Phật giáo Nam Bộ từ năm 1919 đến năm 1945
Tác giả bài viết: Tiến sĩ NGUYỄN VĂN TUÂN
(Viện Khoa học Tổ chức, cán bộ – Ban Tổ chức Trung ương)
TÓM TẮT
Trải qua lịch sử hình thành và phát triển, Nam bộ (Việt Nam) là một trong những vùng đất đa dạng về tôn giáo, tín ngưỡng. Đây là một trong những yếu tố góp phần hình thành lối sống văn hóa đặc trưng của người dân Nam bộ. Trong những năm từ 1919 đến 1945, dưới ách thống trị hà khắc của thực dân Pháp, cùng với các tôn giáo khác, các hệ phái của Phật giáo tiếp tục ra đời và phát triển nhanh chóng, nhất là vùng nông thôn nên đã đáp ứng được nhu cầu tinh thần của đông đảo tín đồ, Phật tử nơi đây. Thực tiễn nghiên cứu cho thấy, trong thời gian này, đội ngũ chức sắc và Phật tử Nam bộ đã có những đóng góp quan trọng vào việc tuyên truyền chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo. Vì thế, trong bài viết, tác giả làm rõ bức tranh toàn cảnh về tình hình và các hệ phái của Phật giáo, đồng thời đã đúc rút ra một số đặc điểm về tình hình Phật giáo vùng Nam bộ trong khoảng thời gian từ năm 1919 đến năm 1945.
Từ khóa: Đặc điểm; Nam bộ; Phật giáo; từ năm 1919 đến năm 1945.
x
x x
Dẫn nhập
Nam bộ là vùng đất không chỉ có bề dày tiến trình lịch sử, văn hóa mà còn là vùng đất giàu sức trẻ do các tộc người ở đây đang dày công gây dựng nên. Từ vị thế địa lý, văn hóa của vùng đất này và quá trình tiếp biến văn hóa, phần nào tạo cho tôn giáo của vùng có những nét đặc thù, diện mạo mới đối với tôn giáo ở các vùng khác trên đất nước Việt Nam. Do đó, tính mở của một vùng đất mới làm nên tính năng động, nhạy bén, thân thiện, hòa đồng, dám nghĩ, dám làm, dám đối đầu với mọi khó khăn, gian khổ của người dân nơi đây. “Tính mở” là cơ sở cho việc tiếp nhận và tiếp biến thành công nhiều loại hình tôn giáo. Do đó, vùng đất này có sự đa dạng về tôn giáo vào bậc nhất trên cả nước xét trên cả bình diện về các loại hình tôn giáo du nhập (Nho giáo, Phật giáo, đạo Thiên Chúa, Hồi giáo, Tin Lành) cũng như tôn giáo bản địa mới được hình thành (Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài…). Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, từ năm 1919 đến năm 1945 là giai đoạn chịu sự chi phối không chỉ bởi những điều kiện bên ngoài (hậu quả nặng nề của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới; chủ nghĩa phát xít xuất hiện trên thế giới và sự lớn mạnh của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế) mà còn có sự tác động của những điều kiện nội sinh của dân tộc, trong đó có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Những điều kiện bên trong và bên ngoài đã tác động mạnh mẽ đến mọi mặt kinh tế – chính trị, xã hội và văn hóa đời sống của người dân Nam bộ, trong đó đặc biệt tác động đến tình hình tôn giáo ở Nam bộ nói chung, Phật giáo vùng đất này nói riêng. Do đó, trong bài viết này, tác giả đi sâu làm rõ bức tranh về Phật giáo ở Nam bộ từ năm 1919 đến năm 1945, từ đó đúc rút ra một số đặc điểm và nhận xét về tình hình phát triển, sự ảnh hưởng của Phật giáo ở Nam bộ trong thời gian này.
1. Tình hình phật giáo Nam Bộ từ năm 1919 đến năm 1945
Trong giai đoạn từ năm 1919 đến năm 1945, Nam bộ gồm 20 tỉnh (4 tỉnh miền Đông; 9 tỉnh miền Trung và 7 tỉnh miền Tây) và 2 thành phố lớn (Sài Gòn và Chợ Lớn). Thời gian này cho thấy, Nam bộ là vùng đất không chỉ là khu vực có mật độ tín đồ đông đảo, có nhiều loại hình tôn giáo du nhập và bản địa mới nảy sinh mà còn là nơi có không gian sinh hoạt tôn giáo phức tạp nhưng lại hết sức phong phú và đa dạng. Trong thời gian này, các tôn giáo ở Nam bộ luôn có sự biến động và có sự tác động sâu rộng đến tình hình tôn giáo, chính trị – xã hội cả nước. Do đó, vấn đề tôn giáo ở Nam bộ nói chung, vấn đề tôn giáo ở Nam bộ trong những năm này nói riêng luôn nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của các học giả, nhà khoa học trong và ngoài nước.
Vùng đất Nam bộ là mảnh đất màu mỡ cho sự tiếp nhận và hình thành những tôn giáo. Tuy nhiên, tôn giáo của vùng này mang đặc trưng và cốt cách của người nông dân bởi họ không chỉ là người sáng lập ra các tôn giáo mà còn là thành phần tín đồ chủ yếu của các tôn giáo ở mảnh đất này. Bên cạnh các tôn giáo được tiếp nhận do quá trình giao lưu, hợp tác, du nhập từ các nước trên thế giới, còn lại là các tôn giáo nội sinh ở Nam bộ hình thành và phát triển trong bối cảnh của xã hội thuộc địa nửa phong kiến. Vì thế, ngay từ khi du nhập hoặc mới nảy sinh thì quan điểm các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng đã thực sự trở thành món ăn tinh thần quan trọng của người dân nơi đây. Thực tế cho thấy, cũng như sự đa dạng và quá trình hoạt động các tôn giáo khác trong thời gian này, Phật giáo tiếp tục mở rộng, phát triển tương đối sôi động thậm chí là có phần phức tạp, điều này đã ảnh hưởng đến việc xây dựng lực lượng đoàn kết tôn giáo, đoàn kết dân tộc cũng như việc thu hút, tập hợp lực lượng chức sắc, tín đồ Phật tử trong quá trình vận động cách mạng giành chính quyền năm 1945.
