Nét độc đáo trang trí trên nữ phục của một số dân tộc thiểu số ở Sa Pa, Lào Cai, Việt Nam

UNIQUE DECORATIVE FACILITIES OF A NUMBER
OF ETHNIC MINORITIES
IN SA PA, LAO CAI, VIETNAM

Tác giả bài viết: NGUYỄN LAN HƯƠNG
(Trường Đại học Mở Hà Nội)

TÓM TẮT

     Trang phục là một trong những giá trị văn hóa giúp phân biệt sắc thái giữa các vùng miền trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Mỗi kiểu trang phục là một công trình nghệ thuật về mỹ thuật, hội họa sử dụng màu sắc. Trong đó, yếu tố trang trí góp phần làm nên sắc thái riêng cho từng loại trang phục, đặc biệt trên trang phục của những dân tộc thiểu số của Việt Nam, trong đó có dân tộc thiểu số ở Sapa, Lào Cai.

Từ khóa: Trang phục, hoa văn, dân tộc thiểu số, Sa Pa.

ABSTRACT

     Costume is one of the cultural values that helps distinguish nuances between regions in the Vietnamese ethnic community. Each type of costume is an artistic work of art, painting using colors, in which, decorative elements contribute to creating specific nuances for each type of costume, especially on the costume of the ethnic minorities of Vietnam, including ethnic minorities in Sapa, Lao Cai.

Keywords: Costume, patterns, ethnic minorities, Sa Pa.

x
x x

1. Đôi nét về các dân tộc ở Sa Pa

     Sa Pa là một huyện vùng cao của tỉnh Lào Cai, thị trấn Sa Pa nhìn từ trên cao nằm ở phía tây bắc của Tổ quốc. Phong cảnh thiên nhiên kết hợp với sức sáng tạo của con người cùng với địa hình của núi đồi, màu xanh của rừng, Sa Pa như bức tranh có sự sắp xếp theo một bố cục hài hoà tạo nên một vùng có nhiều cảnh sắc thơ mộng hấp dẫn.

     Huyện Sapa có 6 dân tộc anh em cùng chung sống với tổng số dân là 52.899 người (theo tổng điều tra dân số 01/04/2009), trong đó người H’mông là 27.324 (51,65%), người Dao Đỏ: 12.189 (23,04%), người Kinh: 9.472 (17,91%), người Tày: 2.507 (4,74%), người Giáy: 720 (1,36%) và người Phù Lá ngành Xá Phó: 563 (1,06%).

     Dân tộc H’mông Đen là một dân tộc sinh sống đông nhất ở Sa Pa. Trước đây họ là tộc người làm lúa nước rất giỏi, sống dọc theo khu vực sông Dương Tử (Trung Quốc), trong cuộc xung đột với tộc người Hán, phần đông họ di cư về phía Nam và chia thành nhiều nhóm nhỏ. Những tộc người H’mông đầu tiên đến Sapa tập trung chủ yếu ở dãy Hoàng Liên từ khoảng 300 năm trước. Sống nơi núi non hiểm trở, thiếu đất đai màu mỡ nhưng với kinh nghiệm trồng lúa nước từ xa xưa, người H’mông đã san đắp những sườn núi, sườn đồi thành những thửa ruộng bậc thang độc đáo, mỗi năm có thể trồng được hai vụ lúa hoặc hai vụ ngô. Khoảng vài chục năm trước, người H’mông có thói quen đốt rừng, phát hoang để làm ruộng rẫy và sống du canh du cư, nhưng nay được Nhà nước giao rừng, giao đất để tự quản, sinh sống, rừng Sa Pa cũng hồi sinh, ruộng nương rộng lớn, trù phú và xanh tốt. Người H’mông sống chủ yếu tại các xã Sapa, San Xả Hồ, Lao Chải, Tả Giàng Phình. Trong những lễ hội truyền thống của người H’mông thì lễ hội Gầu Tào ngày 12 tháng giêng là đặc sắc nhất, thường tổ chức tại những thửa ruộng rộng hay vùng đồi với mong ước cầu thần linh ban cho sự bình an, thịnh vượng. Trong lễ hội còn có các cuộc thi bắn cung, bắn nỏ, múa khèn, múa võ, đua ngựa rất vui nhộn.

