưởng của văn hoá phương Tây đang phổ biến khắp thành thị miền Nam, đồng thời cũng lan toả đến tận chốn làng quê. Có biết bao điều cần quan tâm, cần duyệt xét lại, con người đang dễ dàng bị sa ngã, hư hỏng do sự “xui khiến” của “thị dục” thấp hèn. Văn hoá phương Tây như một chất xúc tác cực mạnh, thúc đẩy văn học Nam Bộ sớm đi vào con đường hiện đại hoá. Nhưng lại là một phản ứng kép. Nó đồng thời đưa đến những tác hại khôn lường cho nền phong hoá xã hội và đạo đức con người. Sách truyện lãng mạn nhảm nhí len lỏi giữa dòng chảy của văn học hiện đại tiên tiến, từ nước ngoài, công nhiên đi vào đời sống người Nam Bộ. Không ít độc giả nhẹ dạ cả tin, dễ dàng bị mê hoặc bởi loại sách độc hại ấy. Trong Cư kỉnh, cô Tuý là một thiếu nữ con nhà tử tế nhưng vì bị ảnh hưởng bởi tiểu thuyết tình ái lãng mạn, sản phẩm của nền văn hoá đương thời, đã tự huỷ hoại cuộc đời, phá vỡ tương lai. Qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, hình ảnh của xã hội ăn chơi đã hiện lên rõ nét. Không kém phố phường Hà Nội, từng được Đặng Trần Phất tái hiện trong Cành hoa điểm tuyết hay Cuộc tang thương, trên các đô thị Nam Bộ, nhất là Sài Gòn, thời hội nhập, ca quán, vũ trường, tửu điếm mọc lên san sát, phô trương vẻ lộng lẫy, hào nhoáng, lúc nào cũng sẵn lòng mời gọi, tiếp rước khách phong lưu và luôn chực chờ huỷ hoại tương lai hạnh phúc của không biết bao nhiêu người: “Trong Chợ Lớn còn nhiều chỗ kêu là “nhà xét” bày lập ra để cho người có tiền đến đó ăn chơi, muốn hút á phiện sẵn có mâm đèn, muốn ăn uống thì đủ thứ cao lương, muốn thưởng hoa nguyệt thì sẵn có gái xinh, muốn đánh bạc thì cũng có sẵn tay chơi, muốn chơi bao lớn cũng được, muốn chơi thứ gì cũng có…” (Một đời tài sắc, tr. 74). Quảng Giao trong Một chữ tình, thầy Chung trong Thầy Chung trúng số, suýt vì nó mà hỏng cả một cuộc đời. Cũng vì đam mê hưởng thụ, tập theo lối sống xa hoa, cô Oanh trong Bỏ chồng đã phụ bạc người chồng tốt, chạy theo hạnh phúc giả tạo, lao vào cuộc truy hoan đầy tội lỗi.

     Khói thuốc phiện đã làm vẩn đục không khí trong lành ở Nam Bộ. Nhiều nhà giàu có, thích bày yến tiệc cuối tuần tại nhà, tụ tập bạn bè vui thú hoan lạc, thả hồn vào khói thuốc, tự đánh mất mình, làm bại hoại luân lí xã hội (Bỏ chồng). Những gì thực dân Pháp muốn đưa vào Việt Nam nhằm làm hư hỏng thế hệ trẻ, làm bại hoại một dân tộc, dường như đều đang có mặt ở Nam Bộ thời này.