So với các tôn giáo khác, Phật giáo đã có mặt rất sớm ở vùng đất Nam bộ và có ảnh hưởng to lớn đến đời sống văn hóa xã hội của người dân nơi đây. Phật giáo đã theo dấu chân của những di dân ở vùng đất này ở những thời điểm khác nhau, nhưng chủ yếu tập trung ở bốn hướng: Hướng thứ nhất, Phật giáo được truyền vào do đoàn di dân từ miền Thuận – Quảng có những vị sư là người Việt, người Hoa đi theo đường bộ và đường thủy từ Đồng Nai xuống Gia Định vào thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX; Hướng thứ hai, do các nhà sư từ Trung Quốc xuống vùng Đồng Nai, Gia Định, Mỹ Tho truyền đạo (1679); Hướng thứ ba, do Mạc Cửu là người Quảng Đông sang sinh sống ở vùng đất Hà Tiên, tiến hành xây dựng chùa Tam Bảo nơi đây; Hướng thứ tư, do Hòa thượng Hộ Tông (Ngài thuộc hệ phái Phật giáo Nam tông) đã truyền bá Phật giáo Nam tông từ Campuchia vào Nam bộ1. Do thời gian và những hướng truyền bá vào vùng Nam bộ ở những thời điểm khác nhau, Phật giáo ở vùng này có những tiền đề kinh tế – xã hội cho sự hình thành và phát triển. Vì thế, ngay từ khi được hình thành và phát triển, hoạt động của Phật giáo vùng đất này có màu sắc hết sức đa dạng, có nhiều điểm mới mẻ. Những đặc điểm này có sự tiếp ứng phù hợp với lối sống, nếp sống và tư duy phóng khoáng của người dân vùng đất nơi đây. Khi thực dân Pháp xâm lược vùng đất này, Phật giáo từng bước có sự chuyển biến lớn. Ở nhiều địa phương, các ngôi chùa bị thực dân Pháp xâm chiếm, bị đập phá và bị chúng sử dụng làm đồn bốt, phòng tuyến phục vụ cho cuộc xâm lược, đô hộ của chúng. Đội ngũ Tăng, Ni sư của một số chùa bị thực dân Pháp bắt đi lính, nô dịch cho chúng. Một bộ phận Tăng sư khác âm thầm theo các phong trào yêu nước đấu tranh chống thực dân Pháp. Trong khoảng thời gian này, hầu hết các bộ Kinh sách lớn của Phật giáo bị thất lạc hoặc bị đốt phá. Có thể nói, đây là giai đoạn Phật giáo vùng Nam bộ rơi vào tình trạng suy thoái nghiêm trọng.
Để khắc phục tình trạng đó, lúc này ở nhiều nơi của Nam bộ đã diễn ra phong trào Chấn hưng Phật giáo cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Phong trào này càng ngày càng diễn ra mạnh mẽ, thu hút được đông đảo Tăng sư, tín đồ Phật tử tham gia, nhất là đội ngũ Tăng sư có trình độ cao. Phong trào này diễn ra ở nhiều hình thức khác nhau như: Hoạt động tuyên truyền, giảng dạy Phật giáo diễn ra ở tổ đình Khánh Hòa do Tổ Khánh Hòa (Hòa thượng Như Trí) một vị cao tăng có học vấn uyên bác, là người đi đầu trong phong trào Chấn hưng Phật giáo ở vùng đất Nam bộ; Tổ chức “Lục Hòa Liên xã” ra đời năm 1923. Đây được coi là tổ chức đặt viên gạch đầu tiên của Phong trào Chấn hưng Phật giáo, tập trung đi sâu vào hoạt động chỉnh đốn tăng già, tạo dựng Phật học đường và tiến hành hoạt động dịch thuật và xuất bản kinh sách Việt ngữ. Ngoài ra, trong thời gian này, phong trào còn diễn ra một số hoạt động cụ thể khác sôi nổi, thu hút đông đảo tăng sư và tín đồ Phật tử tham gia như: Tích cực viết các bài có nội dung chỉnh đốn Phật giáo ở Nam bộ; Tiến hành diễn thuyết trước công chúng, tín đồ về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc canh tân đất nước và sự cần thiết phải đưa đạo Phật vào cuộc sống của các chí sĩ yêu nước tiêu biểu như Nguyễn An Ninh và Phan Chu Trinh…
Vào năm 1930, Hòa thượng Khánh Hòa tiếp tục khai mở các lớp học luân phiên ở một số địa phương lấy tên là “Phật học Liên xã” do Lục hòa Tăng Nam Việt đảm nhiệm chu cấp việc học và tiền học tại chùa Phước Long (Trà Ôn), sau đó đến chùa Lòng Phước (Trà Vinh), chùa Viên Giác (Bến Tre), … Mỗi khóa tu từ 80 đến 100 học tăng2. Đặc biệt, trong thời gian này, Hòa thượng tích cực tham gia và cho xuất bản tập san Phật Hóa Tân Thanh Niên bằng chữ quốc ngữ. Tập san có nhiều nội dung tiến bộ nhằm thu hút hàng ngũ cư sĩ trí thức và Tăng sĩ trẻ ở Nam bộ. Dù tập san chỉ tồn tại không lâu do tác động từ nhiều yếu tố, song đã có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với Phong trào Chấn hưng Phật giáo vùng đất này.
Cùng với Phật giáo, các tôn giáo khác có sự thay đổi để phù hợp với mảnh đất, con người nơi đây, trong đó Nho giáo tiếp tục được “cải cách” tương đối mạnh mẽ cả về cách thức tiếp cận và truyền đạt. Phong trào Chấn hưng Phật giáo được hình thành và duy trì với nhiều hình thức mới, phù hợp với điều kiện cụ thể lúc bấy giờ như: Thuyết pháp, in kinh sách, báo chí, mở trường cho tới khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra. Phong trào Chấn hưng Phật giáo sôi nổi này đã làm sống lại một giáo phái là Bửu Sơn Kỳ Hương để trở thành một hình thức Phật giáo cách tân tức là đạo Hòa Hảo3 của Huỳnh Phú Sổ ngày 5/7/1939.4
Có thể nói, từ đầu thế kỷ XX đến năm 1939 là giai đoạn đầu Chấn hưng Phật giáo: Phát triển và nâng cao bổn phận, trách nhiệm, trình độ của đội ngũ Tăng sư; Tiến hành dịch một số kinh sách ra tiếng Việt để cho tín đồ Phật tử dễ tiếp cận; Hoạt động Phật sự cũng được mở rộng để phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội của vùng và đời sống, nhu cầu tâm linh của người dân. Từ khi bắt đầu tiến hành vào những năm 1919, phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam bộ đã đạt được những thành tựu đáng kể, Phật giáo vùng Nam bộ tiếp tục được hình thành và phát triển dưới ba dạng tổ chức cơ bản như: Hội An Nam Phật Học, Phật học Tùng thư, Hội chùa và hội Phật giáo Cứu quốc, Hội Tịnh độ Cư sĩ…
Hội Nam bộ Nghiên cứu Phật học được thành lập với Điều lệ được chuẩn y vào ngày 26 tháng Tám năm 1931. Thiền sư Từ Phong của chùa Giác Hải ở Chợ Lớn được bầu làm Chánh hội trưởng. Hòa thượng Khánh Hòa giữ trách vụ Phó Nhất Hội trưởng của Hội và đảm trách Chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm5 . Tuy nhiên, thực tế cho thấy, chương trình của Hòa thượng Khánh Hòa đưa ra bị thất bại vì các thiền sư không có thực quyền, bị một số cá nhân sử dụng địa vị xã hội của họ để kiểm soát định hướng, hoạt động của Hội. Bởi, sự thỏa hợp với chính quyền là nhằm đảm bảo an toàn và quyền lợi của Hội. Tuy vậy, những quyền lợi đó không có gì đáng kể so với sự trả lại ruộng đất các chùa bị chiếm hữu tại các xã và sự miễn thuế thân cho tu sĩ Phật giáo. Sau hai khóa học tiếp theo được tổ chức tại chùa Thiên Phước (Trà Ôn) và chùa Viên Giác (Bến Tre) thì lớp Phật học này bị tan rã vì không đủ tài chính duy trì.