     Tộc người Dao có nhiều nhóm nhưng sinh sống ở Sa Pa chủ yếu là người Dao Đỏ bởi phụ nữ thường quấn khăn hay đội mũ đỏ, áo xanh đen có nhiều hoa văn đỏ và trắng ở cổ, vạt và tà áo. Người Dao Đỏ có dân số đứng thứ hai sau người H’mông ở Sa Pa, có nguồn gốc từ Vân Nam – Trung Quốc, là một bộ phận nhỏ của tộc người Dao di cư vào Việt Nam từ thế kỷ XIII đến những năm 40 của thế kỷ XX. Họ sống tập trung đông nhất ở các xã Tả Phìn, Nậm Cang, Thanh Kim, Suối Thầu, Trung Chải. Người Dao lại chọn thung lũng hoặc lưng chừng núi để trỉa ngô, trồng lúa và thảo quả. Trong năm người Dao cũng có những lễ hội đặc sắc như là Tết nhảy tổ chức vào ngày mồng một và mồng hai tháng giêng, hội hát giao duyên vào ngày mồng mười tháng giêng ở bản Tả Phìn. Họ cũng có chữ viết riêng dựa theo chữ cổ của Hán ngữ gọi là chữ Nôm – Dao nhưng loại chữ này nay chỉ người cao tuổi mới đọc hiểu và viết được.

     Dân tộc Tày có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, có thể từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước công nguyên, là một trong những nhánh tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Tày – Thái. Họ sống tập trung ở một số xã phía Nam như Bản Hồ, Nậm Sài, Thanh Phú là vùng thung lũng bằng phẳng, màu mỡ nhiều sông suối, nơi thuận tiện đánh bắt cá và làm ruộng. Người Tày có nhiều làn điệu dân ca hấp dẫn như hát lượn, hát khắp. Hát lượn thường diễn ra trong những đêm hội hè hay có khách từ phương xa đến. Hát khắp thì gần giống như hát quan họ vùng Bắc Ninh của người Việt. Vào tháng giêng hàng năm, đồng bào tổ chức nhiều lễ hội đặc sắc như lễ hội Lồng Tồng (hội xuống đồng) cầu mong mùa màng tươi tốt, hội xòe, hội hát then…

     Dân tộc Giáy là một nhánh của nhóm các dân tộc Tày – Thái, sống tập trung ở Tả Van, canh tác trên các mảnh ruộng bằng phẳng trồng lúa tẻ. Ngoài ra người ta còn chăn nuôi gà vịt, trâu ngựa… Sau ngày tết, họ tổ chức lễ hội xuống đồng gọi là “Gióng Pooc” vào ngày Thìn tháng Giêng để cầu mong một năm trồng cây tốt lành. Kho tàng ca dao tục ngữ, câu đố của người Giáy rất phong phú, đặc biệt là có rất nhiều sự tích để giải thích cho các hiện tượng trong thiên nhiên và xã hội. Dân ca Giáy được hát trong tất cả mọi hoạt động xã hội như đám ma, đám cưới, chúc tụng, lễ hội và nhất là khi trai gái giao duyên.

     Dân tộc Xá Phó thuộc nhóm dân tộc Phù Lá và dân số toàn quốc chỉ có gần 4 ngàn. Ở Sa Pa số người Xá Phó rất ít, sinh sống chủ yếu ở các bản làng thuộc xã Nậm Sài nằm ở phía cực nam của huyện, là nơi hẻo lánh, xa đường quốc lộ. Tiếng mẹ đẻ của người Xá Phó thuộc hệ ngôn ngữ Miến – Tạng. Người Xá Phó thường canh tác trên các ruộng nương, làm nhà sàn, bên cạnh có các lán nhỏ để cất thóc. Ngoài việc chăn nuôi gia cầm gia súc, họ rất giỏi về trồng bông dệt vải và đan lát các đồ mây tre. Người Xá Phó thích nhảy múa trong các dịp lễ hội.

