Ngôn ngữ học Xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng (Phần 2)

Tác giả: TRẦN THANH ÁI
(Khoa Sư phạm, Trường Đại học Cần Thơ)

3. Ngôn ngữ học Xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng

     Sự khủng hoảng của ngôn ngữ học hình thức nói chung và ngôn ngữ học cấu trúc nói riêng đã phát sinh nhu cầu cần phải đổi mới trong ngành nghiên cứu ngôn ngữ, như nhận định của P. Kuentz:

     “Vấn đề đặt ra cho việc nghiên cứu ngôn ngữ hiện nay là phải xây dựng một ngành ngôn ngữ học mới. Nói như thế không có nghĩa là phải vượt lên trên ngôn ngữ học, mà là giúp ngôn ngữ học tự vượt lên trên chính mình, nghĩa là phải vừa mở rộng lĩnh vực nghiên cứu của nó, vừa duy trì yêu cầu kiểm tra nghiêm ngặt những thao tác ấy. Dấu hiệu của một sự biến đổi trong lĩnh vực này ngày càng rõ nét. Bây giờ chỉ còn việc là tạo ra những công cụ cho phép mở rộng quyền lực của ngôn ngữ học mà không làm mất đi tính chất nghiêm ngặt của tiến trình” (dẫn lại từ Kerbrat-Orecchioni, 1980: 5).

     Nhu cầu đổi mới đó được hiện thực hóa bằng sự ra đời của ngôn ngữ học xã hội để giải quyết những vấn đề mà xã hội đặt ra cho ngành ngôn ngữ học. Đó là các vấn đề liên quan đến sự biến đổi bên trong một hệ thống ngôn ngữ, các hiện tượng xung đột ngôn ngữ, các vấn đề dạy và học ngôn ngữ…

     “Ngôn ngữ học hình thức, sau khi đã giải quyết được nhiều sự kiện ngôn ngữ, đã tỏ ra bất lực, không thể kham nổi hiện tượng biến đổi ngôn ngữ, và đồng thời, nó cũng không giải đáp được những câu hỏi mà nó đã từ chối nêu ra nhưng cuộc sống lại đặt ra với nó, những câu hỏi về vị trí và vai trò của các hiện tượng ngôn ngữ trong xã hội: hai bất lực này (…) dẫn đến việc xem xét lại ngôn ngữ học hình thức và việc đăng quang của cái mà những người lạc quan gọi là một ngành học, còn những người bi quan thì gọi là một nhãn hiệu: đó là ngôn ngữ học xã hội” (Marcellesi, 1980: 4).

     Điều đó không có nghĩa là ngôn ngữ học hình thức không còn vai trò của nó nữa. J.-B. Marcellesi đã không ít lần lưu ý rằng sự thành công của ngôn ngữ học xã hội không hề có nghĩa là ngôn ngữ học hình thức là vô ích, phù phiếm. Mỗi ngành nghiên cứu nhằm giải đáp một số vấn đề, nhưng trong số những vấn đề ấy, có những vấn đề cấp bách hơn những vấn đề khác.

     3.1 Một số quan niệm khác nhau về ngôn ngữ học xã hội

     Thuật ngữ sociolinguistique gồm hai yếu tố: socio-linguistique và có thể được hiểu theo hai cách khác nhau: thứ nhất, socio– có thể được coi là tiền tố phái sinh của từ social (thuộc về xã hội), như trong các cụm từ socioculturel (văn hóa xã hội) hoặc socioéconomique (kinh tế xã hội). Giải thích như thế chẳng khác nào cho rằng thuật ngữ sociolinguisque bao hàm một sự trùng lắp ý, bởi vì bản thân ngôn ngữ học đã mang bản chất xã hội. Cách giải thích thứ hai cho rằng socio– là từ viết tắt của sociologie (xã hội học). Như thế, sociolinguistique là ngành nghiên cứu những hiện tượng ngôn ngữ bằng cách sử dụng những công cụ nghiên cứu mà ngành xã hội học đã tạo ra.

