Nghệ thuật Kiến trúc, chạm khắc gỗ tiêu biểu ở một số đền thờ của Thanh Hóa
WOOD CARVING ARCHITECTURE OF SOME TYPICAL TEMPLES IN THANH HOA
Tác giả bài viết: Tiến sĩ TRẦN VIỆT ANH
(Khoa Mỹ thuật, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa)
TÓM TẮT
Theo “Thanh Hóa chư thần lục” toàn tỉnh Thanh Hóa có 3.561 phủ, nghè, đền, miếu thờ các vị thần (trong đó nam thần là 3.078 vị và nữ thần là 432 vị), mỗi cơ sở thờ tự thông thường thì thờ một vị thần, tuy nhiên cũng có nơi thờ nhiều thần. Qua đó cho thấy số công trình kiến trúc lập trên cơ sở thờ tự cũng tương ứng với số thần. Trải qua biến cố lịch sử, điều kiện tự nhiên, số công trình kiến trúc không còn nhiều, nhưng những di vật còn lại đến nay đã chồng lắng nhiều lớp văn hóa, tín ngưỡng của cư dân xứ Thanh.
Từ khóa: đền thờ, kiến trúc, điêu khắc, chạm khắc.
ABSTRACT
According to the documents, there are 3.561 temples and shrines of the Gods (3.078 Gods and 432 Goddesses) in Thanh Hoa province. A worshiping institution usually worships a God. However, a worshiping institution can worship many Gods. Thereby, the number of worshiping structures must also correspond to the number of Gods. After the ups and downs of historical changes and natural conditions, a few architectural works still exist and contain many cultural and religious values of local people.
Key words: temple, architecture, sculpture, carvings.
x
x x
1. Đặt vấn đề
Xứ Thanh là một vùng đất “địa linh nhân kiệt”, trải qua dòng chảy lịch sử, giá trị văn hóa truyền thống được kết tinh ở nhiều lĩnh vực khác nhau trong đó phải nói đến nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ. Tuy nhiên, do đặc tính về chất liệu mềm, dễ mối mọt, dễ hỏng do môi trường tự nhiên, khí hậu tác động,… nên các công trình nghệ thuật kiến trúc và chạm khắc gỗ ở xứ Thanh qua thời gian đã bị hư hại đi khá nhiều, thậm chí nhiều công trình không còn tồn tại nữa, nhất là từ thế kỷ XVI trở về trước. Trong dòng chảy lịch sử xã hội xứ Thanh, các công trình kiến trúc, chạm khắc gỗ trải dài với mật độ tương đối dày đều, tuy nhiên giai đoạn chiến tranh Nam Bắc triều (thế kỷ XVI) xứ Thanh chìm trong binh đao khói lửa đã làm gián đoạn sự xuất hiện của những công trình kiến trúc gỗ để lại “khoảng trắng” cho các nhà nghiên cứu trong giai đoạn này. Ngay khi chiến tranh chấm dứt – đầu thế kỷ XVII, các công trình kiến trúc gỗ được xây dựng nhiều, một số công trình kiến trúc gỗ nổi tiếng, hiện còn để lại dấu tích, đó là hậu cung của đền Trần Khát Chân (Vĩnh Lộc), đền Lê Hoàn (Thọ Xuân), đền Độc Cước (Sầm Sơn), đền Lý Thường Kiệt (Hà Trung). Phần lớn các đền thờ này có phần hậu cung bảo lưu được nhiều dấu vết, di vật của thế kỷ XVII – XVIII, nhưng phần nhà Tiền tế thường là sản phẩm được tu bổ ở thế kỷ XIX và muộn hơn nữa.
