Phật giáo Việt Nam thời đại Lý -Trần: Lịch sử, năng lực nhập thế và vai trò xã hội
Tác giả bài viết: Phó Giáo sư, Tiến sĩ NGUYỄN VĂN KIM
(Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn–ĐHQGHN)
1. Phật giáo trong tiến trình lịch sử – văn hoá dân tộc
Với tư cách là một quốc gia thống nhất (được kiến dựng từ nhiều truyền thống văn hoá và các vương quốc cổ khác nhau), Phật giáo, một tôn giáo lớn của khu vực và thế giới, cũng đã sớm được truyền bá đến Việt Nam và nhiều vương quốc ở Đông Nam Á. Phật giáo truyền đến Việt Nam vào khoảng đầu Công nguyên và người ta đã biết đến một trung tâm Phật giáo đầu tiên là vùng Luy Lâu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh hiện nay. Trong bối cảnh xã hội có nhiều mâu thuẫn và phân hoá, cư dân bản địa, những người vốn quen với nghề làm nông, trồng lúa nước và thờ cúng Tổ tiên cũng như các vị thần tự nhiên, đã đón nhận Phật giáo với tinh thần khoan dung, hoà hợp. Phật giáo đã đem lại cho các cộng đồng cư dân Việt Nam những triết lý, luận giải mới về nỗi khổ và nguồn gốc muôn vàn nỗi khổ của con nguời, về Nghiệp và cách thức giải thoát, chấm dứt nỗi khổ đau. Với phương châm hành thiện và hướng thiện, trong bối cảnh dân tộc bị nô lệ, Phật giáo đã đem lại niền tin về lẽ sống, về sự bình đẳng, về đức hy sinh… đồng thời chuẩn bị những kháng lực cần thiết để đối diện với tư tưởng thống trị và ách nô dịch của đế chế phương Bắc. Với những giá trị đặc trưng đó, Phật giáo đã mau chóng trở thành một bộ phận hợp thành của văn hoá, tư duy dân tộc và tìm được vị thế vững chắc trong đời sống văn hoá Việt Nam.
Từ khi những dòng, nhánh đầu tiên đến Việt Nam, Phật giáo đã trải qua khoảng 2.000 năm lịch sử. Trong khoảng thời gian đó, Phật giáo đã trải qua nhiều quá trình chuyển biến mà đặc tính tiêu biểu là quá trình bản địa hoá, quá trình lan toả tương đối mau chóng đến nhiều vùng miền và các giai tầng xã hội. Trong suốt nhiều thế kỷ, các nhà truyền giáo, thương nhân và thuỷ thủ Ấn Độ đã đến nhiều vùng đất Việt Nam. Họ đã tiến hành buôn bán, định cư, lập các cơ sở sản xuất thủ công, thực hiện các nghi lễ tôn giáo, sinh hoạt văn hoá, nghệ thuật, phát triển thể chế chính trị v.v… Trong quá trình đó, không chỉ Phật giáo, Brahman, Hindu giáo cũng đã từng bước thâm nhập vào xã hội Việt Nam và Đông Nam Á. Các tập kinh như Jatakas (Bổn sinh), hay trường ca Ramayana đều có nhắc đến việc người Ấn đã vượt biển đến xứ Java, Sumatra và xứ vàng Suvarnabhumi (Xứ vàng), hay Suvarnabvipa (Đảo vàng)1… Mặt khác, theo các tuyến đường bộ, Phật giáo đã được truyền bá đến vùng Assam, vùng thượng Miến (Myanmar) để đến Vân Nam.
Mặt khác, theo lưu vực của các dòng sông Menam, Mekong và sông Mun…. Phật giáo cũng được truyền vào vùng Đông Nam Á bán đảo. Chính tuyến đường này dẫn đến vùng Bassak ở trung lưu Mekong. Nhiều khả năng, các nhà truyền giáo Ấn Độ cũng đã theo các tuyến sông và giao thông bộ để truyền bá tôn giáo vào Việt Nam và vùng Nam Trung Hoa. Như vậy, do có vị trí giao thông tương đối thuận lợi lại nằm ở vị trí cầu nối giữa các không gian văn hoá khu vực, từ những thế kỷ trước, sau Công nguyên, Phật giáo đã được truyền bá đến Việt Nam. Điều chắc chắn là, kinh Bát Nhã (Trí tuệ, Prajna) đã được phổ biến ở Việt Nam. Dựa trên bộ kinh này mà Luận sư Nagarjuna (Long Thọ, thế kỷ II SCN) đã đề xướng thuyết Trung luận nổi tiếng, ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng Phật giáo Việt Nam mà khởi nguyên là các dòng Thiền Tỳ-ni-đa–lưu-chi và Vô ngôn thông.
Sự truyền bá Phật giáo đến Việt Nam đã diễn ra liên tục trong nhiều thế kỷ với vai trò của người Ấn, Tây Á, Trung Hoa và cả người Việt Nam sang Trung Quốc, Ấn Độ học đạo. Những tên tuổi như Khuy Xung, Huệ Diệm, Trí Hành, Đại Thặng Đăng… là những tấm gương về hành đạo. Họ đã vượt qua nhiều thách thức, hiểm nguy để đến Đông Nam Á rồi Ấn Độ (Thiên Trúc) tu luyện, tiếp nhận Phật giáo. Cũng cần phải nói thêm là, vào thời Hán (206TCN-220) trong vòng quản lý của đế chế Hán, đã hình thành ba trung tâm Phật giáo là Lạc Dương (sông Lạc Thuỷ), Bành Thành (sông Trường Giang) và Luy Lâu (sông Hồng). Một số nhà sư như Khương Tăng Hội, đã xuất gia tại Giao Châu, trở thành Thiền sư lỗi lạc rồi mới đến Trung Hoa truyền giáo. Là trung tâm chính trị của chính quyền đô hộ đồng thời là đầu mối giao thương khu vực trong nhiều thế kỷ, Luy Lâu đã có nhiều điều kiện để trở thành trung tâm tôn giáo lớn. Theo sách “Thiền uyển tập anh ngữ lục” dẫn lời sư Đàm Thiên trả lời vua Tuỳ Văn Đế thì: “Xứ Giao Châu có đường thông sang Thiên Trúc. Phật giáo vào Trung Quốc chưa phổ cập đến Giang Đông mà xứ ấy đã xây ở Liên Lâu hơn 20 bảo tháp, độ được hơn 500 vị tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy theo đạo Phật trước ta. Bấy giờ các vị sư Ma-ha-kỳ-vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác đến ở đó truyền đạo”2. Trong thời gian đó, Phật giáo Đại thừa (Mahayana) đã được truyền bá sâu rộng đến Việt Nam.