Phật học Tùng thư: Nhà xuất bản Phật Học Tùng Thư viết bằng chữ quốc ngữ do cư sĩ Đoàn Trung Còn thành lập tại Sài Gòn. Từ năm 1931, Nhà xuất bản này đã cho ra đời một loạt cuốn các sách có giá trị nhằm truyền bá Phật giáo đến với quần chúng, tín đồ Phật tử như: Chuyện Phật đời xưa, Văn minh Nhà Phật qua Tàu, và Triết lý Nhà Phật. Những sách này lần đầu được nhà Agence Saigonnaise de Publicité ấn hành. Tiếp đó xuất bản các sách truyện như: Truyện Phật Thích Ca (1932), Tăng đồ Nhà Phật (1934) và Các Tông phái đạo Phật ở Viễn Đông (1935). Có thể thấy, cư sĩ Đoàn Trung Còn là một Phật tử tân học, có đóng góp quan trọng, tích cực vào Chấn hưng Phật giáo thông qua việc nghiên cứu, biên tập sách hoặc phiên dịch tài liệu từ phương Tây và cho ra đời các bộ sách chủ đề về Phật giáo rất có giá trị và được lưu hành rộng rãi ở khắp các vùng, miền trong cả nước lúc bấy giờ.
Hội An Nam Phật Học: Trong cuốn Việt Nam Phật giáo Sử luận, tác giả Nguyễn Lang cho rằng, trong thời gian này, ngay từ khi ra đời Hội An Nam Phật Học đã tạo tiếng vang lớn nhất cho phong trào Chấn hưng Phật giáo ở Nam bộ lúc bấy giờ. Quá trình thành lập Hội xuất phát từ việc Ông Trần Nguyên Chấn không chịu khai giảng Phật học đường, hai Thiền sư Khánh Hòa và Huệ Quang liền bỏ về Trà Vinh và lập ra Liên Đoàn Phật Học Xã (1933). Đây được coi là Phật học đường lưu động, cứ ba tháng lại thay đổi cơ sở hoạt động bởi yếu tố kinh tế. Khóa học đầu tiên của Hội được tổ chức tại chùa Long Hòa ở Tiểu Cần, khóa thứ hai được tổ chức tại chùa Thiên Phước ở Trà Ôn. Tuy nhiên, sau khi hoàn thành khóa thứ ba tại chùa Viên Giác ở Bến Tre thì Hội tan rã. Trước tình hình đó, một số vị cao tăng có uy tín như: Hòa thượng Khánh Hòa, Hòa thượng Huệ Quang, Hòa thượng Khánh Anh và Hòa thượng Pháp Hải đã hợp tác với một số cư sĩ tại Trà Vinh thành lập hội Lưỡng Xuyên Phật học để bảo trợ Phật học đường, được tổ chức khai giảng khóa đầu tiên vào năm 1934. Trong thực tiễn Hội đã đào tạo được các vị tăng tài như Thiền sư Thiện Hòa, Thiện Hoa, Hành Trụ, Chí Quang, Hiển Thụy và Chánh Quang, v.v… Nhưng do thiếu hụt tài chính nên đến năm 1939 trường phải đóng cửa, một số Tăng sinh được gửi ra học tại Sơn môn Phật học Huế và một số thầy tỏa đi các tỉnh để mở lớp Tiểu học cho đội ngũ Tăng, Ni: Thầy Giác Tâm tham gia giảng dạy ở Sa Đéc, thầy Chí Thiện về dạy ở Phú Nhuận và thầy Bửu Ngọc đứng lớp tại Kế Sách. Đến những năm 1940, do yêu cầu thực tiễn lúc bấy giờ, các tổ chức hội Phật giáo chú trọng đặc biệt đến hoạt động giáo dục cho thanh thiếu niên thì Hội An Nam Phật Học mở lớp học đặc biệt dạy về Phật học, Lão học và Khổng học cho thanh niên tân học.
Hội Tịnh độ Cư sĩ: Ngay sau khi thành lập, Hội đã cho ra đời tạp chí Pháp Âm và đặt cơ sở hoạt động tại chùa Tân Hưng Long, xã Phú Định, Chợ Lớn; Tôn tăng sĩ Minh Trí làm Tông sư Chứng minh, suy cử các ông Lê Văn Hậu đảm trách Chủ nhiệm Pháp Âm và Trần Quỳnh làm Chủ bút của tạp chí. Tạp chí Pháp Âm của Hội đã thu hút được nhiều học giả tham gia với tiếng nói mạnh mẽ về Chấn hưng Phật giáo trong thời gian này, tiêu biểu như Đông Giao, Ngộ Không và Quốc Tri. Trong những năm này ở Nam bộ, hầu hết các tỉnh đều có các chùa tham gia hội song tập trung chủ yếu tại các tỉnh Cần Thơ, Ba Xuyên, An Xuyên và Gia Định. Theo nghiên cứu cho thấy, đa số những chùa này đều có đội ngũ Tăng sĩ trụ trì, hướng dẫn nghi lễ tụng niệm cho tín đồ Phật tử. Một trong những hoạt động Phật sự tiêu biểu ở các chùa Tịnh Độ Cư Sĩ là mở phòng thuốc Nam cung cấp thuốc cho người dân trong vùng. Nhiều tài liệu nghiên cứu ghi nhận, các chùa thường xuyên tổ chức các đoàn bao gồm các tăng sĩ và Phật tử vào rừng hái thuốc, chế biến, bảo quản và cất trữ cẩn thận trong chùa: “Phòng thuốc nào cũng biết phối hợp các thứ lá cây này để làm thành những thang thuốc chữa các bệnh phổ thông như cảm, cúm, rét rừng, ho, đi tiêu, v.v… Hầu hết các chùa Tịnh Độ Cư Sĩ ở miền quê đều có mở một phòng thuốc như vậy”.6
Cũng thời gian này, bên cạnh những tổ chức nói trên, Phật giáo Nam bộ còn có những tổ chức hội mới: Hội Thiên Thai Thiền Giáo Tông Liên Hữu (do Thiền sư Huệ Đăng sáng lập, trụ sở đặt tại chùa Thiên Thai, Bà Rịa – Vũng Tàu) và Hội Phật giáo Tương Tế (ở Sóc Trăng) được thành lập cùng trong năm 1934. Tuy nhiên, hoạt động của những hội này còn nhỏ lẻ, bó hẹp trong phạm vi địa phương nơi cư trú, không ra được tạp chí, cơ quan ngôn luận, không có ảnh hưởng đáng kể đến tư tưởng, lối sống, nếp sống người dân, của tín đồ Phật tử, đồng thời không ảnh hưởng đến cục diện chính trị – xã hội Nam bộ lúc bấy giờ.