Về chạm khắc, các nhà nghiên cứu đã tìm được ở đây những mảng chạm trau chuốt, dày đặc, với một kỹ thuật điêu luyện, qua sự thao diễn của nghệ thuật chạm lộng, bong kênh, nổi, chìm,… Chủ đề các mảng chạm khắc phản ánh không khí náo nức của đời sống cũng như khát vọng tâm linh của người đương thời. Theo nhiều nhà nghiên cứu, tư duy kiến trúc chạm khắc gỗ truyền thống xứ Thanh không vượt ra ngoài tư duy nông nghiệp chung của nền văn hóa Bắc Bộ (theo cố Giáo sư Từ Chi thì: văn hóa Bắc Bộ chiếm một không gian rộng lớn, bao gồm cả châu thổ Bắc Bộ vào đến hết Thanh Nghệ Tĩnh). Và chỉ khi tiếp cận với đền Trần Khát Chân, đền Lê Hoàn, đền Độc Cước,… chúng ta mới sớm có thể đưa ra một giả thiết để làm việc: xứ Thanh là một trong những đỉnh cao của điêu khắc gỗ dân tộc ở thời quá khứ.
2. Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ tiêu biểu ở một số đền thờ của Thanh Hóa
Mối quan hệ giữa kiến trúc và chạm khắc gỗ truyền thống rất đặc biệt. Khi kiến trúc giản lược thì chạm khắc gỗ cần bổ sung che lấp những nhược điểm. Hoặc do kiến trúc phát triển về quy mô khiến bộ khung trở nên thô kệch thì rất cần vai trò trang trí của chạm khắc gỗ. Một kiến trúc tâm linh đặt nơi thôn dã, dân chúng chỉ quen với sự nhìn nhận cảm tính, nhận thức trực quan, giản đơn thì hình tượng trang trí lại có sức dẫn dắt, gợi mở cảm thức to lớn. Kết cấu kiến trúc của phần lớn các cơ sở thờ tự ở Thanh Hóa vốn là một phức hợp, chồng lấn, thay thế chức năng theo lịch sử. Trên phương diện giá trị của kiến trúc nghệ thuật, các di tích kiến trúc gỗ ở Thanh Hóa có thể bàn đến một số công trình tiêu biểu sau:
– Đền Trần Khát Chân
Đền thờ Trần Khát Chân ở xã Vĩnh Thịnh, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, bên cạnh đền thờ còn có chùa Hoa Long, đây là cụm di tích vệ tinh phía Đông Nam di sản văn hóa thế giới Thành Nhà Hồ. Di tích này nằm trong sự bao bọc của dãy núi Mông Cù, Hùng Lĩnh, Cô Sơn, Kim Sơn, Kim Âu tạo nên thế tựa vững chắc.
Trần Khát Chân là một tướng quân có nhiều công lao ở thời Trần, nhất là với người xứ Thanh, nên ông đã được thờ ở nhiều nơi (tương truyền có 72 nơi thờ). Theo chúng tôi, có lẽ đây chỉ là con số phiếm chỉ, mang ý nghĩa biểu trưng, gợi về số nhiều, và là con số thiêng có ý nghĩa đặc biệt trong tâm linh người Việt. Mặc dù được thờ ở nhiều nơi, nhưng ở quê hương, người xứ Thanh đã dành cho ông một tình cảm đặc biệt, với ngôi đền to lớn và cũng đặc biệt cả về giá trị nghệ thuật mà khó có thể tìm thấy ở nơi khác.
Về nghệ thuật kiến trúc, ngôi đền được làm theo kiểu thức “tứ thủy quy đường” với tòa Tiền bái, hành lang và nhà Hậu ôm lấy nơi thờ tự chính. Đặc biệt, người đương thời đã tạo nên hai “mái bẩng” của mái hành lang nhô cao trên mái của tòa Tiền bái gốc, có lẽ chủ yếu để lấy sự thông thoáng. Kiểu thức này còn lại rất ít trong các kiến trúc Việt Nam, mà hiện nay chúng ta có thể thấy tương đồng ở gác chuông chùa Ngăm (Ứng Hòa, Hà Nội), chùa Hương (Mỹ Đức, Hà Nội). Tại vị trí này của đền Trần Khát Chân, vẫn còn các mảng chạm của thế kỷ XVII, thậm chí cả hình tượng con người. Đó là một đặc điểm riêng mà hầu như chỉ ở ngôi đền này mới có.