     Thật ra, vấn đề không chỉ đơn giản như vậy. Fishman (1971) đã cố gắng đưa ra định nghĩa về thuật ngữ này bằng cách xác định nhiệm vụ nghiên cứu của nó:

     “Ngôn ngữ học xã hội nhằm xác định ai nói? bằng ngôn ngữ nào? khi nào? về vấn đề gì? và nói với ai? Vì thế ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu đặc điểm của những dạng thái khác nhau của ngôn ngữ, đặc điểm của chức năng của chúng và đặc điểm của người sử dụng chúng, vì cho rằng ba yếu tố này không ngừng tác động qua lại với nhau và biến đổi ngay trong cộng đồng ngôn ngữ.” (Fishman, 1971: 68).

     Theo Todorov (1972), ngôn ngữ học xã hội nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động ngôn ngữ và xã hội hoặc nền văn hóa, hoặc tập tính của con người. Chính vì thế, tác giả này cho rằng đây không phải là một ngành khoa học duy nhất, mà là một tập hợp gồm nhiều ngành nghiên cứu khác nhau và tính chất đa dạng này thể hiện qua các tên gọi của nó: xã hội học về hoạt động ngôn ngữ (sociologie du langage), ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistique), ngôn ngữ học chủng tộc (ethnolinguistique), nhân chủng học ngôn ngữ (anthropologie linguistique), ngôn ngữ học nhân chủng (linguistique anthropologique)…

     Qua cách quan niệm mối quan hệ giữa ngôn ngữ và xã hội, người ta phân biệt hai phương pháp nghiên cứu của ngành ngôn ngữ học xã hội như sau:

     3.1.1 Quan niệm xem xã hội và hoạt động ngôn ngữ có mối quan hệ nhân quả

     Khái quát về quan niệm này, Ducrot diễn đạt mối quan hệ giữa xã hội và hoạt động ngôn ngữ trong sự quan tâm của ngôn ngữ học xã hội như:

     “Người ta nêu ra sự tồn tại của hai thực thể riêng biệt: hoạt động ngôn ngữ và xã hội (hoặc văn hóa…), ta nghiên cứu thực thể này qua sự tồn tại của thực thể kia. Ta xem cái này như là nguyên nhân, cái kia như là kết quả và ta nghiên cứu kết quả nhằm tìm hiểu nguyên nhân, hoặc ngược lại, tùy theo việc thực thể nào sẵn sàng cho sự phân tích chặt chẽ. Nhưng thường thường, xã hội là mục đích của nghiên cứu, và hoạt động ngôn ngữ là trung gian để đạt đến mục đích nghiên cứu” (Ducrot & Todorov, 1972: 84).

     Trong quan niệm này, có hai khuynh hướng ngôn ngữ học xã hội trái ngược nhau:

     Quan niệm xem xã hội là nhân tố quy định ngôn ngữ

     Theo quan điểm truyền thống, xã hội quy định mọi hoạt động ngôn ngữ. Vì thế, việc nghiên cứu các biến thể ngôn ngữ (variantes linguistiques) sẽ cho phép xác định các biến thể xã hội học (variantes sociologiques) đã tạo ra chúng. Chẳng hạn trong tiếng Việt, ta có nhiều từ khác nhau để xưng hô trong khi trò chuyện: ông, bác, chú, anh, cậu, cháu, em… để gọi người đối thoại là nam giới, bà, bác, cô, chị, em, cháu... để gọi người đối thoại là nữ giới. Phân tích những trường hợp sử dụng các từ xưng hô ấy cho phép nhà nghiên cứu rút ra được những kết luận về mối quan hệ giữa những người tham gia trò chuyện, đồng thời đưa ra những phác họa về cấu trúc xã hội mà các chủ thể nói năng đang sống: các dạng xưng hô phong phú trong tiếng Việt thể hiện một cấu trúc xã hội chặt chẽ, có nhiều tầng lớp (hiérarchisé) (xem Nguyễn Phú Phong, 1995). Roger Brown (Hoa Kỳ) là người đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực này và KerbratOrecchioni (1990, 1992, 1994) ở Pháp đã phác họa nên bức tranh khá toàn diện về những nghi thức lời nói của nhiều dân tộc trên thế giới để cho thấy sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ phản ánh sự khác biệt về cấu trúc xã hội.