Có thể thấy, các Hội Phật học ra đời là sự khẳng định tiếp nối sự Chấn hưng Phật giáo mạnh mẽ ở Nam bộ. Trong nhiều tổ chức hội được thành lập, chúng ta có thể nhận thấy tinh thần Chấn hưng Phật giáo luôn được gắn liền với tự tôn dân tộc, thông qua quá trình hoạt động của mình để thể hiện tinh thần độc lập dân tộc, dân chủ và chống giặc ngoại xâm như: Năm 1931, Nam bộ nghiên cứu Phật học hội ra đời, đặc biệt là cuốn “Phật hóa tân thanh niên” của Hội đã mang tư tưởng canh tân, phát huy tinh thần dân tộc, dân chủ và đưa ra quan điểm chống lại kẻ thù xâm lược và đô hộ dân tộc. Năm 1936, Hội Phật học Kiêm tế thành lập, cũng chủ trương không chỉ tập trung vào hoạt động Phật học mà còn cần tập trung vào cả nhiệm vụ thực hành “Kinh bang tế thế”. Ngoài ra, trong thời gian này, nhiều ngôi chùa của Hội đã trở thành căn cứ địa kháng chiến bí mật buổi đầu của cách mạng, là nơi tuyên truyền về tinh thần yêu nước, chống thực dân Pháp và bè lũ tay sai và sau này còn là nơi để tuyên truyền về mô hình tốt đẹp Chủ nghĩa xã hội.
Cùng trong khoảng thời gian này, còn xuất hiện các Hội chùa (Hội Tương tế) là tổ chức hội do cư sĩ Phật tử thành lập với mục đích giúp đỡ lẫn nhau nên mang đậm tính chất xã hội dân gian tương tế. Khi mới hoạt động Hội gặp nhiều khó khăn do sự khống chế, gây áp lực của thực dân Pháp và nội bộ còn chưa ổn định. Sau này, dưới ảnh hưởng tích cực của Thiền sư Thiền Chiếu, hoạt động của Hội được giữ vững và có sự ảnh hưởng nhất định đến một bộ phận không nhỏ tín đồ Phật tử. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, Hội đã tích cực tham gia vào phong trào chống lại bọn phản động, tay sai cho thực dân Pháp và góp phần loại bỏ những loại thuế vô lý lúc bấy giờ. Đồng thời, Hội còn tích cực hưởng ứng những hoạt động của phong trào Đông Dương Đại hội, ủng hộ Mặt trận Bình dân Nam bộ.
Với sự nỗ lực của đội ngũ Tăng, Ni và tín đồ Phật tử chân chính, Phật giáo vùng Nam bộ đã khôi phục và gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng. Một ghi nhận lớn trong quá trình Chấn hưng Phật giáo ở vùng Nam bộ trong giai đoạn này là phát huy truyền thống Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, nhiều vị Tăng sĩ yêu nước thông qua những buổi giảng dạy về giáo lý, giáo luật, đã tuyên truyền, khơi dậy truyền thống yêu nước, đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết tôn giáo, đánh đuổi giặc ngoại xâm. Việc tuyên truyền này có ý nghĩa tích cực và ngày càng được mở rộng ở nhiều địa phương, nhất là ở các vùng nông thôn Nam bộ.
Ngay từ đầu những năm 1940, một số chùa ở Nam bộ đã trở thành nơi hội họp, nuôi giấu cán bộ cách mạng, tiêu biểu như: Năm 1943, chùa Cao Dân được Mặt trận Việt Minh chọn làm cơ sở cách mạng, nuôi giấu cán bộ và tổ chức hoạt động bí mật. Đến tháng 12/1945, cũng tại nơi đây, Thường vụ Liên tỉnh ủy miền Tây, Khu bộ trưởng (Tư lệnh) Quân khu 9 chọn làm địa điểm tập trung các đơn vị quân chủ lực để củng cố lực lượng. Lúc này tình hình Nam bộ gặp rất nhiều khó khăn, quân Pháp trở lại chiếm đóng nhiều nơi ở miền Trung và Tây Nam bộ. Trung ương thống nhất thực hiện chủ trương kháng chiến dựa vào nhân dân “Chính trị trước, quân sự sau, hỗ trợ lẫn nhau hai mặt”. Đồng chí thường chỉ đạo bộ đội phải “Dĩ đức phục dân” (dùng đạo đức để thuyết phục người), phải đối với dân như cha mẹ, anh em ruột thịt, dựa vào quần chúng mà sống và chiến đấu. Lực lượng vũ trang cách mạng lúc này còn yếu, chưa nên tập trung lớn mà nên tổ chức thành các bộ phận độc lập, đi sâu vào vùng địch tạm chiếm, phát triển chiến tranh du kích, lấy vũ khí của giặc trang bị cho ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương chỉ trong một thời gian ngắn, đường lối chiến tranh nhân dân ở miền Tây Nam bộ ngày càng phát triển mạnh mẽ, gây cho địch nhiều thiệt hại7; Chùa Kos-Thum là cơ sở hoạt động bí mật của cách mạng, năm 1945 Hòa thượng Dư Hương đã vận động các bổn đạo, chư Tăng, Phật tử và nhân dân địa phương tham gia cướp chính quyền từ tay thực dân Pháp; Chùa Cô Hồn (phường Quang Vinh, Thành phố Biên Hòa), dưới sự chủ trì của đồng chí Hoàng Minh Châu, hội nghị cán bộ Đảng ở Biên Hòa đã được triệu tập và đã ra những quyết định qua trọng về chủ trương, chuẩn bị cho nhân dân Biên Hòa nổi dậy giành chính quyền trong Cách mạng tháng Tám8; Chùa Linh Thứu (Mỹ Tho) là trạm liên lạc giữa Xứ ủy và Tỉnh ủy Mỹ Tho. Trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, chùa Tam Bảo (Rạch Giá) là địa điểm cất giấu vũ khí phục vụ cho cuộc khởi nghĩa. Như vậy, tinh thần yêu nước của các Tăng, Ni ở một số chùa Nam bộ trong thời kỳ này đã đặt tiền đề cho phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp sau này. Như vậy, lúc này, tinh thần “Cởi áo cà sa khoác áo chiến bào” của Hòa thượng Thái Không ở chùa Phật học Lưỡng Xuyên đã nhanh chóng được đông đảo Tăng sinh truyền tụng và có sửc ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng trong giới tu sĩ Phật tử lúc bấy giờ.
Có thể thấy, trong phong trào Chấn hưng Phật giáo, trong giới Tăng, Ni và tín đồ Phật tử đã có nhiều sự chuyển biến về tư tưởng và có hành động hướng về cách mạng. Tinh thần đó có được là do công lao của những vị thiền sư trong giai đoạn này như: Thiền sư Trí Thiền và Thiền sư Thiện Chiếu9… Các vị Tăng sĩ đặt nền móng và đi đầu trong phong trào Chấn hưng Phật giáo là những người đã phát huy mạnh mẽ truyền thống Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, kết nối tinh thần yêu nước, đoàn kết tôn giáo nhằm chống lại tư tưởng và hành động xâm lược của kẻ thù. Đó là những nhà sư hoạt động yêu nước hăng say, và có đóng góp quan trọng vào thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945 của dân tộc ta.