Kiến trúc của tòa đền gốc, chúng ta không thấy kiến trúc có xu hướng vươn theo chiều cao. Phải chăng, đó là hiện tượng bắt nguồn từ việc chưa đẩy thần linh lên cao mà như có ý dàn trải theo tư duy nông nghiệp. Kết cấu này tạo ra không gian hết sức ấm cúng trong mạch chảy “muốn hòa với thiên nhiên, vũ trụ để tồn tại”. Tòa Tiền bái gốc có lòng nhà rất hẹp, khoảng cách giữa hai cột cái chỉ xấp xỉ trên hoặc dưới 2 m, với kiến trúc 4 hàng chân cột. Có lẽ, do lòng nhà quá hẹp nên về sau đã dựng thêm một tòa Tiền bái khác như đã trình bày ở phần trên? Và cũng có lẽ, do lòng nhà hẹp như vậy, khiến các mảng chạm trở nên đặc kín (ở vì nóc và đặc biệt ở các vị trí ván gió mặt trước). Chúng ta cũng đã thấy một thành phần kiến trúc được coi như sớm nhất trong hệ thống kiến trúc của người Việt là chiếc xà lòng ở hai đầu hồi, để cùng với xà đai tạo nên một bộ khung kiến trúc vững chắc. Chủ nhân tạo tác ngôi đền này không muốn phơi ra dưới con mắt của kẻ hành hương những kết cấu kiến trúc bào trơn đóng bén (kể cả kẻ xoi và những cột nhỏ) mà đã dùng thủ pháp chạm khắc lộng, bong kênh, nổi, thủng để che đi.
Về nghệ thuật chạm khắc gỗ, có thể nói đền Trần Khát Chân là một tác phẩm nghệ thuật khá hoàn chỉnh, bởi sự thao diễn kỹ thuật điêu luyện của người đương thời. Trong “không gian” ấy, chúng ta tìm được hầu hết mọi đề tài chạm khắc đã từng bắt gặp ở nhiều ngôi đình, đền, chùa trên đất Bắc. Đó là các vũ nữ thiên thần ngồi trên đầu rồng hay cưỡi rồng, những chim phượng tạo tác theo lối dân gian, những con thú leo trèo trên đao rồng, khi thì con thú lớn cắn con thú nhỏ, hoặc một dạng con mồi khác là cá, rồi cảnh voi cùng quản tượng, hạc ngậm cành hoa,… Tất cả những hình tượng ấy, tầng tầng lớp lớp được diễn ra trong phương thức đồng hiện, dưới một bố cục có vẻ như tự do mà rất chuẩn mực. Có thể kể ra một điển hình như sau: ở ngay phía mặt trước của tòa Tiền bái, được chạm đặc kín những hình tượng như nêu trên. Song, đáng quan tâm là, ở trung tâm mặt ngoài gian giữa đã có 4 cột trang trí. Hai cột giữa là vũ nữ đứng trên đầu rồng đang múa, mà một vài nhà nghiên cứu dân tộc học mỹ thuật ngờ rằng đó là những thiên thần đang múa trên mây, phần nào còn ngỡ như đó là thần mưa, mang đậm tính dân gian. Ở một cột khác, có hình thức trúc hóa long, bố cục với không gian bên trên là một con đại bàng đứng, nhìn chính diện, ở phía bên dưới có hai con hổ đang lấp ló ở bên gốc trúc (lúc này đã hóa rồng), khiến chúng ta như ngờ rằng, chim là tượng trưng cho tầng trên, hổ tượng trưng cho tầng dưới và gạch nối giữa âm dương (trên dưới) chính là cây trúc (mang tư cách là thân rồng). Đương nhiên, các đề tài khác cũng mang tính náo nức và giá trị nghệ thuật rất cao.