     Giao lưu văn hoá là mở rộng cánh cửa tương lai, để bao thanh niên có điều kiện đến với chân trời mới ở phương Tây, nhằm học hỏi, tích lũy kiến thức của xã hội văn minh hiện đại. Đất nước đang rất cần sự góp sức của những người mang tri thức mới. Phong trào Đông du được dấy lên hồi đầu thế kỉ XX cũng từ tinh thần ấy. Việc đi du học rất phổ biến ở Nam Bộ thời này. Bao gia đình có tiền của, không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn đều háo hức cho con đi du học. Người xuất thân từ giàu có, dư ăn dư để, được đi du học là chuyện rất bình thường (Vĩnh Xuân trong Tân Phong nữ sữ, Thuần trong Đoạn tình, Hoàng Kiết trong Một đời tài sắc, Công Cẩn trong Khóc thầm). Thế nhưng, có những gia đình không thật sự có tiền, phải hứa hẹn làm thông gia với nhà giàu, để con mình được đi du học, bằng sự giúp đỡ của gia đình nhà gái (trường hợp vị hôn phu của cô Vân trong Đoạn tình). Cũng có những gia đình bị sa sút, cha mẹ không lo nổi tiền, nên con phải về nước sớm hơn dự định (Vĩnh Thái trong Khóc thầm, Hà Thiện Ý trong Một đời tài sắc). Tuy nhiên, cũng có trường hợp con em nhà nghèo, như Hải Đường trong Đoá hoa tàn, cha làm mướn kiếm sống từng ngày nhưng nhờ anh ta học giỏi, có chí cao, cũng được đi du học. Lớp lớp thanh niên xuống tàu vượt biển Đông, sang trời Tây. Ngày trở về trong tay ai cũng có bằng cấp, tiến sĩ hay bác sĩ hoặc bác vật, trạng sư, tú tài. Nhưng không phải ai cũng trở thành người có ích cho xã hội, mang tri thức về để thật sự phục vụ cho việc cải cách đất nước. Và cũng không phải ai học cao, biết rộng cũng là sống tốt. Vĩnh Thái trong Khóc thầm học giỏi, biết nhiều mà cũng biết lắm toan tính để có cách chiếm đoạt, bóc lột tá điền thật tinh vi. Hoàng Kiết trong Một đời tài sắc mang về từ nước người không phải là kiến thức, mà là kinh nghiệm ăn chơi, để rồi như một con thiêu thân, tự huỷ hoại đời mình trong thú truỵ lạc. Vĩnh Xuân trong Tân Phong nữ sĩ thì đi ra nước ngoài để mở rộng tầm nhìn, mở mang tri thức nhưng lại khép kín tư tưởng, vẫn sống với quan niệm cũ kĩ, lỗi thời theo phong kiến, cho nên cũng không tìm thấy hạnh phúc, vật vã với những đau khổ về đường tình cảm. Hạnh phúc gia đình còn không tạo dựng và duy trì được thì hi vọng gì đến những đóng góp lớn cho đời! Một anh Hải Đường trong Đoá hoa tàn, xuất thân nghèo khó, có chí học hành, niềm hi vọng của đất nước nhưng đi du học trở về cũng chẳng thấy làm gì cho quê hương, xứ sở; lại bị vướng víu trong vòng tình ái. Chỉ vì thất tình mà trở nên bê tha, huỷ hoại cả thân xác và tinh thần. Và chỉ có tình yêu mới cứu vãn được cuộc đời của anh ta! Qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, lực lượng trí thức theo Tây học, những thành viên tiêu biểu của cuộc hội nhập có nhiều người như thế. Đó là kết quả không mong muốn từ quá trình giao lưu văn hoá ở thời này. Đâu chỉ có bấy nhiêu. Còn có không ít người từng đi du học đã phá bỏ thuần phong mĩ tục của ông bà ta. Giữa đám cưới trang trọng lại bày khiêu vũ, làm trò lố bịch, “không biết lễ nghĩa gì hết, không phải Tây mà cũng không phải Việt Nam” (Đoạn tình, tr. 27).