2. Sự ra đời và hoạt động của một số hệ phái của phật giáo Nam Bộ từ năm 1919 đến năm 1945
Nam bộ là nơi hội tụ, nảy sinh nhiều loại hình tôn giáo, giáo phái. Đối với Phật giáo, trong thời gian này, ở Nam bộ có nhiều tông phái, hệ phái như: Phật giáo Bắc tông, Phật giáo Nam tông người Khmer, Phật giáo Nam tông người Việt, Phái Khất sĩ … Những hệ phái này được du nhập và có sự tiếp biến nhằm phù hợp với nền văn hóa địa phương, góp phần làm cho đời sống tinh thần của người dân nơi đây ngày càng phong phú hơn.
Phật giáo Bắc tông hay Phật giáo Đại thừa (Mahayana). Đây được coi là tông phái chủ đạo của Phật giáo Việt Nam. Từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, có thể thấy, Phật giáo Bắc tông hay Phật giáo Đại thừa được truyền vào vùng đất Nam bộ khoảng thế kỷ thứ IX và được phát triển, mở rộng trong những năm từ 1181 đến 1218 bằng hai con đường đáng tin cậy: Con đường thứ nhất, năm 1620, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1563-1635) gả Công chúa Ngọc Vạn cho vua Chân Lạp là Cheichetta II. Từ đây bang giao giữa hai quốc gia Việt – Miên được mở rộng, giao thông giữa hai quốc gia cũng dễ dàng qua lại. Năm 1625, triều đình Angkor chính thức nhận 40 ngàn hộ dân của nước Việt sang sinh sống. Trong các đoàn di dân đó có các tăng sĩ Phật giáo cùng đi để hoằng Pháp trên những vùng đất mới; Con đường thứ 2, năm 1679, khi nhà Thanh từng bước tiêu diệt nhà Minh ở Trung Hoa, hai tướng nhà Minh là Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài) đã cùng ba ngàn người vượt biên trên 50 chiến thuyền vào nước ta xin và được chúa Nguyễn chấp thuận cho tỵ nạn tại Nông Nại (Đồng Nai), Gia Định – Sài Gòn, Vũng Cù (Định Tường – Mỹ Tho), v.v… và dĩ nhiên các thiền sư cũng đã có mặt trong đoàn này để gieo mầm giác ngộ10.
Khi mới du nhập vào Việt Nam, tổ chức và sinh hoạt của Phật giáo Đại thừa có hệ thống tổ chức rõ rệt, mang tính chất nhỏ lẻ ở một số vùng quê khác nhau. Các hoạt động Phật sự chủ yếu mang tính “nội tự”. Hoạt động Phật sự lớn do “sơn môn” đứng ra tổ chức (giỗ tổ, dạy nghi lễ, dạy kinh – luật – luận chủ yếu bằng chữ Nho (lúc này chữ Quốc ngữ chưa được phổ cập ở vùng đất này). Cho đến đầu thế kỷ XX, Phong trào Chấn hưng Phật giáo11 trở nên sôi nổi và có sự ảnh hưởng nhất định, cũng nhờ đây mà Phật giáo Nam bộ được khởi sắc rõ rệt. Vào năm 1927, Hòa thượng Thiện Chiếu tiếp thu và mang tinh thần “Chấn hưng Phật giáo Trung Hoa” từ Trung Hoa vào Nam Việt để áp dụng vào vùng đất Nam bộ. Vì thế, tại Nam bộ lúc này các chùa ở Nam bộ gấp rút mở các lớp ngắn hạn “Phật học Liên xã” ở trường Phật học nhằm đào tạo tăng tài, mục đích truyền dạy tư tưởng Chấn hưng Phật pháp: Chùa Long Phước (Trà Ôn), chùa Long Phước (Trà Vinh), chùa Viên Giác (Bến Tre) và một số cơ sở thờ tự khác… Chỉ trong một thời gian ngắn, số lượng Tăng sinh về theo học lên đến cả trăm người, hệ thống đào tạo của Phật giáo trong thời gian này ngày càng được mở rộng hơn và có sự ảnh hưởng nhất định.
Hệ phái Nam tông người Khmer: Trước đó, đồng bào dân tộc người Khmer chịu ảnh hưởng sâu đậm tôn giáo của Ấn Độ. Ngay từ những thế kỷ trước hoặc đầu công nguyên các đoàn thương nhân từ Ấn Độ đã qua Việt Nam kết nối kinh doanh. Trong chuyến của họ thường có các tăng sĩ Ấn Độ đi cùng để cầu nguyện cho việc làm ăn được tốt lành và tổ chức các lễ cầu an cho gia đình. Vì thế, thời điểm này, giáo sĩ Bà-la-môn và Phật giáo bắt đầu xuất hiện ở Nam bộ, nhất là ở một số nơi thuộc Đồng bằng sông Cửu Long. Trong thời gian đầu, Bà-la-môn giáo là tôn giáo chủ đạo song đến thế kỷ XIII, Phật giáo trở thành tôn giáo độc tôn của người dân Khmer. Từ đây, ngôi chùa đã trở thành biểu tượng, là trung tâm văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, tâm linh của người dân. Các vị sư là hiện thân của Đức Phật tại thế và góp mặt vào hầu hết các hoạt động đời sống xã hội của người dân vùng đất Nam bộ.
Hệ phái Nam tông Người Việt: So với các hệ phái khác, Hệ phái Phật giáo Nam tông người Việt xuất hiện tương đối muộn ở Nam bộ. Những người Việt tìm đến và giác ngộ tinh thần Phật giáo Nam tông là do Phật tử Việt Nam sang Campuchia học đạo và khi về nước đã xuất gia và truyền đạo đến các tín đồ ở Nam bộ. Trong bài viết Một vài nét về Phật giáo Nam tông Việt Nam12 của tác giả Bửu Chánh cho rằng, Thủy tổ của Phật giáo Nam tông người Việt là bác sĩ Lê Văn Giảng, khi xuất gia mang đạo hiệu Hộ Tông: “1935 có một người bạn của ông Hiểu làm bác sĩ thú y từ Campuchia về dưỡng bệnh tại nhà ông Hiểu là ông Lê Văn Giảng, ông Hiểu đã mang sách Phật bằng tiếng Pháp cho (ông Lê Văn Giảng) xem và khuyên nên về Campuchia tìm thầy học đạo. Sau ba năm nghiên cứu Phật pháp, ông Lê Văn Giảng quyết định xuất gia làm Tỳ kheo có pháp danh là Hộ Tông. Cả hai cùng cam kết là một người làm cư sĩ (ông Hiểu) lo phần cất chùa, hộ Tăng, còn Tỳ kheo Hộ Tông lo việc khai Phật Pháp”.13 Đến năm 1938, dưới sự trợ duyên của một số Phật tử nên một ngôi chùa Nam tông được xây dựng và hoàn thiện ở vùng đất Nam bộ. Năm 1939, Đức vua Sãi Chuon Nath cùng phái đoàn 30 vị Tỳ kheo từ Campuchia sang làm Lễ Kiết giới Sima và đặt tên chùa là Ratanaramyarama (Bửu Quang tự). Đây là ngôi chùa đầu tiên và Tỳ kheo Hộ Tông là Tăng sĩ đầu tiên của Phật giáo Nam tông người Việt14.