Ở đền Trần Khát Chân còn một hình tượng nghệ thuật đặc biệt đó là hình gà trống được chạm khắc ở trên cửa vào hậu cung, đây là vị trí “thiêng liêng”, diễn tả tín ngưỡng truyền thống, ước vọng về sự an lành và trừ tà; nghệ nhân sử dụng hình tượng gà trống được thể hiện trong tư thế một chân co lên, một chân trụ, chạm khắc hình tượng gà ở tư thế nghiêng, xong lại chạm hai cánh cho chúng ta cảm giác như tượng gà. Toàn bộ tượng gà cao 5cm, được chạm ở trung tâm của hình mặt trời tỏa ra các đao lửa, phía ngoài là các vân mây kích thước lớn, hai bên là rồng chầu, phong cách nghệ thuật thế kỷ XVIII. Theo nhà nghiên cứu Trần Quốc Vượng, hình tượng chạm khắc gỗ gà trống được đưa vào đền thờ là một biểu hiện của tín ngưỡng thờ “…Thái đen theo dòng mẹ Rồng và cha Chim, ngược lại Thái trắng theo dòng mẹ Chim và cha Rồng. Từ đó, có thể thấy được trong môtip văn hóa phân chia thành hai ngành Đen và Trắng…”. Theo nghiên cứu mới đây của tiến sĩ Hoàng Minh Tường giúp bổ sung về di cư tộc người cũng như tiếp biến văn hóa tộc người ở Thanh Hóa, người Thái cư trú trên miền đất phía Tây tỉnh Thanh Hóa. Họ tụ cư thành những mường lớn như Mường Ca Da (Quan Hóa), mường Khoòng (Bá Thước), mường Trịnh Vạn (Thường Xuân),… dọc theo đôi bờ sông Mã, sông Chu và những con suối lớn, họ sống và gắn bó với sông nước. Nước là nguồn gốc của sự sống, vì vậy từ chỗ sùng bái nước họ đã thiêng hóa nước và họ thờ thần nước, thờ thần mặt trời – thần ánh sáng.
Đền Trần Khát Chân luôn được người dân các thời quan tâm, vì thế, dấu ấn nghệ thuật muộn cũng đã xuất hiện, cụ thể như, có những bộ vì ván mê được chạm hoàn toàn bởi một mặt hổ phù lớn ngậm chữ Thọ. Đây là một hình tượng gắn với ước vọng cầu no đủ, nhưng ở lĩnh vực nghệ thuật, thì phải nói rằng, đây là một bức chạm hổ phù rất đẹp của thế kỷ XIX mà hiếm thấy ở các nơi khác. Cũng có thể, ở lĩnh vực chạm khắc ít nhiều chịu ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo nên trên một mảng chạm đã có hình tượng rùa trong hồ sen, với mai đồng nhất với cánh sen úp, trong đó, các gân lá sen như nói về tám vạn bốn ngàn pháp môn chảy về một cuộng, đó là dòng nước cam lồ, giải thoát mọi khổ đau. Từ đây liên hệ đến một hình tượng tương tự là hiện vật của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam, với búp sen đang tái sinh ra một con người… Ý nghĩa của hình tượng này (như ảnh hưởng từ Tịnh Độ Tông) để nói về Phật tử với khả năng tu chứng cao thấp khác nhau mà sẽ được tái sinh qua các bông sen to, nhỏ khác nhau.
– Đền Độc Cước
Vùng cửa sông Mã (cửa Hới) có đền thờ Độc Cước (làng Núi, Sầm Sơn), một ngôi đền nằm trên mõm núi Trường Lệ, ở đây yếu tố Malayo, thể hiện rất rõ và gần như duy nhất là ở thần Độc Cước. Trên nước ta không nơi nào thần Độc Cước lại được thờ phụng nhiều như ở Thanh Hóa. Sầm Sơn là nơi hình thành huyền thoại vị thần này (còn gọi là thánh Độc Cước), thần Độc Cước được đưa vào thần điện Phật giáo với tư cách như là đệ tử của Quan Thế Âm Bồ Tát. Đồng thời, thần điện Đạo giáo Việt Nam còn coi Độc Cước như là một vị thần cùng Ngộ Không, làm trợ thủ cho Huyền Đàn (một tổ phù thủy). Do vậy, có thể coi đây như là một hình thức tôn giáo tín ngưỡng, pha trộn giữa tín ngưỡng dân gian với Phật giáo và Đạo giáo.
Về nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc: hiện nay công trình đã qua nhiều lần trùng tu, những dấu tích kiến trúc xưa không còn. Thông qua một vài di vật còn sót lại trong kiến trúc, chạm khắc cho thấy những chuẩn mực của kiến trúc truyền thống và chạm khắc tinh xảo tới mức tối đa, như đầu bẩy của ngôi đền trước đây chỉ cao hơn bề mặt đá bó vỉa khoảng 1.2m, rồi bộ vì nóc được chạm kín đặc, với rồng và những linh vật khác cùng cả một rừng đao mác như sự hội tụ của sấm chớp đẩy trời, gọi mưa, gọi mùa sinh sôi, phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII. Ở kiến trúc này, một trong những Hậu cung sớm nhất của người Việt ra đời và mặt nào cũng thấy sự đồng điệu với nhiều kiến trúc ở Nam Định và Hà Tây cũ, chúng đã khẳng định về dòng nghệ thuật dân gian chiếm thế thượng phong và đồng nhất trên các vùng thôn quê ở nước ta.