Đến thế kỷ X, sau khi phục hưng được nền độc lập dân tộc, Ngô Quyền xưng vương “đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục”3. Thiết chế chính trị đó, theo nhận xét của Ngô Sĩ Liên “có thể thấy được quy mô của đế vương”4. Đến thời Đinh (968-980), Đinh Bộ Lĩnh (cq: 970–979) đã xưng Đế và “đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời Kinh ấp về Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào xây cung điện, đặt triều nghi”5, chuẩn bị những bước đi mới, căn bản cho sự nghiệp chấn hưng dân tộc. Một kỷ nguyên mới, phát triển rực rỡ của Văn minh Đại Việt bắt đầu6.
Sau khi nhà Lý (1009-1225) giành được vương quyền, Lý Công Uẩn đã quyết định thiên đô về Thăng Long. Hẳn người khai sáng triều Lý muốn đưa trung tâm chính trị của quốc gia tự chủ vào sâu hơn nội địa nhằm hạn chế sự uy hiếp của các nước phương Nam như Champa, Chân Lạp7. Thời bấy giờ, các nước này đều muốn tranh giành ảnh hưởng với Đại Việt; kiểm soát, chiếm lĩnh hệ thống hải thương Đông Nam Á đồng thời thiết lập mối liên hệ trực tiếp với đế chế Trung Hoa và thị trường Đông Á8. Trong bối cảnh đó, quốc gia Đại Việt đã không ngừng củng cố quyết tâm bảo vệ nền độc lập, tự khẳng định vị thế ở Đông Á. Trong ý nghĩa đó, sự trường tồn và sức mạnh của Thăng Long là biểu trưng cho tinh thần độc lập của một dân tộc. Trong thế đi lên của một dân tộc, các triều đại Lý, Trần (1226-1400) đều có ý thức mạnh mẽ trong việc mở rộng mối quan hệ bang giao với các quốc gia láng giềng. Bằng nhiều biện pháp chính trị, kinh tế, quân sự, ngoại giao, chính quyền Thăng Long luôn giành được quyền chủ động và năng lực đối ngoại cao trong quan hệ với các quốc gia khu vực.
Trên phương diện tư tưởng, trải qua hơn mười thế kỷ, Nho – Phật – Đạo đã sớm thâm nhập vào Việt Nam nhưng đều chưa hội đủ những điều kiện cần thiết để có thể trở thành bệ đỡ về văn hoá và nền tảng cho việc xây dựng một đường lối trị quốc. Sự lựa chọn của các triều đại từ Đinh, Lê, Lý, Trần với Phật giáo đã thể hiện tầm nhìn, sự mẫn cảm chính trị sâu sắc. Trong thế đi lên của một dân tộc, quốc gia Đại Việt đang kiếm tìm và muốn dựa vào đức khoan dung cùng chiều sâu triết luận của Phật giáo để chấn hưng đất nước. Như vậy, khi nói về thời đại văn hoá Lý – Trần với sự toả rạng của Văn hoá Phật giáo thì cũng không nên quên rằng ngay từ thế kỷ X, tư tưởng trị quốc bao trùm cũng như cấu trúc của thiết chế chính trị đều dựa vào nền tảng Phật giáo.
Đến cuối thế kỷ XIV trong thế suy vi của thể chế chính trị, Phật giáo cũng ngày càng mất vai trò và ảnh hưởng. Trong bối cảnh đó, từng bước Nho giáo (mà căn bản là Tống Nho) đã trỗi dậy và trở thành dòng tư tưởng chủ đạo từ thế kỷ XV. Nho giáo đã đem đến một tư duy chính trị mới, những cơ sở để xây dựng một thiết chế xã hội, văn hoá mới9. Tuy nhiên, trong các vùng quê, với nhiều tầng lớp xã hội, Phật giáo đã thấm sâu vào trong tư tưởng và nếp sống và niềm tin tôn giáo. Kết quả là, cho đến thời cận hiện đại, ở Việt Nam đã hình thành thế cục đan xen, hoà hợp của Tam giáo với Nho giáo – Phật giáo – Đạo giáo. Sự đan xen, hoà hợp đó đã tạo nên một đặc tính tiêu biểu trong đời sống văn hoá, tư tưởng và tôn giáo của Việt Nam.
2. Năng lực nhập thế của Phật giáo – Trường hợp Trần Nhân Tông
Có hai đặc điểm cơ bản khi Phật giáo truyền bá vào Việt Nam đó là Việt Nam lúc bấy giờ đang ở vào thời kỳ Bắc thuộc, và thứ hai là văn hoá Việt Nam vốn tồn duy trong những cộng đồng văn hoá đa dạng, theo tín ngưỡng đa thần. Bước vào kỷ nguyên độc lập, trong thế đi lên của một dân tộc độc lập, Phật giáo đã hoà mình với những phát triển chung của dân tộc. Nhiều nhà sư đã trở thành các trí thức tiêu biểu, các nhà hoạt động chính trị, ngoại giao nổi tiếng. Sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, mở mang bang giao quốc tế… của vương triều Lý thu được nhiều thành công không thể không tính đến vai trò của các Thiền sư, nhà tu hành Phật giáo như Từ Đạo Hạnh, Mãn Giác, Nguyễn Minh Không, Giác Hải… Mặt khác, dựa vào Phật giáo làm bệ đỡ tư tưởng, các đấng quân vương triều Lý đã tự mình cũng trở thành các Vua – thần, tức vừa làm chính trị vừa tôn vinh Phật giáo, ủng hộ Phật giáo. Các bộ sử Việt Nam như Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, An Nam chí lược… đều cho thấy nhà Lý đã dành những khoản đầu tư lớn cho việc xây dựng các trung tâm tôn giáo; biên dịch, biên soạn, truyền bá giáo lý và phát triển giáo hội.