2. Trang trí, nét độc đáo của trang phục

     Đến với đồng bào các dân tộc miền núi nói chung, trong đó có Sa Pa, văn hóa tộc người thể hiện rất rõ nét qua trang trí trên trang phục – mà chất liệu hoa văn thổ cẩm là dấu hiệu thị giác tiêu biểu, cuốn hút và rõ nét nhất. Nói cách khác, trang phục thổ cẩm góp phần làm nên sắc thái riêng cho từng loại trang phục. Hầu như có thể tìm thấy hoa văn, màu sắc đặc trưng của thổ cẩm trên nhiều trang phục nào của đồng bào dân tộc thiểu số ở Sa Pa.

     Hoa văn thổ cẩm trên trang phục của các dân tộc ở Sa Pa thể hiện sự khéo léo của đôi bàn tay, sự cần cù lao động và trở thành nét văn hóa truyền thống độc đáo của đồng bào các dân tộc nơi đây (hình 1). Nghề dệt thổ cẩm Sa Pa là một trong những nghề có truyền thống lâu đời và là nghề của người phụ nữ.

     Thổ cẩm là loại vải dệt thủ công giàu họa tiết và những họa tiết này nổi trên bề mặt giống như được thêu, nên các sản phẩm thổ cẩm rất kì công và tinh xảo, chất lượng cao với những hoa văn họa tiết độc đáo. Ở Sa Pa có những bản làng nổi tiếng về nghề dệt thổ cẩm như Tả Phìn, Cát Cát, Tả Van…

     Tuy cùng cùng cư trú trên cùng địa bàn là Sa Pa, nhưng hoa văn, màu sắc đặc trưng của thổ cẩm trên trang phục của mỗi dân tộc lại khác nhau. Do khuôn khổ bài viết có hạn, chúng tôi xin chỉ đề cập đến trang phục của phụ nữ.

     Trang phục của phụ nữ Dao Đỏ (hình 2)

     Như trên đã trình bày, tộc người Dao có nhiều nhóm nhưng sinh sống ở Sa Pa chủ yếu là người Dao Đỏ bởi phụ nữ thường quấn khăn hay đội mũ đỏ, áo xanh đen có nhiều hoa văn đỏ và trắng ở cổ, vạt và tà áo.

     Áo yếm: khá tinh tế và độc đáo, có khi chỉ tác dụng như một miếng vải để cài các đồ trang sức bằng bạc như hình bán cầu, hình sao tám cánh, hay những chuỗi dây ở đầu đeo những hình con chim, con khỉ, con cá, và những cái nhạc nhỏ.

     Áo dài: Áo được dệt từ vải chàm, dài đến ngang ống chân, thêu dệt trang trí khá công phu. Cổ áo liền với nẹp ngực thêu nhiều loại hoa văn cách điệu, kết hợp với những quả bông đỏ (quả bông đỏ hoặc quả len đỏ to bằng quả trứng gà), nhờ có quả bông đỏ, làm cho ngực áo nổi bật rực rỡ màu đỏ trên nền xanh chàm của áo. Phần cổ áo phía sau gáy được đính nhiều hạt thủy tinh màu, hạt cườm lẫn những tua chỉ đỏ hay các màu. Hàng khuy áo chạy suốt chiều dài áo, ở giữa hai nẹp áo, làm bằng bạc trên đó được chạm khắc hoa văn trang trí. Phần gấu hai vạt áo thân trước thêu nhiều hoa văn, đường kỷ hà, hình cây thông cách điệu…Thân sau áo cũng được thêu nhiều hoa văn tinh tế, giữa hai bả vai thêu “cái ấn của Bàn Vương”.

     Quần: Quần được làm bằng vải chàm, cắt theo kiểu “chân què”, cạp “lá tọa” hoặc cạp luồn dây rút. Ống quần tương đối hẹp, phần gấu quần thêu hoa văn trang trí.