     Người Pháp đến Việt Nam đã gieo mầm ngôn ngữ Pháp tại đây, trước khi đưa vào các giá trị văn hoá khác. Ngôn ngữ Pháp ngày càng phổ biến đã làm thay đổi văn hoá giao tiếp của người Việt. Xưa kia các cụ nhà Nho sính dùng chữ Hán. Với họ, nói năng là phải như “nhả ngọc phun châu”, dùng nhiều điển tích, điển cố, hình ảnh ước lệ, tượng trưng. Quan niệm đó đến lúc này đã lỗi thời. Các trí thức tân học có cách nói năng mới hơn. Như thể khẳng định mình đã theo Tây học, biết tiếng Tây, lớp trí thức tân học thời này thích đan cài chữ Tây vào tiếng Việt khi giao tiếp; tạo nên một văn hoá nói bằng ngôn ngữ pha trộn, nếu không muốn nói là lai căng. Qua tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, hình thức nói năng như thế rất phổ biến, không loại trừ người tử tế, có nhân cách tốt. Thuần (Đoạn tình), không thuộc loại người bị văn hoá mới làm quên đi thuần phong mĩ tục, thế nhưng cách nói năng của anh ta vẫn bị Tây hoá rõ rệt: “Ma-phăm có nghén không đi đám cưới được, còn moa thì công việc đa đoan mệt quá, nên hồi sớm mơi moa đã viết thư cho Thậm mà cáo từ rồi.” (tr. 18) Có khi, ngôn ngữ Pháp được sử dụng dưới hình thức đặc biệt, như một biến thể của từ xưng hô trong tiếng Pháp: “Trường cười và đáp: Mõa biết nên mõa mới kéo toa đi cho khỏi gai mắt” (Ái tình miếu, tr. 86). Từ ngữ gốc Pháp không chỉ thâm nhập vào văn hoá nói của người Việt ở Nam Bộ thời này, mà nó hiện diện trên mọi lĩnh vực, làm thay đổi đặc thù văn hoá của một xứ sở như Nam Bộ. Nhiều đường phố ở Sài Gòn được nhắc đến trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh không mang tên gọi của những bậc anh hùng, danh nhân đất Việt hay có ý nghĩa khái quát đặc điểm vùng đất phương Nam, thể hiện lối sống, phong tục người Việt, mà lại mang cái tên lấy từ tiếng Pháp như: Đa kao, Pelerin, Paut Bert, Verdun, Lagrandière,… Đi trên đất Việt mà cứ ngỡ đang lạc lõng giữa xứ Pháp.

     Lối sống tự do theo phương Tây đang phổ biến khắp xã hội Việt Nam nhưng ở Nam Bộ mâu thuẫn giữa khát vọng tình yêu tự do của tuổi trẻ và lễ giáo phong kiến khắt khe, cực đoan, vẫn còn tiếp diễn. “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”, quan niệm ấy còn tồn tại ở Nam Bộ, nhất là ở nông thôn vào những năm đầu thế kỉ XX và kéo dài rất lâu về sau này. Những người theo tân học, có tư tưởng phóng khoáng, thích tự do vẫn chấp nhận “tập tục” ấy. Kinh lí Hai trong Con nhà nghèo là người có học thức, tiếp thu văn hoá mới, làm đến chức quan Kinh lí, giao tiếp với bao lớp người mới của xã hội hiện đại. Thế mà, khi quyết định hôn nhân cho mình lại làm theo phép xưa: Áo mặc sao qua khỏi đầu, bề nào con cũng chờ lệnh cha với má” (tr. 323). Tất cả những hiện tượng nêu trên cho thấy ở buổi đầu hội nhập văn hoá phương Tây, không chỉ có cái mới làm xáo động xã hội, thay đổi lối sống, đạo đức của người Nam Bộ mà những tác động cũ từ phong kiến còn tồn tại, đã tiếp tục gây nên bao rối rắm, cản trở cho cuộc sống hạnh phúc của con người.