     W. Labov xuất phát từ quan niệm “hoạt động ngôn ngữ là biểu hiện nhạy cảm của các quá trình xã hội”, đã tiến hành nghiên cứu những biến thể âm vị (variantes phonologiques) trong phương ngữ của dân cư ở New York, từ đó tìm ra mối liên hệ của hoạt động ngôn ngữ với sự khác biệt xã hội (nghề nghiệp, trình độ văn hóa, thu nhập,…). “Phương hướng nghiên cứu này mang đậm nét xã hội học và ta có thể gọi nó là ngôn ngữ học xã hội (sociolinguistique)” (Todorov, 1972: 85).

     Quan điểm này được thể hiện rõ trong các công trình nghiên cứu về lịch sử từ vựng, theo đó, từ ngữ được quy định bởi những khám phá khoa học, kỹ thuật và những biến đổi xã hội.

     Quan niệm xem ngôn ngữ là nhân tố quy định xã hội

     Một khuynh hướng nghiên cứu khác xuất phát từ quan điểm ngược lại, theo đó hoạt động ngôn ngữ không phải là sự phản ánh của các cấu trúc văn hóa, xã hội hoặc tâm lý, mà là nguyên nhân của chúng. Nói cách khác, các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này cho rằng chính hoạt động ngôn ngữ quy định xã hội, thậm chí, như R. Barthes đã nói, “ngôn ngữ là phát xít, vì nó buộc người ta phải nói; ngôn ngữ là nơi ẩn chứa quyền lực của con người…, nói chính là chế ngự” (1978: 12). Chính vì thế, để tìm hiểu văn hóa, xã hội của một cộng đồng dân cư, người ta có thể nghiên cứu các hoạt động ngôn ngữ. Người ta gọi đó là ngôn ngữ học chủng tộc (ethnolinguistique). Đại diện cho khuynh hướng này là W. von Humboldt. Ông cho rằng hoạt động ngôn ngữ tổ chức (organiser) và quy định thế giới quanh ta. Quan điểm của Humboldt đã làm nền tảng cho nhiều khuynh hướng nghiên cứu khác:

     a) Phái “Humboldt mới” ở Đức (Weisgerber, Trier, Porzig,…): Theo họ, hoạt động ngôn ngữ gắn liền với một thế giới quan, vì mỗi dân tộc có một ngôn ngữ, nên nghiên cứu một ngôn ngữ có thể biết được tinh thần cũng như tính cách của dân tộc đó. Việc nghiên cứu này dựa trên phân tích các trường ngữ nghĩa (champs sémantiques) trong thế giới tự nhiên cũng như trong đời sống vật chất hoặc tinh thần, vì các trường ngữ nghĩa ấy được cơ cấu khác nhau giữa ngôn ngữ này với ngôn ngữ khác: khái niệm “đất nước” trong cụm từ Việt Nam, đất nước và con người chẳng hạn, được thể hiện bằng cách kết hợp “đất” và “nước”, nhưng trong tiếng Pháp (hoặc tiếng Anh chẳng hạn), cách thể hiện khái niệm này hoàn toàn khác (P.: pays, A.: country).

     b) Phái “Sapir-Whorf” ở Hoa Kỳ: khuynh hướng này rất thịnh hành trong những năm 30 và 40. Dựa trên những kết quả nghiên cứu của Sapir, Benjamin Lee Whorf muốn chứng minh rằng các phạm trù cơ bản nhất của tư tưởng như là thời gian, không gian, chủ thể, khách thể,… không giống nhau giữa các ngôn ngữ không cùng ngữ hệ, chẳng hạn như giữa tiếng Anh và tiếng Hopi của các bộ lạc da đỏ. Khác với phái Humboldt mới, Whorf quan tâm đến các phạm trù ngữ pháp hơn là những cấu trúc từ vựng.

     c) Khuynh hướng thứ ba của các nhà chủng tộc học (ethnologues) Hoa Kỳ, nhằm mô tả các “danh mục từ ngữ” của tiếng nói dân bản địa, như từ chỉ quan hệ họ hàng, màu sắc, cây cỏ và muông thú, bệnh tật và nghề nghiệp,… (công việc mà ngày nay người ta gọi là ethnoscience (tạm dịch là khoa học chủng tộc, khác với khoa chủng tộc học – ethnologie). Các công trình này cũng gần giống với công trình của Trier, nhưng chúng không nhằm tìm hiểu “tinh thần dân tộc” đã được giả định.