Theo như tiến sĩ Hoàng Minh Tường, sưu tầm của ông đã cho chúng ta hiểu thần Độc Cước phân thân lấy một nửa để bảo vệ ngư dân ngoài biển, nửa kia bảo vệ nhân dân đồng ruộng trong đất liền. Song, đối với chúng tôi, những người làm nghệ thuật đều hiểu rằng hầu như mọi hình tượng mỹ thuật (các linh vật, mọi biểu tượng) thể hiện sự khuyết thiếu như hổ phù, thần Độc Cước (hình người chỉ có một nửa theo chiều dọc)… là biểu tượng của mặt trăng hoặc ít nhiều có liên quan đến mặt trăng, vì trong một tháng mặt trăng khuyết nhiều hơn tròn, vì thế hổ phù cũng có lúc tự nó là biểu tượng của mặt trăng (trường hợp đôi rồng chầu hổ phù) và mặt trăng thì liên quan đến thủy triều ảnh hưởng tới những con thuyền ra khơi. Mặt trăng được nhân cách hóa đó là thần Độc Cước có nghĩa con người muốn đồng nhất với tinh cầu này để hòa vào thiên nhiên vũ trụ, mong được yên ổn khi ra biển và ít nhiều cầu cho thủy triều bớt hung dữ. Ở lĩnh vực nông nghiệp, người xưa từng coi mặt trăng gắn bó rất nhiều với sự sinh sôi nảy nở, ánh trăng vàng làm cho trai gái yêu nhau, cho âm dương hòa hợp để muôn loài và nhất là cây trồng phát sinh phát triển; rõ ràng mặt trăng vừa có tác động đến cư dân nông nghiệp, cư dân biển cả. Và có lẽ thần Độc Cước, phân thân là một sáng tạo khá riêng của cư dân xứ Thanh ở vùng cửa sông Mã này, và sự phân làm hai nửa chỉ là sản phẩm muộn khi huyền thoại gốc bị tàn phai.
– Đền Lê Hoàn
Đền thờ Lê Hoàn (xã Xuân Lập, huyện Thọ Xuân) niên đại năm Hồng Đức (đời vua Lê Thánh Tông) thứ 15 (1484), và tu bổ lần 2 vào năm Vĩnh Tộ thứ 8 (1626), gồm ba tòa liên kết với nhau thành chữ Công (工), tọa ở đầu nét giữa của chữ Vương (王 ), nhà Tiền đường gồm ba gian, hai trái; nhà Trung đường ba gian; Hậu điện ba gian hai trái, các tòa nhà liên kết với nhau thành một khối kiến trúc vững chắc. Đặc biệt về kiến trúc ở đây đó là độ cao giọt gianh chưa quá 1.5m gần như kiểu chùa Mui ở Bắc Bộ và đền Độc Cước, đây là dạng kiến trúc cổ truyền với quan niệm chưa đẩy thần linh lên cao mà dàn trải theo tư duy nông nghiệp. Các đồ án chạm khắc gỗ trang trí phủ kín các đầu dư, hoành, vì nách, kẻ hiên với hình tượng long, ly, quy, phượng được biểu đạt thông qua kỹ thuật chạm bong, kết hợp chạm lộng nổi khối cao đến 10cm, tạo nên những giai điệu khỏe khoắn, diễn đạt các giá trị anh hùng của ngôi đền thiêng.