     Dây lưng: Được dệt bằng sợi bông, sợi tơ tằm hay vải chàm dài khoảng hai sải tay, hai đầu thêu sặc sỡ những hình trang trí, nhiều hoa văn cách điệu, đường thẳng song song, hình thoi, hình răng cưa…

     Khăn: Người ta dễ dàng phân biệt được phụ nữ Dao Đỏ với các phụ nữ Dao khác qua chiếc khăn đỏ đội đầu sặc sỡ. Thường khăn được trang trí bằng các họa tiết như vết chân hổ, cây vạn hoa hay thêu cách đoạn. Khi đội lên đầu, họa tiết của các lớp hoa văn này sẽ lộ ra, tăng thêm vẻ duyên dáng cho chiếc khăn. Nhiều khi họ còn làm những tua len bằng sợi tơ đỏ trên khăn, lúc lắc theo mỗi bước đi.

     Đặc điểm của trang phục phụ nữ Dao Đỏ nổi bật so với các nhóm Dao khác ở phần ngực áo, hai vạt trước áo. Đó là phần được thêu thùa trang trí tỉ mỉ, công phu… đặc biệt, màu sắc nổi bật, ta dễ dàng nhận biết khi họ mặc trong dịp lễ hội, phiên chợ…

     Trang phục của phụ nữ H’mông Đen (hình 3)

     Người H’mông có nhiều chi: H’mông Đơ (trắng), H’mông Lềnh (vàng), H’mông Sy (Đỏ), H’mông Súa (Hoa), H’mông Đu (Đen). Một bộ trang phục cổ truyền của phụ nữ gồm váy hình nón cụt, xếp nếp, phần mông bó chặt, phần thân váy xòe rộng. Áo có cổ lật ra phía sau gáy. Thắt lưng buông hai dải dài phía sau. Tấm vải che đằng trước váy. Vuông vải che ở phía mông. Khăn quấn đầu. Xà cạp và tấm áo khoác ngoài không có tay, có cổ lật ra phía sau gáy. Quần áo của người H’mông chủ yếu may bằng vải lanh tự dệt. Phụ nữ H’mông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ống tay áo thường trang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viền vải khác màu (thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ H’mông còn dùng loại áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữa và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ H’mông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn.

     Khi mặc váy thường mang theo tạp dề. Tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là ‘giao thoa’ giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật, phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng nhóm người H’mông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm đội khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.

     Ngoài các họa tiết có cấu tạo bằng đường thẳng, đoạn thẳng. Người H’mông còn thành thục trong việc bố cục đồ án văn hình tròn, đường cong, hình xoáy trôn ốc hay các biến thể của nó là hai hình xoáy trôn ốc được bố trí đối xứng qua gương tạo thành hình móc hoặc đối xứng trục quay thành hình chữ S là những loại họa tiết có đường cong, đường xoáy dứt khoát thanh thoát, nhịp nhàng, uyển chuyển tạo cho bố cục hài hòa, không đơn điệu – chỉ thấy xuất hiện trong trang trí y phục của người H’mông. Những họa tiết này biểu hiện cho sự biến chuyển của mặt trời, thời tiết, không gian và thời gian, trong vũ trụ quan cổ đại của nhiều cư dân, là vốn văn hóa chung của nhiều dân tộc, nhưng được thể hiện đậm đà trong trang trí H’mông.

     Chắp vải màu của người H’mông rất dầy, nhiều lớp đè lên nhau, tạo thành các đường viền lé màu bao quanh các hình, các đường nét, chứng tỏ một kỹ thuật thành thạo, có truyền thống riêng khác hẳn các dân tộc anh em. Màu sắc ưa dùng trong thêu và chắp vải là đỏ tươi, đỏ thắm, nâu, vàng, trắng, xanh lá cây, lam. Ngay trên các đồ án hoa văn vẻ sáp ong nhuộm mầu chàm người ta cũng ưa ghép thêm hình vải mầu đỏ – trắng, xanh – trắng, rực sáng tươi vui. Đó cũng là điều khác biệt.