Đến thời Trần, Phật giáo vẫn là tôn giáo giữ vị trí trung tâm của đất nước. Sau cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần thứ nhất, đến cuối thế kỷ XIII, dân tộc Đại Việt lại phải hai lần đứng dậy chống lại âm mưu thôn tính, xâm lược của đế chế phương Bắc. Trong bối cảnh đó, Trần Nhân Tông đã nổi lên như một vị vua anh hùng của dân tộc, trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến năm 1285 và 1288 đem lại sự nghiệp toàn thắng cho Đại Việt. Trên phương diện tôn giáo, ông chính là người khai sáng Thiền phái Trúc Lâm. Được vua cha và Tuệ Trung thượng sĩ trực tiếp truyền dạy Phật pháp, rất mộ đạo từ khi còn ở ngôi, vua Nhân Tông đã có tâm thế của một nhà tu hành và truyền giáo. Toàn thư viết: “Vua nhân từ hoà nhã, cố kết lòng dân, sự nghiệp trung hưng sáng ngời thuở trước, thực là bậc vua hiền của nhà Trần. Song để tâm nơi kinh Phật, tuy nói là để siêu thoát, nhưng đó không phải là đạo trung dung của thánh nhân”10. Sách Tam tổ thực lục cũng có nhận xét: “Điều Ngự thánh tính thông minh, hiếu học, nhiều tài, đọc khắp các loại sách, thông suốt cả nội điển (Phật học) lẫn ngoại điển, thường mời các vị Thiền khách tới cùng giảng Thiền học. Điều Ngự cũng tìm tới tham khảo Tuệ Trung Thượng sĩ và do đó thâm nhập được cốt tuỷ của Thiền học, cho nên thường lấy tư cách đệ tử để đối đãi với Tuệ Trung”11.
Sau khi xuất gia năm 1299, đức Phật hoàng là người có ý thức mạnh mẽ trong việc xây dựng và củng cố một giáo hội thống nhất. Tuy về tu ở chùa Yên Tử nhưng Nhân Tông vẫn thường xuyên đến nhiều chùa để thuyết pháp. Theo Tam tổ thực lục, viết năm 1304 thì Trúc Lâm đã “đi khắp các chốn thôn quê, trừ bỏ các dâm từ và dạy dân thực hành thập thiện”12. Rõ ràng, Nhân Tông muốn sử dụng những nguyên tắc của Phật giáo làm cơ sở xây dựng thiết chế chính trị và đạo đức xã hội. Ở ông, dù thời gian nào trong cuộc đời cũng thật khó mà có thể phân định giữa tâm thế tôn giáo và hành trạng xã hội, giữa việc đời với việc đạo. Ngay cả khi xuất gia, trong sắc màu tôn giáo và tấm áo cà sa của Phật giáo, Trúc Lâm đệ nhất tổ vẫn luôn trăn trở trước những công việc của đất nước. Là người có biệt tài tổ chức, sự chuyển giao quyền lực êm thấm cho con Trần Anh Tông/vương quyền (1293-1314) và hơn thế là giáo hội cho sư Pháp Loa/thần quyền (1284-1330) để nhà sư trẻ tuổi, tài danh này trở thành tổ thứ hai của phái Trúc Lâm đã thể hiện tầm nhìn của ông vì sự phát triển tiếp nối, ổn định của Phật giáo và đất nước.
Vốn là thế tử, trở thành người đứng đầu chính thể 14 năm (1278-1293) rồi đảm đương cương vị Thái thượng hoàng 5 năm (1293-1299) và cuối cùng được tôn vinh là Trúc Lâm đệ nhất tổ 8 năm (1299-1307), Trần Nhân Tông không chỉ là nhà chính trị mà còn là nhà quân sự chiến lược, ông không chỉ là người giữ ngôi vị cao nhất của họ Trần mà còn là người đứng đầu đất nước, không chỉ là nhà yêu nước mà còn là người có tư duy chính trị tầm cỡ khu vực. Trên phương diện tôn giáo, ông vừa là nhà tu hành có tri thức uyên bác, vừa đóng vai trò của người khai sáng đồng thời là thủ lĩnh tôn giáo. Trần Nhân Tông là minh chứng của sự hoà luyện giữa chính trị và tôn giáo một cách tự nhiên, không có sự phân định rõ rệt. Có thể coi xu thế nhất thể hoá này là một bước chuyển, thể hiện sức sống mạnh mẽ và sự phát triển về ý thức chính trị, ý niệm về vương quyền của giới quý tộc Trần. Do vậy, mọi tâm thế, hành trạng của ông đều có nhiều ảnh hưởng đến tâm thức dân tộc thời đại bấy giờ13. Tuy nhiên, với việc về Yên Tử tu luyện, chính Trúc Lâm đã hướng tư duy chính trị của giới cầm quyền Thăng Long cũng như tình cảm tôn giáo của dân tộc về với vùng Địa – chiến lược Đông Bắc. Cuộc “thiên di” đó không chỉ mở rộng tầm văn hóa của chính quyền Thăng Long với các trung tâm Phật giáo Yên Tử, Quỳnh Lâm, Vân Đồn… mà còn tạo nên một không gian đối thoại giữa các nền văn hóa, thúc đẩy sự hội nhập của Đại Việt với các quốc gia khu vực.
Bên cạnh đó, trong các hoạt động xã hội hết sức phong phú, sau khi xuất gia, Trần Nhân Tông cũng dành nhiều mối quan tâm đến vùng biên viễn phía Nam. Trúc Lâm từng đến tận Bố Chính (Bố Trạch, Quảng Bình) lập am Tri Kiến ở đó và năm 1301 đã thực hiện một chuyến “vân du” sang Champa thăm kinh đô Vijaya của vua Chế Mân. Chuyến đi kéo dài 8 tháng, rời Yên Tử tháng 3 đến tháng 11 mới trở về nước. Là người xuất gia nhưng tâm của Nhân Tông chưa thể định. Hẳn là Thiền tổ Trúc Lâm vẫn canh cánh với nhiều việc đại sự quốc gia cũng như mối nguy đất nước14. Hành trạng đó của Nhân Tông diễn ra trong bối cảnh hiểm hoạ từ phương Bắc vẫn là mối đe doạ lớn của Đại Việt. Mặc dù chịu thất bại trong ba cuộc xâm lược nhưng nhà Nguyên vẫn chưa từ bỏ ý định thôn tính và liên tục gây sức ép về chính trị, ngoại giao đối với quốc gia Đại Việt15. Năm 1293, Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt (1260-1295) vẫn cho lập “An Nam hành tỉnh” để “đợi lệnh tiến đánh”. Phải đến khi y chết, nhà Nguyên mới chịu bãi binh.
