Nghi lễ truyền thống trong hôn nhân của người Xtiêng ở Bình Phước (Phần 1)
Tác giả bài viết: PHẠM HỮU HIẾN*; NGÔ HÀ**
(*, ** Bảo tàng tỉnh Bình Phước)
Bài viết nghiên cứu nghi lễ truyền thống trong hôn nhân của người Xtiêng ở Bình Phước qua nguồn tư liệu thứ cấp và sơ cấp từ điền dã dân tộc học ở cộng đồng người Xtiêng Bù Lơ và người Xtiêng Bù Đek. Nghi lễ hôn nhân của người Xtiêng có nội dung phong phú, mang nét đặc trưng của tộc người và phản ánh văn hóa của cộng đồng cư dân vốn sinh sống lâu đời ở vùng Bình Phước.
Từ khóa: nghi lễ hôn nhân, người Xtiêng.
x
x x
1. Giới thiệu
Theo số liệu Tổng Điều tra dân số năm 2019, tỉnh Bình Phước có 96.465 người Xtiêng(1), trong đó, đông nhất là huyện Bù Gia Mập, với hơn 22.000 người, huyện ít người Xtiêng nhất là huyện Phước Long, khoảng hơn 400 người. Xtiêng là dân tộc thiểu số cư trú lâu đời và có dân số đông nhất ở Bình Phước. Có nghiên cứu chia tộc người Xtiêng thành các nhóm: Bù Biếc, Bù Ác, Hạ Bạn (Phan An, 2007); hiện nay, có hai nhóm là Bù Lơ (vùng cao) và Bù Đek (vùng thấp). Người Xtiêng Bù Lơ sống tập trung ở các huyện Đồng Xoài, Đồng Phú, Phú Riềng, Bù Đăng, Bù Gia Mập, Bù Đốp, Phước Long; người Xtiêng Bù Đek cư trú ở các huyện Lộc Ninh, Bình Long, Chơn Thành, Hớn Quản.
Cùng dân tộc, cùng lịch sử hình thành tộc người nhưng người Xtiêng Bù Lơ và người Xtiêng Bù Đek khác nhau về vùng cư trú, sự giao thoa tiếp biến văn hóa với các cộng đồng cư dân khác trong cùng khu vực nên đã tạo ra sự khác biệt trong một số loại hình văn hóa, thành tố văn hóa.
Người Xtiêng Bù Đek gọi nơi cư trú là Wăng còn người Xtiêng Bù Lơ gọi là Poh; người Xtiêng Bù Đek ngoài canh tác nương rẫy còn có hình thức canh tác lúa nước khá phổ biến và thuần thục; người Xtiêng Bù Đek ngoài sử dụng các sản phẩm thổ cẩm còn sử dụng các loại trang phục áo bà ba, váy may kiểu váy của người Khmer…
Ngoài các lễ hội phổ biến hai cộng đồng đều có, như: lễ lập Wăng – Poh(3) mới, mừng lúa mới, cầu mưa, người Xtiêng Bù Đek còn có lễ Hanh T’raanh (còn gọi là Phá Bàu), người Xtiêng Bù Lơ có lễ Teh Bo’k – tương tự như lễ kết nghĩa; trong đan tấm trải sàn: người Bù Lơ dùng lá cây dứa dại, người Bù Đek dùng cây Run;
Sự khác nhau trong các loại hình văn hóa của hai nhánh Bù Lơ và Bù Đek góp phần làm phong phú, đa dạng văn hóa tộc người, trong đó có nghi lễ và trình thức lễ liên quan đến hôn nhân.
2. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm tác giả tổng hợp nhiều nguồn tư liệu đã được công bố để tìm hiểu các vấn đề liên quan đến văn hóa của người Xtiêng Bình Phước, như: Hệ thống xã hội tộc người của người Stiêng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến năm 1975 của Phan An (2007); Vấn đề dân tộc ở Sông Bé của Mạc Đường (1985); Truyện cổ Xtiêng do Phan Xuân Viện chủ biên (2017); nghiên cứu về múa dân gian của Nguyễn Thành Đức (2004); các báo cáo của Bảo tàng tỉnh Bình Phước (2010)… Song song đó, chúng tôi thực hiện điền dã dân tộc học, kết hợp giữa quan sát tham dự và phỏng vấn sâu(2) người Xtiêng ở thành phố Đồng Xoài, các xã Lộc Hòa (huyện Lộc Ninh), Bình Minh (huyện Bù Đăng), Phú Nghĩa, Phú Riềng (huyện Bù Gia Mập), Thiện Hưng, Tân Thành (huyện Bù Đốp), Quang Minh (huyện Chơn Thành), và thị xã Phước Long từ năm 2017 đến năm 2019.
3. Kết quả nghiên cứu
Nghiên cứu cho thấy, nghi lễ trong hôn nhân của người Xtiêng Bù Đek có lễ hỏi, lễ cưới, lễ Đạp tro; người Xtiêng Bù Lơ có lễ hứa hôn, lễ hỏi, lễ cưới, lễ Trả của và lễ rước vợ về nhà. Lễ hỏi và lễ cưới của cư dân Bù Lơ và Bù Đek cũng có nhiều nội dung khác nhau.
3.1. Các nghi lễ trong hôn nhân của người Xtiêng Bù Đek
3.1.1. Lễ hỏi
Lễ được tổ chức tại nhà gái, vào đúng ngày đã xác định từ trước, gia đình nhà chàng trai cùng ông mai, người đại diện đến nhà gái để bàn việc thực hiện các bước tổ chức lễ cưới. Khi đi, gia đình nhà trai mang theo các vật lễ gồm rượu, trầu cau, một chiếc vòng đeo tay, một con gà, ở vùng Lộc Hòa (Lộc Ninh) còn có các vật lễ không thể thiếu là khiêng, chà gạt và lao.
Sau các bước xác định điều kiện kết hôn, gia đình nhà trai tiến hành trao cho nhà gái những vật lễ đã được thỏa thuận từ trước. Đồng thời, hai gia đình sẽ quyết định ngày cưới để hai bên chuẩn bị cho lễ cưới. Sau đó, nhà trai tiến hành trao cho nhà gái các vật lễ mang theo. Bà C.T.A (xã Quang Minh huyện Chơn Thành) cho biết, trong số các vật lễ nhà gái nhận từ nhà trai, có một vật rất quan trọng, đó là chiếc vòng đeo tay. Khi nhận, cô gái không sử dụng mà trao lại vật này cho một người anh hoặc em trai. Nếu không có anh em ruột thì trao lại cho anh em họ. Người nhận được chiếc vòng này được xem là vinh dự lớn, xem như là một kỷ vật quý giá và thiêng liêng, không bao giờ bán hoặc trao tặng cho bất kỳ ai.
3.1.2. Lễ cưới
Đến ngày cưới, gia đình nhà trai mang theo các vật lễ đến nhà gái để tổ chức đám cưới. Lễ vật cơ bản có: heo đang sống (từ 2 con đến 3 con tùy điều kiện kinh tế gia đình nhà trai và sự đồng ý của nhà gái), cơm ống, hai nhánh chuối, một tấm đắp (Nđiêng hay Niêng Tất), một ít tiền. Các vật lễ bắt buộc là: chà gạt (via), lao (ta át), dao côi – mỗi thứ một cái, 2 chiếc gối, một chiếc en the’s (khiêng), một chiếc sung (rìu), một chiếc xá’s (thường gọi là gùi), một dây py nhoong (loại dây chuỗi hạt nhiều màu đeo ở cổ), bảy chiếc coan – vòng đeo tay bằng đồng (sáu chiếc nhỏ một chiếc lớn), một chiếc âu đồng, một chiếc cốc nhỏ bằng đồng dùng để đựng cau trầu mời cha mẹ trong lễ cúng thần linh, ông bà. Đặc biệt phải có hai chiếc en niêng pơ nô và en niêng pé là hai tấm vải dùng để làm tấm trùm đầu khi tiến hành nghi thức rước dâu, rước rể vào khu vực làm lễ cúng thần linh và chúc phúc.