     Dân tộc H’mông có trang phục truyền thống hết sức cầu kì và sặc sỡ, thường làm bằng vải lanh với nhiều màu sắc nổi bật cùng hoa văn đa dạng, cầu kì. Một bộ trang phục hoàn chỉnh thường gồm áo xẻ cổ, váy xòe xếp ly, xà cạp và mũ đội đầu. Nữ phục H’mông rất đẹp và nổi bật, họ thường đính kèm các đồng xu, chuỗi hạt trên trang phục để tăng tính thẩm mỹ cũng như thể hiện các ý chí tâm linh truyền thống. Trang phục phụ nữ H’mông Đen, H’mông Đỏ thì họa tiết tập trung ở vùng tay áo và trước ngực. Váy của họ là váy xòe xếp ly, thường là màu trắng, đai thắt lưng dài có màu nổi bật như xanh, hồng,…Đi kèm với váy là xà cạp được thiết kế tỉ mỉ với các đồng xu bạc trang trí.

     Tộc người H’mông sinh sống chủ yếu ở Sa Pa là người H’Mông Đen do quần áo của họ toàn màu đen nhưng trang phục của họ lại khác hẳn người H’mông Đen ở nơi khác, vì thế thường được gọi là người H’mông Sa Pa. Phụ nữ mặc đồ đen, trên đầu cũng đội một chiếc khăn đen, vành thẳng đứng như một cuộn giấy cao vượt đỉnh đầu. Bên ngoài là một chiếc áo khoác không có tay, vạt dài gần tới gối. Chiếc áo khoác này được lăn ép bằng sáp ong vì thế có màu đen ánh bạc. Đặc biệt nhất là phụ nữ H’mông Sa Pa lại mặc quần ngắn ngang đầu gối chứ không mặc váy. Họ cuốn xà cạp quanh bắp chân rất khéo bằng một băng vải hẹp.

     Trang phục phụ nữ Tày (hình 4)

     Người phụ nữ Tày rất coi trọng trang phục. Từ khi trở thành một thiếu nữ cho đến khi cao tuổi, bộ trang phục truyền thống của dân tộc mình luôn đi liền với người phụ nữ. Trang phục truyền thống của phụ nữ Tày được thể hiện từ khăn vấn đầu cho đến yếm trên ngực, vòng đeo cổ và tà áo cũng như váy.

     Nói tới trang phục của người Tày, ta không thể không nói tới hoa văn trên trang phục của họ. Cái độc đáo nhất là lối dùng màu chàm phổ biến, đồng nhất trên trang phục nam và nữ cũng như lối mặc áo lót trắng bên trong áo ngoài màu chàm. Cái lưu ý không phải là lối tạo dáng mà là phong cách mỹ thuật như đã nói trên. Nhiều tộc người cũng dùng màu chàm nhưng còn gia công trang trí các màu khác trên trang phục, ở người Tày hầu như các màu ngũ sắc được dùng trong hoa văn mặt chăn hay các tấm thổ cẩm.

     Họa tiết được kỷ hà hóa là chính để thích hợp với việc dệt trên khung dệt. Bố cục họa tiết theo phương pháp ô quả trám có các đường viền xung quanh tạo thành các đường diềm gãy khác. Trong các ô quả trám là họa tiết cách điệu hóa hình họa, hình ngọn rau bầu, bí, là loại cây có liên quan nhiều đến nền văn hóa cổ, tín ngưỡng cổ của nhiều cư dân nông nghiệp ở phía Bắc nước ta, trong đó có người Tày.

    Trên cơ sở của loại bố cục hoa văn một mầu đen trên nền trắng như thế này, người Tày lại phát triển trang trí theo một hướng khác, gài màu vào từng đoạn họa tiết, từng mảng họa tiết tùy trình độ thẩm mỹ, ý thích của người dệt trên khung dệt thủ công, có tên gọi là thổ cẩm, mang ý nghĩa là một loại gấm của địa phương.