Trong việc xây dựng mối quan hệ hữu nghị với Chiêm Thành, Thượng hoàng Trần Nhân Tông là người có công lớn. Năm 1293 đức vua Nhân Tông (cq: 1278-1293) đã nhường ngôi cho con là Trần Anh Tông (cq: 1293-1314) để lui về làm Thái Thượng hoàng. Năm 1299, lúc 41 tuổi, Thượng hoàng đi tu và trở thành vị Sư tổ khai sinh ra Thiền phái trúc lâm. Trần Nhân Tông đã chọn vùng núi Yên Tử, vùng đất có địa thế chiến lược miền Đông Bắc để tự mình trở thành chỗ dựa tinh thần cho chính quyền Thăng Long. Từ vùng núi cao Yên Tử, ông đã có một tầm nhìn xa rộng về vị trí địa – quân sự cũng như tiềm năng kinh tế của vùng đất phương Nam16.
Năm 1301, với tư cách là Thượng hoàng và nhà tu hành thấu hiểu việc đời, việc đạo, Trần Nhân Tông đã xuống núi thực hiện chuyến vi hành vào phương Nam, thăm vương quốc Champa của Chế Mân (vốn là Thái tử Harajit), nguyên đồng minh của Đại Việt trong ba cuộc kháng chiến chống đế chế Mông – Nguyên. Toàn thư chép: “Tháng 3 (1301): Thượng hoàng vân du các nơi, rồi sang Chiêm Thành… Mùa đông tháng 11, Thượng hoàng từ Chiêm Thành trở về17. Trong đợt “vân du” đến Chiêm Thành lần này, Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho vua Chăm là Sri Harijit (Jaya Simhavarman III) tức Chế Mân (1285?-1307) con trai vua Indravarman V, để “tăng tình đoàn kết hiếu hảo giữa hai nước”18. Trước nghĩa cử đó, Chế Mân đã cử đoàn sứ giả đem theo nhiều vàng bạc, hương liệu, sản vật quý và vùng đất của hai châu Ô, Lý ra kinh thành Thăng Long làm lễ dẫn cưới. Năm 1307, vua Trần đổi tên hai châu Ô, Lý thành Thuận Châu và Hoá Châu (nay là đất của các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế, thành phố Đà Nẵng và phía bắc tỉnh Quảng Nam). Như vậy, “đất Thuận Hóa ra đời trong sự hội nhập vào lãnh thổ Đại Việt không phải bằng sự lấn chiếm hay xâm lược mà là sản phẩm của quan hệ đồng minh, của sự hòa hiếu và của một cuộc hôn nhân mang ý nghĩa lịch sử”19. Có thể coi đó là một sự kiện đặc sắc trong lịch sử mở mang bờ cõi đến vùng đất phương Nam và lịch sử ngoại giao của Việt Nam.
Đem theo ánh hào quang của ba lần đại thắng đế chế hùng mạnh nhất phương Đông vào tôn giáo, Thượng hoàng – Anh hùng Trần Nhân Tông đã xác lập được vị thế cao về tôn giáo. Được tôn vinh là Thánh Tổ của dòng Thiền Trúc Lâm, đức vua đã trở thành Phật hoàng của dòng Thiền Đại Việt. Đặc tính căn bản của dòng phái này là sự khoan hoà, có năng lực nhập thế cao và mang Tinh thần dân tộc sâu sắc. Nói cách khác, dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử đã chuyển hoá thành công một trong những triết lý căn bản của Phật giáo từ “vô vi xuất thế” sang “nhập thế hữu vi”20 đồng thời đưa quan niệm này thành giá trị chung, hoà với dòng chảy của văn hoá – tín ngưỡng – tâm thức dân tộc để trở thành tinh hoa của Thiền Việt.
3. Phật giáo và vai trò xã hội
Vào thời Lý, Trần về cả văn hoá và cấu trúc xã hội đều có sự hỗn dung nhiều dạng thức, khuynh hướng khác nhau. Thấm đượm tinh thần Phật giáo, cấu trúc văn hoá, xã hội đó tuy có phần chưa thật chặt chẽ nhưng có những điểm mạnh căn bản là Khoan dung và Hoà nhập. Trong khi kiên quyết chống lại mưu toan thôn tính, nô dịch trước “bóng đen của các đế chế vĩ đại” thì xã hội Đại Việt thời Trần cũng luôn lọc chọn, tiếp nhận nhiều giá trị của văn hoá khu vực, kể cả những yếu tố văn hoá của các quốc gia xâm lược. Đó chính là sắc thái, bản lĩnh của văn hoá Đại Việt. Do vậy, nếu coi bản sắc văn hoá của một dân tộc là sự kết hợp của ba vòng thành tố gồm: Tính nhân loại, Tính khu vực và Tính tộc người hay “bản sắc dân tộc của văn hoá như một vòng tròn chính tâm đa sắc, hội kết và chiết xuất muôn vàn vòng sáng đa sắc của văn hoá nhân loại”21 thì văn hoá Đại Việt thời Lý, Trần là hiện tượng điển hình của sự tích hợp những vòng sáng đa sắc đó để hợp luyện các thàn tố văn hoá thành giá trị nền tảng và những đặc trưng tiêu biểu, riêng biệt văn hoá dân tộc.
Mở rộng phạm vi nghiên cứu chúng ta thấy, các tác phẩm như: Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Thiền Uyển tập anh, Khoá hư lục22… vừa có sự hỗn dung vừa có dấu ấn sâu đậm của văn hoá khu vực. Sự tương đồng, tiếp biến văn hoá không chỉ diễn ra với văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ mà còn với cả văn hoá Champa, Chân Lạp, Ai Lao… trong mối liên hệ và biến thiên của những mối tiếp giao văn hoá nội vùng, liên vùng. “Điều đó chứng tỏ sự giao lưu văn hoá mạnh mẽ giữa nhân dân ta và các nước láng giềng vốn có từ thời Bắc thuộc. Đặc biệt đến thời Lý – Trần thì đã sâu rộng và bằng cả hai con đường vừa thông qua văn học bác học vừa thông quan văn học dân gian”23.