Hệ phái Khất sĩ: do Sư trưởng Minh Đăng Quang15 là người thành lập. Đây là hệ phái có sự dung hợp hai hệ tư tưởng Phật giáo Nam tông và Bắc tông. Có thể coi Hệ phái Khất sĩ là tông phái thuần Việt. Quá trình ra đời và đi vào hoạt động, Hệ phái Khất sĩ sử dụng phương thức truyền giáo, kinh điển của hệ phái trong bộ Chân lý. Ngoài ra, để gây ảnh hưởng của mình đến tín đồ Phật tử, Hệ phái biên tập, biên soạn một số tác phẩm bằng Việt ngữ, đặc biệt, Hệ phái sử dụng tác phẩm văn thơ để thu hút được đông đảo tín đồ Phật tử Nam bộ tham gia.
Phật giáo Hoa tông: Hệ phái này được hình thành từ việc các đoàn di dân từ miền Trung vào khai phá vùng đất mới, bao gồm cả người Việt và người từ Trung Hoa đến Việt Nam định cư vào nhiều thời điểm khác nhau. Lúc này, đội ngũ Tăng sư của Phật giáo Nam Tông có một số thiền sư Trung Hoa đến Việt Nam truyền đạo trong thời gian trước. Theo nghiên cứu của nhiều học giả cho thấy, ở miền Đông Nam bộ, trong nhiều chùa cổ còn đặt bài vị và nhắc đến sự có mặt của Thiền sư Bổn Quả (đời thứ 32) và Thiền sư Nguyên Thiều, đời thứ 33 của dòng Lâm Tế. Chùa Đại Giác, chùa Kim Cang, chùa Long Thiền… ở tỉnh Đồng Nai, thuộc Cù lao Phố xưa, đã có dấu chân hoằng hóa và những ngôi chùa do các thiền sư Trung Hoa khai sáng và trụ trì. Tuy nhiên, rất hiếm chùa còn liên tục truyền thừa và duy trì sinh hoạt, nghi lễ thuần túy cũng như sử dụng kinh sách chữ Hán16 cho đến hiện nay. Vào khoảng những năm 1930, những tu sĩ người Hoa theo đạo Phật sinh hoạt theo từng chùa thuộc tông phái của mình là chính và chưa có tổ chức Giáo hội riêng. Thời gian sau đó, Phật giáo Hoa Tông tiếp tục hòa nhập với các tôn giáo, hệ phái khác của Phật giáo ở Nam bộ. Đến năm 1945, Hòa thượng Thống Lương và Hòa thượng Thanh Thuyền tiến hành xây dựng chùa Nam Phổ Đà (Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh); Hòa thượng Lương Giác cũng xây dựng chùa Trúc Lâm (Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh).
3. Nhận xét về tình hình phật giáo nam bộ từ năm 1919 đến năm 1945
Một là, trong khoảng thời gian này, Phật giáo ở Nam bộ luôn có sự kế thừa, giao thoa hòa nhập, thậm chí có sự kế thừa giáo lý, giáo luật với nhau, thậm chí cả với các tôn giáo khác: “Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay, tồn tại cùng loài người trong một thời gian khó mà đoán định trước được. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tôn giáo ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị, tư tưởng văn hoá, xã hội và tâm lí, đạo đức, lối sống, phong tục tập quán của nhiều quốc gia, dân tộc, của các tầng lớp người, nhất là đối với thế hệ trẻ”.17 Trong thời gian này, điều kiện kinh tế, chính trị – xã hội của Nam bộ có những biến đổi tiêu cực dưới sự thống trị của thực dân Pháp và tay sai. Tuy nhiên, bối cảnh lịch sử và lối sống nơi đây càng lại là điều kiện thuận lợi Phật giáo phát triển đa dạng về hình thức tổ chức hoạt động và phát triển số lượng. Vì thế, giáo lý, giáo luật và nhân sinh quan Phật giáo đã ảnh hưởng đến tinh thần, lối sống của đông đảo Phật tử Nam bộ lúc bấy giờ.
Ngoài ra, Phật giáo Nam bộ trong giai đoạn này còn có sự kế thừa, hòa quyện với những tư tưởng tín ngưỡng của người dân bản địa. Do cuộc sống của tín đồ Phật tử và người dân trong giai đoạn này còn thiếu thốn về mọi mặt, thậm chí thiếu thốn về mặt tâm linh nên trong giáo lý, giáo luật, nhân sinh quan của Phật giáo đã kế thừa những tư tưởng, quan điểm của tín ngưỡng thờ nhân thần, nhiên thần. Chính vì sự giao thoa, kết thừa giữa Phật giáo và các tín ngưỡng bản địa cũng làm cho Phật giáo gần gũi và nhanh chóng đến được với các tầng lớp nhân dân ở nơi đây. Đó chính là sự hòa quyện trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và được ghi nhận rõ nét trong hệ thống đền, miếu, lăng, phủ, … của đồng bào Nam bộ lúc bấy giờ. Dân cư ở nhiều nơi phối thờ Phật với những người có công với gia đình, làng xóm, đất nước mà họ tôn vinh, sùng kính (nhiều vị có đóng góp quan trọng đối với đất nước và nhân dân nên được hậu thế thờ phụng để ghi tạc công ơn).
Hai là, những người sáng lập ra các hệ phái hoặc truyền bá tư tưởng của Phật giáo trong thời gian này đa số đều có xuất thân từ tầng lớp nghèo khó trong xã hội và có mối quan hệ mật thiết với nông dân. Từ khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược và đặt ách thống trị, người dân Nam bộ luôn phải chịu áp bức nặng nề về mọi mặt. Cuộc sống của người dân, nhất là một bộ phận di cư ở miền Đông và ở miền Tây Nam bộ gặp không ít khó khăn. Họ tuy có tinh thần yêu nước, mong muốn thoát khỏi sự thống trị của thực dân, phong kiến nhưng lại mê tín, tin vào thần quyền. Cụ thể là họ luôn tin vào một lãnh đạo thần quyền để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Ngoài ra, họ còn chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi sự tuyên truyền những quan điểm của những vị đạo sĩ ở một số địa phương lúc bấy giờ. Đánh giá khách quan cho thấy, cuộc sống của những người dân di cư trong lúc này họ thiếu thốn cả về mặt tâm linh. Vì thế, các hệ phái của Phật giáo đem tư tưởng của và triết lý của mình nhanh chóng thâm nhập vào người dân và được họ tiếp nhận nhanh chóng, cho nên hệ thống chùa, cơ sở thờ tự của Phật giáo nhanh chóng được xây dựng và trở thành nơi thực hành tâm linh, tính ngưỡng của người dân Nam bộ trong khoảng thời gian này.