     Trên mặt chăn hoặc màn che mà vị trí là ở các nơi thờ cúng tổ tiên, người ta thể hiện các đề tài liên quan đến tín ngưỡng tôn giáo, như thêm đường diềm ở phía trên – tương ứng với cõi Trời, có hình các vị thần linh, bảo hộ cho sự sống bình an của con người hoặc thêm đường diềm ở phía dưới – tương ứng với cõi Đất, có hình con ngựa, con chim là những hình tượng biểu trưng cho cuộc sống, cỏ cây, muông thú trên mặt đất như quan niệm về vũ trụ của dân gian. Bố cục hình vuông của thổ cẩm, bố cục hình chữ nhật của loại thổ cẩm làm mặt chăn hoặc màn che có quy định phía trên phía dưới – là những bố cục riêng có trong trang trí dệt của người Tày, mà các dân tộc anh em không có.

     Trang phục phụ nữ dân tộc Giáy

     So với các dân tộc khác, trang phục người Giáy đơn giản, ít thêu thùa và chỉ có các băng vải màu viền quanh cổ và vạt áo. Phụ nữ Giáy mặc áo che kín mông, xẻ nách phải, tay rộng, cổ tay áo đắp những miếng vải khác màu. Váy che kín gối, xoè tương đối rộng. Áo mặc trong là loại áo cánh ngắn cộc tay, xẻ ngực, cổ tròn thấp và có hai túi dưới. Phụ nữ Giáy thường đội khăn quấn thành nhiều kiểu khác nhau, cổ đeo vòng bạc. Phụ nữ Giáy vấn tóc kiểu vành khuyên, choàng lên trên là chiếc khăn vuông sặc sỡ tương xứng với đôi giày thêu một cách rất cầu kỳ. Họ có thể bỏ ra hàng tháng để thêu cho đôi giày những đường nét tinh tế. Thông thường hình thêu trên đó là biểu tượng của hạnh phúc lứa đôi: đôi bướm, đôi uyên ương, hai bông hoa đào…

     Những lúc rãnh rỗi, các thiếu nữ Giáy lại cùng nhau thêu thùa, dệt vải, dệt thổ cẩm làm chăn, làm địu, tuy nhiên, đây là những công việc không thường xuyên và chỉ mang tính “giải trí” những lúc nông nhàn.

     Họ dùng sợi len hoặc sợi màu đỏ, màu hồng độn với tóc vấn, gọi là piêm mào và đeo chiêc túi vải hình chữ nhật rộng 25-30 cm, dài 35-40 cm. Dây túi dệt bằng chỉ màu luồn vào miệng túi theo kiểu dây rút. Hai đáy được thêu hình răng chó (hẻo ma) uốn trên đường chỉ màu xoè ra như hai cái quạt hoa nhỏ. Đây là hoa văn phổ biến trong nghệ thuật trang trí người Giáy, còn được dùng thêu ở hai đầu chiếc gối, ở rèm vải cửa buồng đôi vợ chồng mới cưới hay ở mũ trẻ em.

     Phụ nữ Giáy dùng rất ít đồ trang sức bằng kim loại. Chỉ một chiếc vòng tay, một dây xà tích hay một vòng cổ bằng bạc là đủ. Trang phục của phụ nữ Giáy ở Lào Cai cũng khác ở các nơi khác. Họ mặc quần bằng vải lụa, sa tanh màu đen nhưng cạp quần dùng vải màu đỏ và khâu luồn dây thắt lưng. Áo của phụ nữ có nhiều màu nhưng lại không có màu trắng. Áo dài cài khuy vải hoặc khuy bạc ở nách bên phải. Cổ đứng, viền vải khác màu ở vạt cài khuy, viền tay áo. Ngày nay, đa số các cô gái Giáy mặc áo viền cổ, viền tay áo và cả tà áo với nhiều loại màu. Các đường viền trước đây được phân biệt giữa già và trẻ bằng đường viền: to là dành cho người già, còn người trẻ thì viền áo nhỏ.