Khi đi đến quyết định lựa chọn và tôn vinh Phật giáo, hiển nhiên giới quý tộc triều Lý luôn hiểu Phật giáo vốn là một tôn giáo “ngoại nhập” nhưng đã và vẫn là giá trị chung của nhiều quốc gia khu vực. Phật giáo có nhiều tông phái, quan điểm, đã du nhập vào Đại Việt sớm, qua trải nghiệm và trở thành bệ đỡ tư tưởng văn hoá, chính trị của các vương triều Ngô (939-965), Đinh (968-979), Tiền Lê (980-1009) và đã có những phát triển vượt trội dưới triều Lý. Nhà Việt Nam học nổi tiếng Keith W. Taylor từng nhận xét: “Có thể thấy, thế kỷ XI là thời kỳ đạo Phật đã “phá thủng” được cái mộc che chở của thế giới thần linh; lần đầu tiên trong lịch sử xã hội Việt Nam nói chung đã vượt qua được cái viễn cảnh thần linh của việc thờ thần bản xứ. Báo Cực truyện cho thấy đạo Phật đã kéo mình lên nắm lấy các nấc thang vững chắc của thế giới thần linh và các vua Lý đóng vai trò trung tâm trong quá trình này”24.
Nhưng đến cuối thời Lý, Phật giáo bắt đầu xuất hiện khuynh hướng vừa “thế tục hóa” vừa giải thiêng trong tôn giáo. Do vậy, Phật giáo cần có sự định diện lại đồng thời đẩy mạnh quá trình hợp luyện giữa các giá trị truyền thống với các giá trị mới, với một tâm thế mới nhằm khẳng định một cốt cách riêng, một động lực mới cho sự phát triển của dân tộc. Những người đứng đầu triều Trần mà điển hình là các vua Trần Thái Tông (1226-1257), Trần Thánh Tông (1257-1278), Trần Nhân Tông (1278-1293) đã chủ trương tìm kiếm và sáng lập một dòng phái tôn giáo mới thể hiện bản ngã dân tộc. Họ đã gắng công tìm ra con đường đi khác biệt, một “Việt lộ” cho dân tộc. Vương triều Trần đã lựa chọn Thiền (Dhyana, Zen) trong cái thế giới tôn giáo đa dạng đó. Không câu nệ, viện dẫn kinh pháp mà bằng sự nhập định hoàn toàn của tư duy, người theo Thiền tông có thể đạt đến sự yên tĩnh tuyệt đối của tâm trí và như vậy cũng đạt đến tâm Phật. Trong lịch sử, ở một số quốc gia Đông Bắc Á, Thiền tông luôn là sự lựa chọn của các xã hội quân sự, của một đất nước có nhiều biến động, chiến tranh25. Bất cứ ở đâu, ngay tại chiến trường, không cần đến miếu tự cũng như sự thông tuệ kinh pháp, người chiến binh đồng thời là tín đồ Phật giáo vẫn có thể chiêm nghiệm và đạt đến sự giác ngộ. Điều đó lý giải vì sao vào thế kỷ XIII, trong lịch sử tư tưởng, văn hoá Đại Việt lại xuất hiện một Thiền phái Trúc Lâm đặc sắc, có nhiều nét thuần Việt.
Điều đáng chú ý là, sau các cuộc chiến tranh và là điểm đến của các dòng thiên di, bằng nhiều con đường và cách thức khác nhau, những thành tố văn hoá ngoại sinh đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đã được truyền tải đến xã hội Đại Việt. Nhiều nhóm cư dân ngoại tộc đã sống và hoà trộn với cư dân bản địa. Một thể chế chính trị và môi trường văn hoá khoáng đạt đã dung chứa những yếu tố văn hoá ngoại vi để bổ sung cho những khuyết vắng của mình. Từng bước, các yếu tố văn hoá khu vực đã thẩm thấu vào cơ tầng văn hoá bản địa và trở thành một bộ phận hợp thành, giá trị của văn hoá dân tộc. Hiển nhiên, sự hiện diện của những yếu tố ngoại vi đó có thể làm thay đổi đặc trưng thậm chí cấu trúc văn hoá. Nhưng mặt khác, không ít yếu tố văn hoá truyền thống đã tìm được những chất liệu, sinh lực phát triển mới, những tư tưởng và quan niệm mới để phát triển sáng tạo và đạt đến độ thăng hoa26.
Bên cạnh đó, trong thế đi lên của một dân tộc tự cường, các triều đại Lý, Trần cần một bệ đỡ về tư tưởng để củng cố quyền năng của thể chế và dẫn dắt dân tộc. Nhận thấy những ảnh hưởng và sự nhiệm màu của Phật giáo, các triều đại quân chủ đã dựa vào Phật giáo, lấy Chủ nghĩa yêu nước và Tinh thần Phật giáo làm nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng đường lối trị quốc, phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá. Với tinh thần đó, tư tưởng chủ đạo của nhà Trần là ý thức về nguồn cội, về Chủ nghĩa yêu nước và chính Ngọn cờ yêu nước đã quy tụ tất cả các tầng lớp xã hội, tín đồ gắn và hoà mình vào mục tiêu chung là Sự nghiệp chấn hưng dân tộc. Trong bối cảnh đó, Phật giáo đã được lựa chọn như một đối lực để hạn chế xu thế áp chế chính trị, văn hoá Nho giáo đang chuyển động mạnh mẽ xuống phương Nam nhằm thể hiện quyền uy, chiếm đoạt tài vật và mở rộng không gian sinh tồn. Trong suốt nhiều thế kỷ, Phật giáo không trở thành hệ tư tưởng độc tôn mà đã hoà mình với dòng chảy văn hoá, tâm thức dân tộc27. Với tư tưởng “Phật pháp bất định pháp”, Phật giáo đã hoà nhập với các tôn giáo, tín ngưỡng bản địa để tạo nên một khung cảnh đạo đời hoà hợp. “Cái tinh thần “Đạo” “Đời” trong lối sống, trọng Phật, trọng Lão, trọng Nho nhưng “hoà quang đồng trần” (hoà ánh sáng với bụi bặm – ý tưởng triết lý của Lão Tử trong Đạo đức kinh”28 là phương châm quán xuyến tư duy và tâm thế dân tộc.