Khi đến trước ngõ nhà gái, gia đình nhà trai cử ông mai và người đại diện mang theo vật lễ (lao, khiêng, chà gạt) thông báo việc nhà trai đã đến và xin được vào làm lễ cưới. Nhà gái cử một ông mai ngồi sẵn trên hiên nhà sàn để hát đối đáp lại. Sau nghi thức hát đối đáp giữa hai ông mai, ông mai nhà gái mời gia đình nhà trai lên nhà tiến hành các nghi thức lễ cưới.
Nhà trai bày các lễ vật để trình nhà gái. Lễ vật ngoài những thứ đã nêu ở trên còn có một chiếc hộp hình chữ nhật, trong đó đựng một ít tiền, một ít cau, trầu (trong đó phải có một miếng trầu bị thả bung khỏi nốt têm), thuốc lá, một đồng tiền xu. Khi đại diện nhà trai soạn các lễ vật xong và thông báo cho nhà gái biết, đại diện nhà gái cũng kiểm tra xem các lễ vật có đúng, đủ như giao ước trước đây không. Quá trình đó, nhà gái sẽ phát hiện miếng trầu bị bung nốt têm (do nhà trai cố tình tạo ra) và tiến hành phạt nhà trai với hình thức tượng trưng, chủ yếu là một chai rượu hoặc một ít tiền. Sau nghi thức phạt và nhận phạt này, nghi thức trao nhận lễ vật kết thúc.
Quy trình thực hiện nghi lễ cúng thần linh, tổ tiên ông bà và chúc phúc cho đôi vợ chồng diễn ra khá dài (khoảng hơn 2 giờ đồng hồ) với nhiều nghi thức. Một vật dụng rất quan trọng và không thể thiếu trong lễ cúng này là cây nêu. Ông Đ.B (xã Lộc Hòa, huyện Lộc Ninh) cho biết: người Xtiêng quan niệm cây nêu là nơi thần linh về ở và chứng kiến lễ cưới của hai vợ chồng… là cầu nối giữa thế giới thần linh với con người. Tác giả Phạm Đức Ngự cũng cho rằng: “… Người Xtiêng coi cây nêu là một vật “thiêng” của lễ hội, là cây thần linh giữa trời và đất, nơi hội tụ nguồn sức mạnh thần bí. Khi lễ hội được diễn ra, người chủ lễ sẽ tiến hành nghi thức cầu khấn thần linh nhằm tạ ơn đến các vị thần đã giúp đỡ cho dân làng sức khỏe, cuộc sống ấm no…” (Bảo tàng tỉnh Bình Phước, 2010).
Nhà gái bày soạn các lễ vật và vật dụng để thực hiện nghi lễ cúng ông bà và chúc phúc cho hai vợ chồng. Cây nêu dựng ở bên trái cửa ra vào, phía trước khu vực sẽ tổ chức các nghi thức. Chính giữa gần cửa ra vào đặt đầu heo (thường là ba cái, một lớn, hai nhỏ), tiếp đó là bốn phần cơm (trước đây đặt trên lá chuối, hiện nay đặt trong bốn chén) trong đó có thịt, cau trầu và một số thanh tre nhỏ, có chức năng sử dụng tương tự như đũa của người Kinh; một hộp nhỏ bằng gỗ đựng cau trầu, tiền, vòng đeo tay; và ba phần lễ đặt trong ba chiếc âu đồng, trong đó có gạo, một miếng cau, bốn lá trầu cắm xuống gạo theo hình thức dựa vào thành âu, dựng thẳng từ đáy âu lên miệng âu. Chính giữa hai chiếc âu cắm nến, âu giữa cắm một cây nến hình thẳng đứng, hai âu hai bên cắm cây nến tượng trưng hình người. Ngoài ra, trên mâm lễ còn có một chiếc cốc nhỏ bằng đồng để đựng cau trầu mời người thân trong buổi lễ, một chai rượu.