     Trang phục phụ nữ Xá Phó (hình 5)

     Trang phục truyền thống của đồng bào Xá Phó gồm khăn đội đầu, áo và váy. Khăn đội đầu được trang trí các mảng hoa văn hình ô vuông, hình quả trám, các hình tam giác nhỏ hoặc đính tua len các màu để tôn thêm vẻ đẹp rực rỡ (trước kia phụ nữ Xá Phó còn sử dụng khăn đội đầu là mảnh vải chàm đen).

     Nổi bật nhất trên trang phục phụ nữ Xá Phó là chiếc áo ngắn được trang trí hoa văn rất bắt mắt, được trang trí tùy theo sự sáng tạo của từng người. Hoa văn trang trí rất cầu kỳ với những màu sắc sặc sỡ và được thêu hoàn toàn bằng tay. Ngoài hoa văn, phía trước áo còn được đính các hạt cườm xen kẽ, bố trí thành đường thẳng, hình vuông hoặc hình các bông hoa. Cổ tay áo được thêu cầu kỳ với những hình nhấp nhô mô tả các dãy núi, hình sóng nước mang đến cảm giác mềm mại tạo cho chiếc áo của phụ nữ Xá Phó nét đẹp độc đáo.

     Váy của phụ nữ Xá Phó được may với cạp chiết nhỏ, thân váy chắp lại từ hai mảnh vải chàm và được trang trí hoa văn cầu kỳ dọc theo chiều dài của váy. Mảng hoa văn gần cạp váy được thêu bằng các hình thoi nối dài nhau xen kẽ nhau bằng các màu thêu rực rỡ. Chân váy được thêu bằng những hình cây thông nối tiếp nhau, bên dưới là hình sóng nước hoặc hình răng cưa, quả trám và các hình tam giác xếp chéo nhau.

     Giữa váy và áo của người Xá Phó được ngăn cách bởi chiếc thắt lưng làm bằng vải trắng có tua nhiều màu ở cuối. Chiếc khăn trở thành điểm nhấn và tạo cảm giác làm hài hòa những sắc màu sặc sỡ càng làm cho trang phục của phụ nữ Xá Phó thêm hấp dẫn.

     Giờ đây, do ảnh hưởng của nhiều phong cách thời trang nên trang phục truyền thống của đồng bào Xá Phó có nhiều thay đổi, nhưng nhiều phụ nữ Xá Phó vẫn cố gắng giữ nét đẹp trang phục của dân tộc.

     Trên đây là những nét văn hóa thẩm mỹ đặc trưng thể hiện rõ trên trang phục thổ cẩm nữ phục một số dân tộc ở Sa Pa. Nhờ những họa tiết, màu sắc của trang trí thổ cẩm trên nữ phục mà chúng ta tương đối dễ dàng phân biệt đó là trang phục của các tộc người ở Sa Pa, đồng thời đây cũng là một trong những cách đồng bào Sa Pa bảo tồn vốn văn hóa tộc người quý giá trong bối cảnh nhiều thay đổi hiện nay một cách hữu hiệu và vững bền.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1. Đoàn Thị Tình, Tìm hiểu trang phục Việt Nam (Dân tộc Việt), Nxb Văn hoá, 1987.

     2. Hoàng Tuấn Phố, “Vài suy nghĩ về vấn đề trang phục của người Việt”, Tạp chí dân tộc học, số 2, 1978.

     3. Lâm Tô Lộc, Truyền thống nghệ thuật và sự phát triển của nó về văn hoá, Nxb Văn hoá – Thông tin, 2001.

     4. Lịch sử Việt Nam, tập I – Nxb KHXH, Hà Nội, 1971.

Ghi chú: Hình ảnh: Kính mời Quý độc giả xem ở tệp PDF đính kèm bên dưới.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 54 (04/2019) 1-8

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Nét độc đáo trang trí trên nữ phục của một số dân tộc thiểu số ở Sa Pa, Lào Cai, Việt Nam (Tác giả: Nguyễn Lan Hương)