Trong suốt nhiều thế kỷ, giới quý tộc Lý đặc biệt là nhà Trần đã vượt lên chính mình và đã trở thành tầng lớp Quan liêu – trí thức hoá. Nguồn lực tri thức đó đã tạo nên uy thế chính trị trội vượt đồng thời đem lại Một thế giới thiêng cho giới quý tộc, những người nắm giữ nhiều quyền năng xã hội. Dù rằng, trong hành vi cũng như cuộc sống đời thường họ là những con người bình dị, thân dân, yêu quý và thấu hiểu nỗi thống khổ của nhân dân. Ra khỏi bóng đêm của 1.000 năm Bắc thuộc, các triều đại Lý, Trần đều muốn tìm cho mình một sắc thái, bản lĩnh văn hoá riêng. Bản lĩnh văn hoá đó, rõ ràng không thể chỉ dựa vào lớp văn hoá bên trên vốn đã bị Hán hoá. Do vậy, cũng như triều Lý, nhà Trần phải trở về hồn Việt, với xóm làng, với những giá trị của văn minh nông nghiệp Đông Nam Á – Nam Á, với tinh thần dân chủ làng xã để rồi tự khẳng định mình là một thế giới văn minh trong thế đối trọng giữa hai cực Nam – Bắc.
Tư tưởng thân dân – Giá trị cốt lõi trong tư duy chính trị của các triều đại Lý, Trần đã được hình thành trong bối cảnh đó. Sau những trải nghiệm, hy sinh của nhân dân vì sự tồn vong của dân tộc, chính quyền Thăng Long đã tìm thấy từ nhân dân những điểm tựa vững chắc về tư tưởng, nền tảng vật chất và nguồn sinh lực vô tận cho sự trường tồn của dân tộc. Hiểu rõ vận mệnh lịch sử mà đất nước giao phó, những người nắm giữ vương quyền đều hiểu họ phải có trách nhiệm cùng với dân tộc chống lại kẻ thù hung bạo. Nhưng, kẻ thù đó cũng xuất phát từ quốc gia có truyền thống văn hoá và nền văn hoá đó đã đạt đến trình độ phát triển cao. Như vậy, cùng với những thách đố quân sự, áp lực ngoại giao thì cuộc đối đầu của dân tộc Đại Việt với đế chế phương Bắc còn là cuộc đối đầu về nguồn lực tri thức, sức mạnh văn hoá và tầm cao trí tuệ.
Tinh thần và chủ trương nhập thế của các đấng quân vương – Phật giáo đó được thể hiện trong rất nhiều hành vi và thế ứng đối văn hoá của giới quý tộc thời Lý, Trần. Có thể thấy, lúc sinh thời các quân vương, quý tộc trước hết và chủ yếu không phải là những nhà tu hành “chuyên nghiệp”. Nhưng sau những lo toan, cống hiến, trải nghiệm, thấu hiểu việc nước, sự hoan lạc cùng muôn nỗi đau trần thế… họ mới có thể xuất thế đi tu hoặc trở thành tín đồ. Tâm thế xã hội và tôn giáo đó khiến cho giới quý tộc Trần có được năng lực nhập thế cao thông qua những biểu hiện, hành vi, sự phức cảm và cái nhìn đa diện hơn về trần thế cũng như đức tin tôn giáo. Tâm thế đó khác và vượt trội hơn so các nhà tu hành từ sớm đã dấn thân, trọn đời theo đạo. Điều đó lý giải vì sao, khi đất nước phải đương đầu với giặc ngoại xâm, các nhà tu hành, Thiền gia đều sẵn sàng ra trận thậm chí sẵn sàng đứng trên tuyến đầu chống giặc. Bởi lẽ, nhập thế chính là để cứu đời, để ngăn chặn cái ác, làm điều thiện. Trong một không gian xã hội có nhiều biến dịch thì dù nhập thế hay xuất thế, tâm thế Thiền vẫn luôn hiện hữu ở mọi lúc mọi nơi, trong tất cả mọi hành trạng của con người. Khả năng dự nhập cao đó xuất phát từ quan niệm “Phật ở trong tâm, tâm lặng mà biết thì gọi là Phật”. Trong Phật tâm ca nhà Thiền học uyên bác thời Trần là Tuệ Trung thượng sĩ còn khẳng định rằng: Tâm tức Phật, Phật tức Tâm không thể chia rời Tâm với Phật. Theo đó, Tâm sinh thì Phật sinh, Tâm diệt thì Phật diệt29. Như thế, “Phật giáo đầu thời Trần đã khắc phục khuynh hướng hư vô xuất thế bộc lộ khá rõ ở Phật giáo cuối thời Lý. Đồng thời, nó cũng gạt bỏ những ảnh hưởng của Mật giáo. Có thể nghĩ rằng, tinh thần dân tộc được nâng cao trong thế kỷ XIII đã thổi một luồng sinh khí mới cho Phật giáo”30. Tâm thế đó đồng thời cũng làm biến đổi nhiều quan niệm nhân sinh và triết luận của Phật giáo.
Do có những triết luận sâu sắc về nhân sinh cũng như đức khoan dung nên Phật giáo đã hoà quyện với trào lưu dân tộc và trở thành hệ tư tưởng dẫn dắt tâm thức dân tộc. Có thể coi việc lựa chọn và tôn vinh Phật giáo là một chủ trương lớn, một nhận thức thể hiện sự mẫn cảm trong tư duy chính trị, văn hoá của giới quý tộc Trần trước những áp chế khu vực. Do vậy, vào thời Trần “Toàn bộ tinh lực dân tộc được huy động cho công cuộc giữ nước và dựng nước… Các nhà Thiền học uyên thâm như như Thái Tông, Tuệ Trung, Thánh Tông, Nhân Tông, vào lúc vận nước nguy nan, đều trở thành những người anh hùng lập nhiều chiến công hiển hách. Phật giáo thế kỷ XIII vì thế mà cũng trong sạch hơn và nhập thế hơn”31. Như vậy, sự ra đời của phái Trúc Lâm Yên Tử đã “đánh dấu sự thống nhất của giáo hội Phật giáo Việt Nam”32. Quá trình thống nhất đó đã diễn ra sau khi đất nước đã trải qua ba cơn binh lửa, dân tộc đang trải nghiệm và nhận thức lại chính mình trong tâm thế hướng đến sự an bình, hoà hợp. Xã hội Trần cũng đang cần những liệu pháp tâm lý để xoa dịu nỗi đau nhân thế. Do vậy, các vua và quý tộc triều Trần không chỉ vẫn tiếp tục ủng hộ Phật giáo mà hơn thế còn tự mình trở thành các nhà tu hành, lãnh đạo tôn giáo và thực sự dấn thân vì sự phát triển, sáng tạo tôn giáo. Hơn bất cứ một triều đại nào khác, vào thời Trần tôn giáo, tư tưởng đã gắn kết vô cùng mật thiết và đồng hành với các mục tiêu chính trị. Nói cách khác, các vua và giới quý tộc Trần đồng thời là những người hành đạo.