Nghi lễ cúng thần linh cũng là nghi lễ quan trọng của đám cưới, thành phần tham dự lễ cúng ông bà, thần linh, gồm cha mẹ cô dâu, chú rể, hai ông mai, hai người đại diện của hai bên. Cô dâu lúc này ngồi ở góc nhà, gần nơi ngủ, chú rể ngồi cách xa khu vực tiến hành nghi lễ khoảng từ 2m đến 3m. Những cô gái, chàng trai phục vụ việc rước dâu, rước rể ngồi trong khu vực tiến hành nghi lễ cưới. Trình tự lễ cưới gồm: Lễ rước dâu và rước rể, lễ cúng tổ tiên, lễ chúc phúc.
Lễ rước dâu và rước rể: do hai ông mai chủ trì, có sự tham gia của các chàng trai cô gái thực hiện nghi thức, rước cô dâu được rước trước, chú rể rước sau. Khoảng cách từ khu vực tổ chức lễ cúng với cô dâu chỉ khoảng 4m đến 5m, với chú rể cũng chỉ chưa đầy 3m. Do đó, nói là đi nhưng thực ra, hai ông mai ngồi lê từng bước, vừa “đi” vừa rót rượu mời nhau, vừa hát đối đáp. Theo sau hai ông mai là hai cô gái trong đoàn, trên tay cầm theo một chiếc lược, một chai dầu thơm, một cây nến và tấm en niêng pơ nô – tấm vải dùng để trùm người cô dâu khi rước. Khi “đoàn rước” đến chỗ cô dâu đang ngồi, hai cô gái làm động tác trang điểm tượng trưng (chải tóc, thoa dầu thơm lên tóc, lên mặt), cô gái cầm nến ngồi trước cô dâu, cô gái còn lại ngồi phía sau cô dâu, họ dùng tấm en niêng pơ nô trùm lên đầu cả ba người, rồi cùng cô dâu đứng dậy đi nhanh về nơi làm lễ cúng tổ tiên, cô dâu ngồi bên phải theo hướng nhìn ra cửa nhà. Nghi thức rước rể cũng được tiến hành tương tự, nhưng nhanh hơn do chú rể ở gần bàn lễ và hai người rước là hai chàng trai. Cô dâu và chú rể quỳ trên hai tấm niêng tất gấp thành khối, hoặc có thể là hai chiếc gối. Chú rể ở bên trái cô dâu, trước mặt họ lúc này là các lễ vật, trong đó gần nhất là ba chiếc âu đựng gạo, cau trầu.
– Lễ cúng ông bà, thần linh: khi cô dâu và chú rể đã quỳ trước bàn lễ, ông mai nhà gái tiến hành các nghi thức cúng thần linh, ông bà. Trước tiên, ông mai nhà trai lấy chén gạo ở giữa, có cắm cây nến, khấn thần linh, sau đó lấy một ít gạo trong chén tung lên không gian lễ. Ông mai nhà trai rót một ly rượu, tiến đến cây nêu, vừa rót vào hai chiếc “cốc” treo trên cây nêu, vừa khấn mời ông bà. Tiếp theo, ông mai nhà gái thắp sáng cây nến trên âu gạo trước mặt cô dâu, đưa cho cô dâu, cô dâu vái lạy rồi chuyển cho chú rể. Chú rể nhận âu gạo từ cô dâu, lạy ba lạy, lấy một ít gạo trong âu tung lên rồi chuyển cho cô dâu. Cô dâu nhận chén gạo từ chú rể, thổi tắt cây nến rồi đặt xuống vị trí cũ. Nghi thức cúng của chú rể cũng tương tự. Sau đó, hai bên gia đình sẽ lần lượt dặn dò đôi vợ chồng mới cưới về những vấn đề trong cuộc sống, từ việc đối xử với cộng đồng, trách nhiệm của gia đình mới với cộng đồng đến việc chăm lo cho cuộc sống trong tương lai. Tiếp theo, cô dâu và chú rể dâng trầu cho cha mẹ hai bên để tỏ lòng tôn kính, cô dâu dâng trầu cho mẹ chồng và chú rể dâng trầu cho mẹ vợ. Kết thúc nghi lễ, chú rể nhận ở mẹ vợ một miếng cau, một miếng trầu và một ly rượu, chú rể phải uống hết rượu, ăn trầu. Cô dâu cũng nhận từ mẹ chồng tương tự và cũng phải dùng ngay, nhưng khi uống cô dâu tuyệt đối không ói, nhổ rượu. Bà T.X. (xã Quang Minh huyện Chơn Thành), bà Đ.T.H. (xã Lộc Hòa huyện Lộc Ninh) cho biết: “Từ xa xưa, người Xtiêng cho rằng nếu làm hành vi này, cô dâu sẽ khó có con và khó sinh con”.