     Cuộc đấu tranh quyết liệt giữa hai lối sống: theo phương Đông hay theo phương Tây, từng diễn ra phổ biến ở Nam Bộ khi có giao lưu với văn hoá phương Tây. Cuộc chiến diễn ra thật căng thẳng, có khi trong một gia đình, giữa những người cùng thế hệ, như trường hợp cha mẹ cô Hai Tân (n Phong nữ sĩ). Bà thì khư khư cho rằng sống theo xưa là đúng lẽ. Ông lại khẳng định theo nay mới hợp thời. Vấn đề có không ít phức tạp. Bởi ngay những người từng được sống giữa môi trường hình thành văn hoá phương Tây lại không muốn tiếp nhận lối sống tự do theo Âu Mĩ. Bác sĩ Vĩnh Xuân (n Phong nữ sĩ), sau nhiều năm đi du học trở về chỉ muốn cưới vợ có nết na theo gái An Nam (tr. 24). Người phụ nữ lí tưởng theo quan niệm của Vĩnh Xuân chỉ cần chuyên tâm lo cơm nước, áo quần cho chồng là đủ, không cần biết giao thiệp rộng rãi, tự nhiên, càng không nên là người phụ nữ của xã hội mới. Anh ta từ hôn cô Hai Tân chỉ vì cô đã hấp thụ nền văn hoá mới. Một trí thức tân học còn thế, nói chi đến cha mẹ anh ta, những người ít có điều kiện tiếp xúc với những gì do văn hoá phương Tây mang đến, càng dễ có phản cảm trước những biểu hiện của cái mới. Chi tiết từ hôn của gia đình bác sĩ Vĩnh Xuân đối với cô Hai Tân trong n Phong nữ sĩ cho thấy ảnh hưởng của lối sống mới theo văn hoá phương Tây không phải dễ dàng làm thay đổi tất cả mọi người Nam Bộ. Cái mới đã đến với người Việt Nam, dẫu biết rằng do kẻ xâm lược đưa vào nhưng nó lại mang đến cho ta nhiều cơ hội để thay đổi và phát triển văn hoá dân tộc. Thế nên, khư khư chối bỏ nó hoàn toàn, đâu phải là một phản ứng tích cực. Trong hoàn cảnh trên, bảo thủ, theo quan niệm phong kiến càng không thích hợp. Nó đồng nghĩa với việc ngăn cản bước tiến của xã hội, kìm hãm con người trong lối sống tù túng, chật hẹp của lễ giáo phong kiến đã lỗi thời. Vì thế, không phải ngẫu nhiên Hồ Biểu Chánh để cho những người như bác sĩ Vĩnh Xuân trong Tân Phong nữ sĩ không tìm được hạnh phúc. Rõ ràng khi có sự hội nhập, ngoài việc tiếp thu cái mới thiếu lành mạnh, tích cực sẽ dẫn con người nhanh chóng đi vào lối sống hư hỏng, bị tha hoá đạo đức, còn phải quan tâm đến thái độ chống đối cái mới. Cực đoan và quyết liệt quá cũng là đồng hành đến với bi kịch. Đây cũng là một biểu hiện chưa tích cực của thời hội nhập.

2.2. Bản lĩnh ứng xử của người Nam Bộ trong quá trình giao lưu với văn hoá phương Tây

     Trong cái nhìn của Hồ Biểu Chánh, giao lưu văn hoá đang diễn ra phức tạp, mang đến nhiều kết quả không mong muốn, nhưng vẫn có nhiều điều tốt đẹp đáng được ghi nhận. Con người Nam Bộ luôn chứng tỏ bản lĩnh của mình trước sự tấn công của cái mới từ ngoài vào. Họ đã tiếp nhận đúng mực và tiếp biến đầy sáng tạo các yếu tố ngoại lai. Vì thế, sự xuất hiện của văn hoá phương Tây trong đời sống xã hội đương thời đã gắn liền với bao giá trị tích cực, mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp và được người Nam Bộ không ngừng phát huy, ủng hộ.

     Giao lưu văn hoá đã làm đổi mới tư tưởng, quan niệm sống của bao thế hệ, cả người đứng tuổi, nhất là tầng lớp thanh niên. Họ mạnh dạn bứt phá khỏi tư tưởng khắt khe, hẹp hòi của lễ giáo xưa để được sống với chính mình, cho những quyền lợi chính đáng của con người cá nhân. Lối sống mới đã mở ra cho các bậc làm cha làm mẹ một phương cách dạy con tích cực hơn: “Người ta có mắt, có tai, có tim, có ruột thì tự nhiên có cảm giác, có tánh khí, thấy việc vui thì cười, thấy việc quấy thì giận, muốn đứng thì đứng, muốn ngồi thì ngồi… Sanh con mình lo nuôi cho nó mạnh mẽ phần xác, lo cho nó học đặng nó mở mang trí thức, lo dạy dỗ cho nó biết yêu chánh ghét tà. Còn tánh khí thì phải để cho nó thong thả không nên ép buộc nó vào khuôn mẫu nào hết, làm như vậy nó mới còn nhơn phẩm, có chơn tánh riêng của nó chớ.” (Tân Phong nữ sĩ, tr. 26). Đó là quan niệm của ông Đạo, cha cô Hai Tân trong Tân Phong nữ sĩ. Ở vào thời điểm tư tưởng Nho giáo còn rất mạnh, không nhiều người dễ dàng tiếp nhận lối sống tự do theo Âu Mĩ, nhân vật ông Đạo tiêu biểu cho những người thức thời, đã mạnh dạn đi theo cái mới, dám nghĩ cho cái tôi cá nhân và muốn sống theo bản ngã.