Về tư tưởng, trong hành trình tìm đến một “Việt lộ”, Phật giáo thời Trần chủ trương kết hợp hài hoà giữa phép đốn ngộ với phép tiệm ngộ, giữa con đường giải thoát tự lực với con đường giải thoát bằng tha lực. Thiền tông Trúc Lâm không những quan tâm đến sự giải thoát của bậc thượng trí mà còn quan tâm đến cả sự giải thoát của những người hạ trí tuy giữa hai giới đó có điều kiện và năng lực giải thoát khác nhau33. Theo đó, bậc thượng trí tuy hiếm nhưng vẫn hiện hữu. Họ là Phật sống tìm thấy Thường – Lạc – Ngã – Tịnh ngay trong cuộc sống hiện tồn còn kẻ hạ trí thì thân luôn cầu sinh đất Phật, sau khi tịch được sinh vào đất Phật rồi lại nhờ chư Phật dạy dỗ nên mới được Phật quả.
Trong hành trình tìm đến một bản sắc trong tư duy Phật giáo, việc Trần Thái Tông đưa ra lý luận về thuyết âm dương để giải thích “Sinh” là một cách giải thích chưa từng có trong Phật giáo kể cả trong Thiền tông Trung Hoa dù rằng tư tưởng âm dương cũng như Dịch thâm nhập vào Phật giáo Trung Hoa rất sâu sắc. Do vậy, cùng với những quan niệm khác biệt về Thuyết tứ sơn, Tứ thiền, về Tâm theo quan điểm giáo tông thì việc gắn các quan niệm của Đạo, Phật với tục thờ cúng tổ tiên, với tín ngưỡng dân gian là những quan niệm dị biệt thể hiện sự sáng tạo và đặc sắc trong triết luận của Thiền tông thời Trần so với các dòng Thiền phương Bắc34.
Về quan niệm nhân sinh, Phật giáo thời Trần chủ trương cách hành xử là sống hoà đồng với đời, không làm trái, đi ngược lại quy luật tự nhiên và như vậy không nhất thiết phải ăn chay, trì giới (giữ Ngũ giới) thì mới trở thành nhà tu hành hay tín đồ đích thực. Sống theo quy luật nên không sợ quy luật và nhờ đó mà đạt đến giác ngộ cùng chân lý tự do. Tuệ Trung từng nêu nguyên tắc: “Hãy đưa tâm ta hợp với tâm của vạn pháp và như vậy là đã đạt đến tâm Phật”35. Thấm hiểu triết lý “vô ngã, vô thường” của Phật giáo, nhiều đấng minh vương, quý tộc thời Trần coi danh vọng, tiền bạc… chỉ là sự hư ảo36. Bên cạnh đó, thấu hiểu đến tận cùng quy luật chuyển xoay của vũ trụ, trong nhận thức về sự sinh tử, họ cũng cho rằng chỉ có những kẻ hạ trí, vô minh thì mới sợ sống chết còn những bậc thượng trí, thấu hiểu Phật pháp thì coi sự sinh tử chỉ là “nhàn” hay chẳng qua là sự trở về với thế giới của sự giác ngộ, sáng suốt mà thôi.
Phật giáo thời Trần có tính nhập thế cao do vậy mà cũng hết sức năng động. Như là những giá trị bổ sung, Phật – Nho – Đạo đều đồng thời thoả mãn những nhu cầu tâm lý, tâm linh cùng những nhu cầu muôn màu của cuộc sống và thực tại xã hội. Vua cha theo Thiền tông nhưng các thái tử, thế tử có thể theo Đạo hay mở trường dạy Nho học. Tinh thần khoan dung và tự do đó chi phối tư tưởng thời Trần và đạt đến độ phóng đạt, dung hợp cao so với thời Lý. Do vậy, vấn đề không phải là theo đuổi hệ tư tưởng hay tôn giáo nào mà cốt yếu là ở chỗ mỗi người đều phải thấu hiểu tình thế đất nước và đều phải có trách nhiệm trước dân tộc. Cùng cần phải nói thêm là, hầu hết các vua thời Trần đều là những người ham học và có tri thức uyên bác trên nhiều lĩnh vực37. Sinh thành từ vùng hạ châu thổ, dòng họ Trần đã tiến về Thăng Long và đã hội nhập mau chóng với môi trường văn hoá, nguồn lực tri thức dân tộc cùng nhiều giá trị văn hoá khu vực ngưng kết ở đất kinh kỳ. Do vậy, chỉ sau thế hệ đầu tiên (ví như Trần Thủ Độ – Một võ tướng, nhiều mưu lược) đến thế hệ tiếp theo, những người gánh vác trọng trách trước dân tộc hầu hết đều là các Quý tộc – trí thức, thông hiểu Tam giáo. Ngay bản thân Trần Thái Tông, cũng có sự chuyển hoá mạnh mẽ và chính ông càng về sau càng trở thành một trí thức, một nhà tư tưởng và một cư sĩ Thiền học uyên bác.
Vào thời Trần, vương triều cũng như các quý tộc tuy theo đuổi và tôn vinh Phật giáo nhưng do yêu cầu phát triển của xã hội và củng cố thể chế quan liêu nên cũng đã từng bước chấp nhận tư tưởng, thiết chế Nho giáo cùng những yếu tố nhất định của Đạo giáo. Thái độ văn hoá đó xuất phát từ nhãn quan văn hoá rộng, nhân bản nhưng cũng có thể coi đó là một trong những biểu hiện khuynh hướng tư duy thực tế của vương triều này. Do vậy, tinh thần tôn giáo, văn hoá thời Trần là sự hoà quyện Tam giáo trong đó điểm cốt lõi là phải giác ngộ để cùng thấu một chữ Tâm38.