Ba là, mục tiêu của Phật giáo ở Nam bộ lúc này không chỉ đảm bảo đời sống tinh thần cho người dân và gắn với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc. Phật giáo ở Nam bộ trong giai đoạn này đều chứa đựng những giá trị văn hóa đặc sắc, riêng biệt, song tập trung hướng tín đồ Phật tử đến Chân – Thiện – Mỹ, đồng thời từng bước có những hình thức phù hợp đáp ứng được yêu cầu tinh thần của người dân vùng đất này. Phật giáo chịu ảnh hưởng và giao thoa với các giá trị truyền thống dân tộc, góp phần tạo nên những nét đẹp trong nền văn hóa đa dạng, phong phú về bản sắc của vùng đất Nam bộ nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung. Chính yếu tố này đã góp phần giáo dục, tăng cường thêm cho mỗi tín đồ Phật tử tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc trước họa xâm lăng của thực dân Pháp và bè lũ tay sai.
Bối cảnh lịch sử lúc này, nhất là sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và việc thực thi chính sách tàn bạo của phát xít Nhật, chúng luôn tìm mọi cách lợi dụng các tổ chức tôn giáo, đặc biệt là những người đứng đầu của các tổ chức tôn giáo để thực hiện mưu đồ ổn định chính trị – xã hội nhằm phục vụ cho ý đồ xâm lược, bóc lột của chúng. Chúng tìm mọi cách xuyên tạc, bóp méo đường lối, chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo của cách mạng lúc bấy giờ, thậm chí lợi dụng những vị đứng đầu, một số người đứng đầu các tôn giáo trong đó có Phật giáo trong từng thời điểm lịch sử đã có nhiều chủ trương, hành động chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Tuy nhiên, đây chỉ là bộ phận nhỏ trong các tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng còn đại đa số những vị đứng đầu Phật giáo đều có tinh thần yêu nước, luôn có ý thức đấu tranh chống lại sự áp bức, bất công và tham gia tích cực vào phong trào giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo trong giai đoạn này.
4. Kết luận
Trong khoảng thời gian từ năm 1919 đến năm 1945, Nam bộ có sự chuyển biến lớn do tác động của bối cảnh lịch sử, kinh tế – xã hội lúc bấy giờ. Nhiều hệ phái Phật giáo được thành lập, tiếp biến phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Đồng thời, để phù hợp với trình độ, nhận thức và tâm lý của người dân Nam bộ nên giáo lý, giáo luật của một số hệ phái cũng có sự cải biến đơn giản, dễ hiểu, phù hợp với nhân dân, nhất là tầng lớp nhân dân lao động. Số lượng chức sắc, chức việc và tín đồ Phật tử ngày càng đông, phong phú về thành phần song tập trung chủ yếu là nông dân. Đa số tín đồ các tôn giáo có cuộc sống vật chất còn rất khó khăn. Có thể thấy, đội ngũ chức sắc và tín đồ Phật tử của các tông, phái Phật giáo đều nêu cao tinh thần yêu nước và trong thực tiễn đã xuất hiện những vị chức sắc tham gia một cách tích cực vào các phong trào đấu tranh cách mạng. Tuy nhiên, với những chủ trương, phương pháp phù hợp, trong giai đoạn này, cách mạng Việt Nam đã từng bước quy tụ được tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc của các hệ phái của Phật giáo Nam bộ trong các cao trào cách mạng nhất là trong giai đoạn 1930 – 1945.
_________
1. Trần Hồng Liên (2000), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ – Việt Nam (từ thế kỷ XVII đến 1975), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 8-9.
2. Trần Hồng Liên (2000), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ – Việt Nam (từ thế kỷ XVII đến 1975), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 63.
3. Phật giáo Hòa Hảo (đạo Hòa Hảo) khởi phát ở miền Tây và phát triển hầu như chỉ ở miền Tây. Phật giáo Hòa Hảo, là một tông phái Phật giáo do Huỳnh Phú Sổ khai lập năm 1939 tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc (nay thuộc thị trấn Phú Mỹ, huyện Phú Tân, tỉnh An Giang) vào năm 1939, lấy pháp môn Tịnh Độ tông làm căn bản và chủ trương tu hành tại gia: “Đạo Hòa Hảo khai đạo sau đạo Cao Đài 13 năm, song về cuội nguồn, nó là sự khôi phục, là cao trào mới của Bửu Sơn Kỳ Hương, vốn là sản phẩm giữa thế kỷ XIX”. Giáo lý Phật giáo Hòa Hảo chủ trương thờ phượng đơn giản, không cầu kỳ phức tạp, trở về với nội tâm hơn là hình tướng bên ngoài, đúng với tinh thần Đức Phật Thích Ca đã đề xướng. Hoạt động thờ cúng của tín đồ đạo Hòa Hảo chỉ ở ba ngôi hương án tại nhà, bao gồm: thứ nhất là, Ngôi thờ Cửu Huyền Thất Tổ: thờ cúng tổ tiên, theo đạo lý uống nước nhớ nguồn; thứ hai là, Ngôi thờ Tam Bảo: thờ Thập phương Phật, Pháp, Tăng. Ngôi thờ này có đặt một tấm vải màu nâu (gọi là Trần Dà) tượng trưng cho sự thoát tục và sự đoàn kết; thứ ba là, Ngôi Thông Thiên: đặt ngoài trời. Về cách cúng Phật của Đạo Hòa Hảo cũng hết sức đơn giản chủ yếu cúng nước lạnh, bông hoa và nhang.
4. Tạ Thị Thúy (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 9 từ 1930 đến 1945, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 352.
5. Tạp chí Từ Bi Âm ra đời tháng 3.1932 do Ông Trần Nguyên Chấn làm phó nhì hội trưởng với sự cố vấn của Thiền sư Huệ Định và Thiền sư Trí Thiền. Chùa Linh Sơn (số 149 đường Douaumont) được lấy làm trụ sở.
6. Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận tập III, NXB Văn học, Hà Nội, tr. 560.
7. Chùa Cao Dân, https://sites.google.com/site/banquanlyditichtinhcamau/home/ly-lich-cac-ditich/di-tich-quoc-gia/chua-cao-dan, truy cập ngày 30/11/2020.
8. Văn Truyên (2015), Kỷ niệm 70 năm Cách mạng tháng Tám và quốc khánh 2-9: Còn mãi dấu ấn lịch sử, http://www.baodongnai.com.vn/vanhoa/201508/ky-niem-70-nam-cach-mang-thang-tam-va-quoc-khanh-2-9-con-mai-dau-an-lich-su-2619932 truy cập ngày 30/11/2020.