     Quan niệm xem ngôn ngữ và xã hội có sự đồng biến

     Khuynh hướng thứ ba, cho rằng có một sự đồng biến (covariance) giữa các hiện tượng xã hội và ngôn ngữ. Tuy nhiên, khuynh hướng này lại phân hóa theo hai quan điểm trái ngược nhau:

     a) Quan điểm thực chứng luận mặc dù nhìn nhận hiện tượng đồng biến, nhưng từ chối khái quát thành tính nhân quả của hiện tượng này.

     b) Quan điểm biện chứng cho rằng có sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả tương hỗ giữa các hiện tượng xã hội và hiện tượng ngôn ngữ. Mối quan hệ này thể hiện bởi vô vàn những tương tác phức tạp, trong đó, một hiện tượng của lĩnh vực này là hậu quả của nhiều nguyên nhân từ lĩnh vực kia và ngược lại. Những nhà nghiên cứu theo quan điểm này cho rằng sự đồng biến hàm chứa nguyên lý nhân quả, theo đó, chính nhu cầu quan hệ xã hội đã sản sinh ra ngôn ngữ. Vì thế, việc mô tả tính chất đa dạng ngôn ngữ chính là lịch sử các mối quan hệ xã hội. Đến đây, chúng ta nhận thấy rằng khái niệm đồng biến bắt nguồn từ khái niệm sự tương ứng tổng quát (correspondance générale) mà J. Dubois đã chứng minh trong công trình xuất bản năm 1962: Le vocabulaire politique et social en France de 1869 à 1872 (Từ vựng chính trị và xã hội ở Pháp từ năm 1869 đến 1872). Nổi bật nhất về quan điểm này là trường phái Rouen, mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau.

     3.1.2 Quan niệm xem hoạt động ngôn ngữ như là một hoạt động xã hội, một loại tập tính

     Khuynh hướng nghiên cứu này không nhằm đối lập xã hội với hoạt động ngôn ngữ, mà tạo ra đối tượng nghiên cứu mới là hoạt động ngôn ngữ với tư cách là một hoạt động xã hội. Các nhà nghiên cứu theo khuynh hướng này cho rằng mối quan hệ giữa xã hội và hoạt động ngôn ngữ không phải là mối quan hệ nhân quả, mà là quan hệ họ hàng, vì chúng cùng chịu sự chi phối bởi một nhân tố sâu kín hơn, mà theo D. Hymes, đó là văn hóa. Người ta gọi khuynh hướng này là nhân chủng học ngôn ngữ (anthropologie linguistique). Thật ra ý tưởng hoạt động ngôn ngữ có thể được xem như một phương thức hành động (mode actionnel) không phải là mới mẻ. Nhưng phải đợi đến các công trình nghiên cứu của Bronislav Malinowski thì ý tưởng ấy mới được nâng lên thành một khuynh hướng khoa học. Ông phân biệt các phát ngôn (énoncé) theo chức năng của chúng: những phát ngôn thông dụng trong các ngôn ngữ hiện đại chủ yếu nhằm diễn đạt tư tưởng, những phát ngôn thông dụng trong các ngôn ngữ “sơ khai” dùng để thực hiện một hành động nào đó. Malinowski xem các phát ngôn không có giá trị về mặt thông tin, mà chỉ có chức năng thiết lập quan hệ liên cá nhân (các phát ngôn về thời tiết, các câu chào hỏi thể hiện phép lịch sự, các câu hỏi thăm sức khỏe…) như là những minh họa cho phương thức hành động của hoạt động ngôn ngữ.