Sau nghi thức khấn cúng thần linh lần cuối, người đại diện nhà gái mang các chén cơm ra hiên nhà vừa khấn vừa mời vong linh những người đã mất về thụ hưởng. Cuối cùng là trình diễn cồng chiêng chúc mừng hai vợ chồng.
– Lễ chúc phúc được tiến hành sau nghi lễ cúng ông bà, thần linh. Theo trình tự, ông mai cột chỉ cho cô dâu trước, rồi đến lượt chú rể. Tiếp theo là hai bà mẹ, mẹ cô dâu cột chỉ cho cô dâu trước và cho một ít tiền vào âu đồng để mừng cho vợ chồng. Mẹ chú rể cũng làm tương tự. Khi cha mẹ hai bên, ông bà nội ngoại thực hiện xong nghi lễ chúc phúc, những người thân, họ hàng có quan hệ xa, bạn bè của cô dâu chú rể mới được phép thực hiện việc chúc phúc. Người chúc phúc thường có một món quà tặng để chúc mừng cho hai vợ chồng, ngày nay quà tặng chủ yếu là tiền mặt, họ đặt trực tiếp vào âu đồng đựng chỉ chúc phúc.
Trong khi những người còn lại đang tiến hành lễ chúc phúc, đại diện gia đình nhà trai cầm ba lễ vật gồm khiêng, chà gạt, lao, đi đến bên cây đà ngang của ngôi nhà để làm nghi thức đưa lễ vật vào nhà. Hai ông mai đứng hai bên, đại diện nhà trai tay cầm chà gạt làm động tác chặt tượng trưng vào đà ngang ba lượt, sau đó đưa qua cho đại diện nhà gái. Đại diện nhà gái cũng tiến hành động tác chặt tượng trưng ba lượt.
3.1.3. Lễ đạp tro
Trong lễ cưới của người Xtiêng Bù Đek còn có lễ Đạp tro, lễ này tiến hành tại nhà trai. Sau lễ cưới ba ngày, gia đình nhà gái gồm cha, mẹ cùng cô dâu, chú rể và một số bà con dòng họ sang nhà trai để thực hiện lễ Đạp tro. Thực chất, lễ này chính là lễ cưới được tổ chức ở nhà trai để những người thân, họ hàng của gia đình nhà trai chúc phúc, tặng quà cho cô dâu chú rể.
Khi đi, nhà gái phải mang theo những lễ vật trước đây nhà trai đã mang đến nhà gái trong ngày cưới, đó là: cau trầu, một bó mía, cơm ống, đầu heo, cổ heo, nội tạng của heo, một con gà; chiếc búa (đúng hơn là chiếc rìu – tiếng Xtiêng gọi là sung hoặc sul), một chiếc dao côi, chỉ cột tay (chỉ trắng), một chiếc sá (còn gọi là gùi), một chiếc lao, một chiếc khiên, một âu đồng và một chung đồng, một chiếc vòng đeo tay bằng bạc.