     Đã từ lâu, đất Nam Bộ được xem là nơi giàu của cải nhưng nghèo chữ nghĩa. Thời mở đất, lưu dân đa phần là ít học và nghèo nàn. Bởi cái lo trước mắt là cái ăn, cái mặc còn học hành là chuyện quá xa vời. Hơn nữa, điều kiện học hành rất khó khăn và học làm gì ở vùng đất xa kinh thành, nơi “khỉ ho cò gáy” này. Vì vậy, họ thích làm ăn sinh lợi hơn là học. Trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh chúng ta cũng bắt gặp tâm lí này ở nhiều nhân vật, kể cả những nhân vật nhà giàu, có tiền của, đủ điều kiện vẫn không thích cho con học nhiều, tiêu biểu là cha mẹ của Bác Ái (Một chữ tình). Họ không muốn cho con học cao hơn nữa “Đi Tây làm gì? Thi đậu rồi, thôi đi cưới vợ mà làm ăn. Như có muốn làm việc quan thì đi, bằng không thì ở nhà coi làm ruộng cũng được” (tr. 20). Nhờ có giao lưu văn hoá đã làm thay đổi quan niệm của con người về việc học hành. Đây là nhân tố tác động đến những đổi thay về giáo dục ở Nam Bộ. Những gia đình khá giả hoặc có tư tưởng cầu tiến đã ý thức tạo điều kiện cho con ăn học để được thành đạt. Không chỉ nam giới mà phụ nữ cũng được đi học và được khẳng định mình bằng trình độ học vấn. Những thanh niên có học thức, dù chỉ làm thông ngôn hay được nhận chức quan kinh lí như Thầy Thông Phong hoặc Kinh lí Hai đều được mọi người trong làng ngưỡng mộ, tấm tắc ngợi khen. Phụ nữ có học thức càng được tôn vinh, là niềm tự hào của gia đình, dòng họ, là sự hãnh diện của bản thân. Cô Xuân Hương trong Một đời tài sắc thi đậu bằng cấp “Brevel Superieur”, lập tức được “c nhựt báo đều khen ngợi lại đăng chơn dung của cô lên mặt báo cho công chúng biết” (Một đời tài sắc, tr. 30). Phụ nữ thời này cũng được đi du học, “Thu Hà đi Tây. Cô học hai năm được lấy bằng tú tài. Hiện nay cô đương ở trường Luật khoa đại học tại Paris; học sinh thảy đều kiêng nể tài học của cô, mà lại cũng kính trọng tâm chí của cô nữa” (Khóc thầm, tr. 230). Đặc biệt, trong tiểu thuyết Hồ Biểu Chánh, phụ nữ có học thức thường là người tốt. Dù sống giữa xã hội đầy những cám dỗ, bao đấng mày râu bị sa ngã nhưng họ thì vẫn vững vàng, khẳng định bản lĩnh. Tiêu biểu như cô Thu Hà trong Khóc thầm: “Cô đã nếm chút đỉnh mùi tân học, mà cô không chịu làm theo những thói tân nữ nhi. Cô ghét những gái hớt tóc cụt, đi giày cao gót, mặc y phục theo đầm, cô chê những gái cạo chơn mày, môi thoa son đỏ lòm, tay xách bóp nhỏng nhảnh. Thuở nay hễ bãi trường thì cô về nhà, lo coi sóc miếng ăn miếng uống cho cha mẹ, cô cắt lụa may áo may quần cho em,…” (tr. 14).

     Còn tiếp:

Mời xem: NAM BỘ trong buổi đầu GIAO LƯU với VĂN HOÁ PHƯƠNG TÂY qua TIỂU THUYẾT HỒ BIỂU CHÁNH (Phần 2)