     Ý tưởng của Malinowski được nhà nghiên cứu người Anh J.R. Firth và các học trò của ông tiếp tục, nhưng ông cho rằng mọi phát ngôn đều có chức năng hành động. Chính sự nhìn nhận này đã khiến ông khẳng định tầm quan trọng của bối cảnh tình huống (contexte de situation) và gợi ý hai cấp độ nghiên cứu: cấp độ tình huống (xưng hô, chào hỏi, thiết lập quan hệ…) và cấp độ chức năng (đồng ý, khuyến khích, lên án, chịu trách nhiệm, hoặc mong muốn, nguyền rủa, thách thức, tự hào…). Nhưng Firth cũng chỉ dừng lại ở việc lập nên các danh sách trên.

     Gần như cùng thời gian ấy, Hội Ngôn ngữ học Praha cũng đã tiến hành những công việc nghiên cứu tương tự nhưng hoàn toàn độc lập với các nhà nghiên cứu người Anh. Cách tiếp cận của Hội là chức năng của ngôn ngữ, nên các thành viên của Hội không những quan tâm đến các chức năng cơ bản của hoạt động ngôn ngữ theo tinh thần của Buhler (gồm các chức năng chủ yếu như chức năng thể hiện nhằm vào nội dung quy chiếu, chức năng biểu cảm cho biết mối quan hệ giữa người phát ngôn với cái mà anh ta nói đến, và chức năng mời gọi hướng về người đối thoại), mà còn đến nhiều chức năng khác mà một phát ngôn có thể đảm nhận.

     Ở Pháp, các nhà chủng tộc học như Durkheim, Mauss, Granet luôn nhạy cảm với các vấn đề về ngôn ngữ. Các nhà ngôn ngữ như Saussure, Meillet, Vendryes luôn tìm cách gắn lý thuyết ngôn ngữ của họ với các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, phải đợi đến công trình của Marcel Cohen Vì một ngành xã hội học về hoạt động ngôn ngữ (1956) ta mới có một cái nhìn hệ thống về lĩnh vực này. Thay vì gọi chức năng (fonction), Cohen nói đến sức mạnh của ngôn ngữ (puissances du langage), và tập hợp chúng như sau:

 Lời nói và sức mạnh siêu nhiên (các lễ hội tế thần, ma thuật, lời tiên tri, tên người, tên nơi chốn…);

 Các câu nói thông dụng trong các mối quan hệ giữa người với nhau (gặp gỡ và chia tay; yêu cầu và cám ơn; chúc tụng, khen ngợi, mong ước, phàn nàn, chia buồn, đề tặng; hứa hẹn, thề nguyền; thù địch và hòa bình…);

 Thuyết phục và chỉ dẫn;

 Giải trí (văn học; sân khấu; phát thanh và truyền hình; chơi chữ…).

     Một đóng góp quan trọng của ngành nhân chủng học ngôn ngữ đến từ các triết gia Anh, là những chuyên gia về ngôn ngữ đời thường (langage ordinaire). Wittgenstein và nhất là Austin, đã tìm cách mô tả các trường hợp sử dụng khác nhau của ngôn ngữ, đã xây dựng nên khái niệm lực ngôn trung (force illocutoire). Lực ngôn trung tồn tại trong mọi phát ngôn, nó gắn liền với ngữ nghĩa nhưng không đồng nhất với ngữ nghĩa. Austin đã khảo sát tất cả các động từ trong tiếng Anh dùng để chỉ một hành động được thực hiện bằng lời nói.

     3.2 Các trường phái chủ yếu của ngôn ngữ học xã hội

     Ngôn ngữ học xã hội phát triển theo ba trường phái chính.

     Ngôn ngữ học xã hội biến đổi (sociolinguistique variationniste)

     Người xây dựng nền móng cho khuynh hướng nghiên cứu này là William Labov. Ông nghiên cứu ngôn ngữ dưới góc độ những dị biệt ngôn ngữ và như thế đối lập với Noam Chomsky, người chọn mục tiêu nghiên cứu là năng lực ngôn ngữ của một người nói/nghe lý tưởng thuộc một cộng đồng ngôn ngữ đồng nhất, dựa trên việc xét đoán về tính ngữ pháp. Ngôn ngữ học xã hội biến đổi quan tâm đến ngôn ngữ được sử dụng thật sự trong một cộng đồng ngôn ngữ, nó quan tâm đến tất cả những gì biến đổi trong một ngôn ngữ, để nghiên cứu cấu trúc xã hội của hiện tượng biến đổi ấy. Vì thế, nó không thể chọn tính chất đồng nhất ngôn ngữ làm định đề.