Ở chân cầu thang lên nhà, gia đình nhà trai đặt một chiếc dềnh hang (vật dụng xúc cá), trong đó đựng một ít tro, một ít trấu, một ít lá nhao (loại lá dùng để nấu canh), một ít bông gòn và một thứ không thể thiếu là một hòn đá. Khi đến nhà cha mẹ chồng, cô dâu đi trước đến nơi đặt chiếc dềnh hang. Lúc này mẹ chồng cầm sẵn chiếc bầu hồ lô có nước, một người dì của chú rể cầm một chiếc dao (sau này là chiếc kéo) chờ sẵn. Cô dâu bước đến đặt chân phải lên viên đá, mẹ chồng tay cầm bầu nước đổ vào ngón chân cái, vừa đổ vừa làm động tác rửa chân tượng trưng, sau đó cô dâu nhấc chân lên rồi đặt xuống. Kèm theo một lần nhấc lên, hạ xuống là một động tác người dì dùng dao cắt gạt lên móng chân cô dâu như là biểu trưng để làm sạch chân. Động tác vừa rửa chân, vừa nhấc chân lên đạp xuống gọi là đạp tro, mẹ chồng là người vừa làm động tác rửa chân vừa đếm số lần đạp tro của cô dâu. Khi đạp, cô dâu phải đạp lần lượt hai chân, chân phải trước rồi đến chân trái sau, chân phải đạp 7 lần, chân trái đạp 8 lần. Kết thúc nghi thức đạp tro, cô dâu đi vào nhà, đặt những lễ vật mang theo trên chiếc chiếu làm từ cây run đã được cha mẹ chồng chuẩn bị sẵn và ngồi luôn tại đó để tiến hành nghi lễ cúng thần linh, ông bà.
Sau các nghi lễ cúng thần linh, bà mẹ chồng tiến hành cột chỉ vào cổ tay cho cô dâu, chúc phúc và tặng cô dâu một vòng đeo tay bằng bạc, một ít tiền. Xong nghi lễ này, chú rể ra ngồi cùng cô dâu, hai tay ngửa lên, lòng bàn tay trải một chiếc khăn, trên đó đặt một chiếc rìu, một cái búa. Lần lượt từng người trong gia đình vào tiến hành nghi thức khấn xin thần linh và chúc phúc cho hai người. Ý nghĩa của việc đặt búa, rìu lên chiếc khăn chung trong lòng bàn tay có lẽ là hàm ý cầu mong hai vợ chồng được sống vững bền, gắn kết, đồng thời nhắc nhở hai vợ chồng phải siêng năng lao động để tạo ra của cải nuôi sống gia đình.
Người thân cũng tiến hành chúc phúc như ở nhà gái, tuy nhiên, chỉ dành cho những người chưa thực hiện nghi lễ này ở nhà gái. Cùng với động tác của người chúc phúc, cô dâu và chú rể cũng thực hiện động tác úp ngửa bàn tay có cầm các vật dụng là búa, rìu bảy lần. Cuối cùng, người chúc phúc tiến hành cột chỉ vào tay của cô dâu hoặc chú rể để đánh dấu sự kết thúc của lễ chúc phúc. Khi chúc phúc, những người tham gia sẽ tặng quà cho cô dâu chú rể. Quà tặng có thể là tấm niêng tất, tấm en điêng và thường gói trong đó một ít tiền. Khi nào không còn ai thực hiện nghi thức chúc phúc nữa, lễ Đạp tro sẽ kết thúc.
Sau nghi lễ Đạp tro kết thúc, hai vợ chồng ở lại nhà trai bao lâu tùy ý. Nhưng sau đó phải quay về sinh sống bên nhà gái. Họ bước vào cuộc sống mới trong niềm hân hoan của gia đình hai bên và cộng đồng.
Còn tiếp: Kính mời đọc giả xem tiếp phần 2
Nghi lễ truyền thống trong hôn nhân của người Xtiêng ở Bình Phước (Phần 2) – Các nghi lễ trong hôn nhân của người Xtiêng Bù Lơ
Nguồn: Tạp chí Khoa học Xã hội, số 8 (264), năm 2020
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)