Trong một mảng chạm lớn, ở bộ vì trước Hậu cung, phong cách nghệ thuật thế kỷ XVII, được phủ bởi các hình tượng rồng, hoa văn đao mác, trong đó có hai hình tượng người được tạc ở vị trí trung tâm, qua đó chúng ta thấy vai trò con người ở đây như một điểm nhấn cho mảng chạm. Đó là hình tượng người cưỡi hổ, với hai tay đang giơ lên cao, trang phục đóng khố, bụng phệ, ngực nở, đầu đội mũ chữ Đinh, phía trước người cưỡi hổ cũng có một con hổ đang ẩn mình trong các đao mác và dưới một đầu rồng lớn, phía sau là một hình người thứ hai quay lưng vào người cưỡi hổ, trong tư thế cưỡi rồng, dáng người và trang phục giống như người cưỡi hổ, nhưng tay phải đang nắm một chân của một con hổ khác. Hai hình tượng người này chưa tìm thấy sự tương đồng ở các di tích cùng thời khác. Hình người ngồi trên lưng rồng, lưng hổ tỉ lệ lớn hơn hình tượng rồng, hổ cùng các cánh tay giơ múa săn chắc,… Qua đó cho thấy, các chi tiết miêu tả những bộ phận của cơ thể người, giữa tỷ lệ của con người so với các con vật linh, động vật như rồng, hổ,… cũng lệ thuộc theo chủ đề của hình tượng mà được kéo dài hoặc rút ngắn hơn, được phình to hoặc nhỏ lại; và nhiều khi, không phải bao giờ, sự kéo dài, phình to, teo lại, rút ngắn của những hình tượng nghệ thuật cũng đều nhau. Thực tế, việc làm này hoàn toàn không phải do trình độ hạn chế của nghệ nhân mà chính là do sự nhấn mạnh mang tính chủ ý ẩn chứa những điều cốt lõi mà không phải phô diễn hình thức và những chi tiết phụ trợ. Sự xuất hiện của đề tài này không chỉ nói về sức mạnh của con người trong việc chinh phục tự nhiên, mà còn như muốn nhấn mạnh về “bảng rồng” (biểu tượng tiến sĩ) và “bảng hổ” (biểu tượng cử nhân) trong nhận thức “phi trí bất hưng”.
Ngoài các mảng chạm khắc, hiện còn hai bức đại tự; một bức treo ở gian giữa Tiền đường, có hai chữ “Thánh Minh” và một bức treo ở Trung đường có bốn chữ “Đại lược đế vương”, bức này hiện đã hư hỏng.
– Đền thờ Lý Thường Kiệt
Đền được khởi dựng từ thế kỷ XI (theo văn bia Ngưỡng sơn Linh Xứng Tự bi minh, thế kỷ XI), tu tạo Giao Long năm thứ 13 (1814). Bố cục kiểu chữ Đinh (丁), bao gồm bên ngoài là Tiền đường nằm ngang và bên trong là một Hậu cung kiểu chuôi vồ. Nhà Hậu cung vốn là một nhà thờ nhỏ có trước, dần dần tu bổ, cơi nới làm thêm nhà Tiền đường to hơn thường có bộ vì nóc với 2 hàng cột chính (chỉ có cột cái, không có cột quân) không có cốn, dưới quá giang là chiếc bẩy tỳ lực lên đầu cột, vươn ra trực tiếp đỡ mái hiên, không gian của Hậu cung tương đối nhỏ, hẹp về bề rộng. Để mở rộng không gian thờ, nối thêm nhà Tiền đường với Hậu cung nghệ nhân xưa khéo léo làm thêm các ống máng đục bằng đá nối mái sau với mái trước của hai nhà Hậu cung và nhà Tiền đường làm cho sự liên kết khá hoàn hảo. Trong kiến trúc đền thờ Lý Thường Kiệt, đền thờ Trần Khát Chân thì phương án kết nối nhà Hậu cung với nhà Tiền đường lại là kèo “bắt quyết” ở ngay chính gian giữa. Vai trò chạm khắc trên vì kèo “bắt quyết” hay đồ án chạm trổ trước bộ khung diềm cửa nối hai nhà là rất quan trọng, để che giấu sự gá lắp, nghệ nhân tha hồ chạm hình tượng trang trí ở tiếp giáp trên vì kèo này, hay võng cửa nối hai nhà.