     Ba chủ đề xuyên suốt và gắn bó mật thiết với nhau trong các công trình nghiên cứu của W. Labov là sự thay đổi, biến thể và cộng đồng ngôn ngữ. Ba chủ đề này hình thành nên ba trục nghiên cứu không thể tách rời nhau:

      Phân tích các thay đổi ngôn ngữ đang diễn ra;

      Nghiên cứu các dữ liệu của các hoạt động ngôn ngữ tự phát;

      Quan sát các cách sử dụng ngôn ngữ trong các mạng lưới xã hội.

     Sự thay đổi ngôn ngữ

     Xuất phát từ luận điểm của A. Meillet và nhất là của U. Weinreich, theo đó mọi ngôn ngữ đều đang trong quá trình thay đổi và nhà nghiên cứu chỉ có thể nắm bắt được sự thay đổi đó bằng cách gắn nó với sự thay đổi xã hội với những biến đổi trong đời sống mà những biến thể ngôn ngữ chỉ là những hậu quả mà thôi, Labov cho rằng cần phải từ bỏ quan niệm ngôn ngữ là đồng nhất, cái cách chỉ tiến hành nghiên cứu trên cấu trúc ngôn ngữ, phải thiết lập các mối quan hệ giữa sức ép bên trong cấu trúc ngôn ngữ và sức ép bên ngoài từ xã hội. Có như thế mới có hy vọng hiểu được và giải thích được các sự thay đổi đang diễn ra hàng ngày hàng giờ trong mọi ngôn ngữ.

     Một công trình nghiên cứu thực địa của W. Labov có thể được coi là tiêu biểu cho phương pháp tiếp cận này, đó là công trình mang tên Các động cơ xã hội của sự thay đổi ngữ âm, được tiến hành trong hai năm 1961-1962 trên hòn đảo Martha’s Vineyard. Mục tiêu của công trình này là nhằm thiết lập nên lịch sử xã hội của một sự thay đổi đang diễn ra, qua cuộc sống của cộng đồng đó. Công trình không chỉ gạt bỏ mọi nguyên nhân nội tại xuất phát từ cấu trúc ngôn ngữ, mà còn tìm lời giải đáp cho ba câu hỏi luôn xuất hiện trong mọi thay đổi ngôn ngữ:

      Hiện tượng biến thể ngôn ngữ xuất phát từ đâu?

      Nó lan tỏa như thế nào?

      Nó có cái gì là ổn định?

     Các công trình nghiên cứu phương ngữ trước đó đều nhận thấy rằng một số nét ngữ âm đặc biệt của người dân đảo này đang phát triển: trong khi người dân trên đất liền phát âm các nguyên âm đôi /ay/ và /aw/ là (ai) và (au), thì người dân ở đảo phát âm là (ei) và (eu). Các biến ngôn ngữ mà Labov chọn hội đủ các điều kiện sau đây: chúng được thể hiện bằng những biến thể khác nhau, chúng có tần số xuất hiện cao, chúng thoát khỏi sự kiểm soát có ý thức của người phát ngôn, chúng thuộc về một cấu trúc rộng hơn bao gồm nhiều đơn vị chức năng, và cuối cùng, chúng có thể định lượng được. Labov đã loại bỏ phương pháp nghiên cứu lịch đại truyền thống, để nghiên cứu sự thay đổi từ những dữ liệu điều tra đồng đại. Đó cũng chính là giả thuyết cơ bản của Labov: sự biến thể quan sát được trong đồng đại thật ra là sự thay đổi ngôn ngữ; nhà nghiên cứu quan sát sự phân bố của một nét ngôn ngữ qua sự khác biệt về tập tính giữa những người phát ngôn.