9. Nhà sư Thiện Chiếu là người rất đâu đáu trước sự suy vi của Phật giáo nên Ông đã viết trên Đông Pháp Thời báo rằng: “Từ khi nước Pháp sang bảo hộ nước ta, đem tân văn hóa, tân học thuật v.v… ban bố cho ta, quốc dân ta đều khuynh hướng về tân học, thì tự nhiên Hán học phải hồi hưu, ấy là thời kỳ Phật giáo nước ta suy đồi vậy”. Đồng thời, lúc này, trong Phật giáo rơi vào tình trạng tăng giới: “Phần nhiều không chịu chuyên tâm về đường học vấn, kẻ hảo tâm thời lo độc thiện có khi lạc vào cái chủ nghĩa yếm thế nên không biết nghĩa vụ và trách nhiệm của mình; mình đã chẳng biết thời làm sao truyền bá ra cho người khác biết được? Phật lý đã không rõ rệt, nên những kẻ tại gia tín ngưỡng phần nhiều là mê tín, chỉ biết đốt hương cầu khấn Phật, Thần phù hộ, cho cuộc đời của mình được sung sướng thảnh thơi mà thôi, chớ ít có ai tiêm nhiễm được chút từ bi bác ái, thành ra cái chùa Phật hình như là cái Bảo hiểm công ty, thời tránh sao cho khỏi những kẻ gian tà họ lợi dụng để mưu kế sinh nhai, khiến cho trong Tăng giới hằng diễn tấn bi kịch”. (Nguồn: Nguyễn Đại Đồng – Ph.D Nguyễn Thị Minh sưu tầm và biên soạn, 2008, Phong trào chấn hưng Phật giáo (Tư liệu báo chí Việt Nam từ 1927 – 1938), NXB Tôn giáo, Hà Nội, tr. 16.)
10. Thích Hiển Pháp (2017), Một số nét về sắc thái Phật giáo Nam bộ,
https://phatgiao.org.vn/motso-net-ve-sac-thai-phat-giao-nam-bo-d27625.html, truy cập ngày 08/07/2017.
11. Theo tác giả Nguyễn Lang trong cuốn Việt Nam Phật Giáo Sử Luận cho rằng, Công đầu của phong trào chấn hưng thuộc về thiền sư Khánh Hòa. Ông sinh năm 1877 tại làng Phú Lễ tỉnh bến Tre, xuất gia năm 19 tuổi tại chùa Khải Tường. Sau đó ông được đưa về chùa Kim Cang ở Tân An và làm lễ thế độ với thiền sư Chánh Tâm. Năm năm sau, ông được đưa về chùa Long Triều và học Phật với thiền sư Đạt Thụy. Chí nguyện Chấn hưng Phật giáo của ông phát sinh vào khoảng năm ông được bốn mươi tuổi. Ông du hành khắp các tổ đình và Nam bộ để gây ý thức chấn hưng và kêu gọi sự hợp tác của các bậc tôn túc. Ông liên kết được một số các vị cao tăng đồng chí, trong số đó có Huệ Quang, Pháp Hải và Khánh Anh, những người đã cộng tác chặt chẽ với ông trong suốt thời kỳ hoạt động của ông sau này. Năm 1923 trong một buổi họp của đại diện các tổ đình tại chùa Long Hòa ở Trà Vinh, dưới sự hướng dẫn của ông, một tổ chức tăng sĩ được thiết lập gọi là hội Lục Hòa liên Hiệp với mục đích là vận động thành lập một hội Phật giáo Việt Nam Toàn Quốc làm cơ sở chấn hưng Phật giáo.
12. Tập Văn số 21, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 1991.
13. Bửu Chánh (1991), Một vài nét về Phật giáo Nam tông Việt Nam, Tập văn số 21, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam, tr. 82.
14. Hòa thượng Thích Hiển Pháp (2017), Một số nét về sắc thái Phật giáo Nam bộ,
https://phatgiao.org.vn/mot-so-net-ve-sac-thai-phat-giao-nam-bo-d27625.html, 08/07/2017.
15. Sư trưởng Minh Đăng Quang, thế danh Nguyễn Thành Đạt, tự Lý Hườn, sinh ngày 26-9 Quý Hợi (1923) tại Vĩnh Long. Sau 4 năm học đạo ở Campuchia, năm 21 tuổi (1944), sư xuất gia và hành đạo tại quê hương, sau đó qua Thất Sơn và Hà Tiên truyền giáo.
16. Trần Hồng Liên (2016), Đặc điểm của Phật giáo Hoa tông ở Nam bộ,
https://phatgiao.org.vn/dac-diem-cua-phat-giao-hoa-tong-o-nam-bo-d24212.html, truy cập ngày 26/09/2016.
17. Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 206.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bửu Chánh (1991), Một vài nét về Phật giáo Nam tông Việt Nam, Tập văn số 21, Ban Văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Chỉ thị của Trung ương thường Vụ về vấn đề thành lập Hội “Phản đế đồng minh”, ngày 18-11-1930, Lưu tại Kho Lưu trữ, Văn phòng Trung ương Đảng.
Chùa Cao Dân, https://sites.google.com/site/banquanlyditichtinhcamau/home/ly-lich-cac-di-tich/di-tich-quoc-gia/chua-caodan, truy cập ngày 30/11/2020.
Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Đỗ Quang Hưng (2001), Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam, NXB Đại học Tổng hợp Hà Nội, Hà Nội.
Đỗ Quang Hưng (Chủ biên) (2001), Tôn giáo và mấy vấn đề tôn giáo Nam bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Mai Thị Thanh (2012), Ảnh hưởng của Phật giáo Hòa Hảo đối với đời sống văn minh tinh thần ở tỉnh Đồng Tháp hiện nay, luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Nguyễn Duy Hinh (2007), Một số bài viết về Tôn giáo học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguyễn Đại Đồng – Nguyễn Thị Minh sưu tầm và biên soạn (2008), Phong trào chấn hưng Phật giáo (Tư liệu báo chí Việt Nam từ 1927 – 1938), NXB Tôn giáo, Hà Nội.
Nguyễn Lang (2000), Việt Nam Phật giáo sử luận tập III, NXB Văn học, Hà Nội.
Nguyễn Tài Thư (chủ biên) (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay. NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Tạ Thị Thúy (2017), Lịch sử Việt Nam, tập 9 từ 1930 đến 1945, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Thích Hiển Pháp (2007), Một số nét về sắc thái Phật giáo Nam bộ,
https://phatgiao.org.vn/mot-so-net-ve-sac-thai-phat-giaonam-bo-d27625.html, truy cập ngày 08/07/2017.
Trần Hồng Liên (2000), Đạo Phật trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ – Việt Nam (từ thế kỷ XVII đến 1975), NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Viện Nghiên cứu Tôn giáo (1995), Bước đầu tìm hiểu Đạo Cao Đài, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội.
Viện sử học, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam (2014), Lịch sử Việt Nam, tập 9 từ năm 1930 đến 1945, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
Nguồn: Phật giáo vùng Nam Bộ trong thế kỷ XX, NXB. Hồng Đức, năm 2020
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Phật giáo Nam Bộ từ năm 1919 đến năm 1945 (Tác giả: TS. Nguyễn Văn Tuân) |