Khác với vì kèo “bắt quyết” ở đền Trần Khát Chân, ở đền Lý Thường Kiệt nghệ nhân đã chạm một bức hổ phù khá to, gây cảm giác choáng ngợp bởi vị trí của bức chạm này nằm ngay gian giữa Tiền đường. Hình hổ phù khối nổi cao, miệng ngậm chữ thọ, các đao mác trên đầu như những ngọn lửa bay ra phía sau, mũi như mũi sư tử, mắt tròn xếch, hai chân xòe rộng theo đường biên ôm lấy mảng chạm hình tam giác, mỗi chân có 5 móng. Điểm đặc biệt ở di tích này là hầu hết chân rồng và chân hổ phù được tạc 5 móng (theo quan niệm, đặc biệt ở thời Lê sơ, rồng 5 móng gắn với vua). Giải thích về hiện tượng rồng 5 móng xuất hiện ở di tích này, nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền cho rằng đó có thể là một trong những sáng tạo có phần “biến cải” của nghệ nhân. Ngoài ra, trong đền có hình tượng hổ phù ở hai đầu vì nóc nhà Tiền đường cũng tương đồng như ở vì kèo “bắt quyết”. Ở các vì nách, bẩy hiên chạm dày đặc hình tượng rồng, nghê, phượng, trúc hóa long,… Các mảng chạm khắc ở di tích này khối căng, mang phong cách nghệ thuật thế kỷ XIX.
Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi tạm đưa ra một số công trình nghệ thuật mang tính chất tiêu biểu, chắc chắn để làm rõ hơn cần có các công trình chuyên khảo sâu hơn nữa.
3. Tạm kết
Đền thờ xứ Thanh là nơi cộng đồng cư dân bản địa thực hành tín ngưỡng, với hàng trăm vị nhân thần, nhiên thần, nam nữ được thờ. Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ góp phần không nhỏ, phản ánh những nét đặc trưng riêng trong ý tưởng và cách thể hiện, sự phong phú về nội dung đề tài, sự đa dạng về các thủ pháp tạo hình cũng như kỹ thuật thể hiện,… đã cho chúng ta hình dung rõ hơn về quá trình phát triển nghệ thuật truyền thống của xứ Thanh, mà thế kỷ XVII, XVIII là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất của nghệ thuật điêu khắc gỗ trên vùng đất này.
Thông qua một số đền thờ cho chúng ta nhận thức, những di tích này vượt ra khỏi không gian của làng xã, trở thành di sản văn hóa của quốc gia không chỉ bởi niềm tin tôn giáo của nhân dân hay công trạng to lớn của nhân vật được thờ, mà còn ở những giá trị nghệ thuật tự thân mang tính điển hình của một thời, ẩn chứa những tư tưởng, triết lý cao đẹp, rất cần được tuyên truyền giáo dục đúng mức để phát huy có hiệu quả kho tàng văn hóa mà ông cha đã để lại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Lâm Biền (1993), Hình tượng con người trong nghệ thuật tạo hình truyền thống Việt, Nxb Mỹ thuật Hà Nội.
[2]. Trần Lâm Biền (2001), Trang trí trong Mỹ thuật truyền thống của người Việt, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Quốc Hùng (2007), Vị thế địa văn hóa xứ Thanh, tạp chí Di sản, số 9 (18), tr 46- 49.
[4]. Lê Xuân Kỳ, Hoàng Hùng, Thích Tâm Minh (2008), Các vị thần thờ ở xứ Thanh (Thanh Hóa chư thần lục), Nxb Văn học, Hà Nội.
[5]. Lê Văn Tạo – Hà Đình Hùng (2008), Nghệ thuật kiến trúc, chạm khắc gỗ truyền thống ở Thanh Hóa, Nxb Thanh Hóa.
[6]. Chu Quang Trứ (2002), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, tập I, II, Nxb Mỹ thuật Hà Nội.
[7]. Hoàng Minh Tường (2005), Tục thờ thần Độc Cước ở làng Núi, Sầm Sơn, Thanh Hóa, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
[8]. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, những vùng đất, thần và tâm thức người Việt, tái bản, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, ISSN 2588 – 1264, Số 01 (02), T1/2018
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Nghệ thuật Kiến trúc, chạm khắc gỗ tiêu biểu ở một số đền thờ của Thanh Hóa (Tác giả: TS. Trần Việt Anh) |