     Ngôn ngữ học xã hội biến đổi mô tả tất cả những dạng biến đổi được ghi nhận không thuộc cá nhân. Nó phân biệt sự biến đổi xã hội thể hiện qua sự phân tầng mang tính chất xã hội của một biến ngôn ngữ, sự biến đổi phong cách học, xuất hiện trong cùng một diễn ngôn của một người nói. Ngoài ra, còn một dạng biến đổi nữa, không thuộc sự biến đổi xã hội cũng như sự biến đổi phong cách học, đó là sự biến đổi cố hữu, nó xuất hiện trong cùng một phong cách của cùng một người nói, phát sinh từ tính chất dị biệt nội tại trong một hệ thống ngôn ngữ.

     Biến đổi ngôn ngữ học xã hội (variation sociolinguistique)

     Đây là chủ đề xuyên suốt mà W. Labov đã đề cập đến trong các công trình nghiên cứu của ông, đặc biệt là trong tác phẩm Ngôn ngữ học xã hội (bản tiếng Anh năm 1972; tiếng Pháp năm 1976) và Ngôn ngữ đời thường (bản tiếng Anh năm 1972, tiếng Pháp năm 1978). Trước hết, Labov muốn xét lại những định đề về sự đồng nhất và sự độc lập của các hệ thống ngôn ngữ đối với các mối quan hệ xã hội, cũng như thái độ biệt lập của các nhà ngôn ngữ học mà ông gọi là bàn giấy, những người chỉ dựa vào một vài nhân chứng hoặc vào trực giác của chính họ mà sản sinh ra những dữ liệu ngôn ngữ và lý thuyết ngôn ngữ cách ly bối cảnh xã hội. Theo ông, không thể nào hình dung nổi “một lý thuyết hay một hoạt động ngôn ngữ phong phú nào mà lại không mang tính chất xã hội” (1976: 37).

     Đơn vị phân tích của ngôn ngữ học xã hội là biến ngôn ngữ học xã hội (variable sociolinguistique), tức là một thành phần ngôn ngữ đồng biến với các biến ngoại ngôn ngữ (variable extra-linguistique) như là giai cấp xã hội, giới tính, tuổi tác, cấp độ ngôn ngữ (niveau de langue)… Để xác định một biến ngôn ngữ, người ta khảo sát toàn bộ những dị bản bao gồm những cách nói khác nhau để diễn tả cùng một việc. Sau đó, người ta phân tích những điều kiện ngoại ngôn ngữ quy định việc phát ngôn của các dị bản ấy và tiến hành nghiên cứu việc phân bố xã hội và phong cách của các dị bản.

     Người ta cũng nghiên cứu những nhân tố ngôn ngữ có ảnh hưởng đến việc quyết định chọn dị bản này hay dị bản khác. Tóm lại, ngôn ngữ học xã hội không chỉ nghiên cứu các hiện tượng ngoại ngôn ngữ, nó xem ngôn ngữ như là một hệ thống biến đổi nội tại và nó nghiên cứu các biến đổi ngôn ngữ không phải vì mục đích tự thân, mà để góp phần vào việc nghiên cứu các cấu trúc ngôn ngữ cũng như hiện tượng thay đổi của ngôn ngữ.

     Ngôn ngữ học xã hội tiến hành việc phân tích bằng cách dựa vào các dữ liệu có thật được thu thập một cách có hệ thống. Phương pháp tiến hành là điều tra xã hội học về địa bàn về cách chọn mẫu phân tích, cho đến việc nghiên cứu định lượng và định tính các dữ liệu. Việc điều tra bằng cách đàm đạo thường được bổ sung bằng việc nghiên cứu cộng đồng ngôn ngữ theo quan điểm chủng tộc học.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ
Phần C: Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục: 25 (2013): 79-95

 Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

CÁC BÀI VIẾT LIÊN QUAN:
1. Ngôn ngữ học Xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng (Phần 1)

2. Ngôn ngữ học Xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng (Phần 2)

3. Ngôn ngữ học Xã hội: Những quan niệm và khuynh hướng (Phần 3)