Cũng như Trần Thái Tông, các vua Trần đều thấm nhuần tư tưởng Phật – Nho – Đạo. Những người đứng đầu đất nước vừa nghiền ngẫm kinh Phật vừa đọc sách Khổng giáo để rồi từ đó tự đúc rút ra những chân lý và giải pháp để trị nước, cứu đời. Và chính triều đại này, sau khi giành được quyền lực 2 năm đã tổ chức thi Tam giáo. Điều đáng chú ý là, các vua như Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông… đều là những người giỏi lý số và đều có thể đoán trước được nhiều biến đổi của tự nhiên, xã hội và tự dự báo chính xác được số mệnh của mình. Đó là một đặc tính tiêu biểu của Phật giáo Việt Nam.
Điều cuối cùng cần phải nói là, trong lịch sử, Phật giáo không chỉ góp phần phát triển văn hoá dân tộc, thống nhất dân tộc, tạo nên niềm tin và động lực cho sự trường tồn của dân tộc mà dân tộc và thời đại cũng như các điều kiện tự nhiên, xã hội cũng có những tác động sâu sắc đến những nội dung tư tưởng, triết luận và hoạt động phong phú của Phật giáo. Một đất nước sinh thành ở vùng ven biển Thái Bình Dương có khí hậu nhiệt đới, với nhiều biến động của tự nhiên; một đất nước có nền tảng kinh tế chủ đạo là nông nghiệp luôn cần sự ổn định, hoà hợp; một đất nước luôn phải đối diện với nhiều cuộc chiến tranh xâm lược; một đất nước có nền văn hoá đa dạng đồng thời là địa bàn tụ cư của nhiều tộc người, là điểm đến của nhiều dòng di cư… Tất cả những nhân tố đó đã tác động đến Phật giáo, đến vai trò và sứ mệnh của Phật giáo với đất nước, dân tộc và góp phần định diện nên những sắc thái riêng biệt, đặc sắc của Phật giáo thời đại Lý, Trần cũng như Phật giáo Việt Nam trong nhiều thế kỷ sau đó.
__________
1 Năm 300 TCN, dưới thòi hoàng đế Asoka, sau đại hội kiết tập kinh điển lần thứ ba, có nhiều phái đoàn truyền giao đã được cử ra nước ngoài. Trong số đó, có một phái đoàn do hai cao tăng Uttarra và Sona đã đến Sunavarbhumi (Miến Điện), sau đó tiếp tục đến Thái Lan truyền giáo. Có học giả Trung Hoa cho rằng, hai vị đã đến “Giao Châu” truyền giáo ở thành Nê Lê, ở đó còn có bảo tháp Asoka. Thành Nê Lê được xác định là vùng Đồ Sơn, thuộc Hải Phòng, Việt Nam hiện nay. Xem Nguyễn Tài Thư (Cb.): Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1988, tr.22.
2 Dẫn theo Thiền uyển tập anh ngữ lục, Truyện Thông Diệu. Cuốn sách về lịch sử Phật giáo, viết từ thế kỷ XI đến đầu thế kỷ XIII.
3 Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê: Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1993, tr.204.
4 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.205.
5 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.211.
6 John K. Fairbank – Edwin O.Reischauer – Albert M. Craig: East Asia – Tradition and Transformation, Harvard University Press, 1973, pp.258-267. Trong công trình nghiên cứu của mình, A. Toynbee đã coi Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam là ba nền văn minh, thuộc vào một phân loại (sous-classe) có thể gọi là những “Văn minh vệ tinh” (Civilisation satellites). Xem Arnold Toybee: Nghiên cứu về lịch sử – Một cách thức diễn giải, Nxb. Thế Giới, 2002, tr.61.
7 Trường ĐH KHXH & NV, ĐHQG HN: Lý Công Uẩn và vương triều Lý, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, H., 2001, tr.113-120; Ủy ban Nhân dân Tp Hà Nội: Kỷ yếu Hội thảo khoa học 1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, Nxb. Thế Giới, H., 2009, tr.74-84 & 97-103; A.B. Poliacốp: Sự phục hưng của nước Đại Việt thế kỷ X-XIV, Nxb. Chính trị Quốc gia và Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam, H., 1996, tr.74.
8 David Marr and A.C.Milner (Eds): Southeast Asia in the IXth to XIVth Centuries, Institute of Southeast Asian Studies, Singapore, 1986.
9 Từ thời Trần Thái Tông, Nho giáo đã trở thành một bộ phận của tư tưởng xã hội, đường lối trị quốc và phát triển văn hoá. Việc biên soạn các bộ luật, điển chương về cơ bản đều tuân thủ theo tinh thần, nguyên tắc của Nho giáo. Trước nhiều biểu hiện “lệch lạc” trong quan hệ gia đình, xã hội nên năm 1315 nhà Trần đã đề ra quy định cấm cha con, vợ chồng và nô tỳ trong một nhà tố cáo lẫn nhau. Chế độ kỵ huý cũng được đặt ra. Hệ thống khoa cử, giáo dục cũng ngày một thể hiện tinh thần nhất nguyên Nho giáo. Xem Yu Insun: Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVIIXVIII, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1994. Cũng có thể tham khảo thêm bài của GS. Yu: Luật pháp triều Lý – Sự tiếp thu luật nhà Đường và ảnh hưởng của nó tới hình luật triều Lê, trong: Lý Công Uẩn và vương triều lý, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tr.205-234.
10 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr.44.
11 Xem Nguyễn Lang: Việt Nam Phật giáo sử luận, Tập 1, Nxb. Văn học, H., 1992, tr.334.
12 Dẫn theo Hà Văn Tấn: Phật giáo từ Ngô đến Trần (Thế kỷ X-XIV), trong: Nguyễn Tài Thư (Cb.): Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1988, tr.248.
13 Đánh giá về công lao của Trần Thánh Tông và Trần Nhân Tông, Ngô Sĩ Liên chép: “Thánh Tông nối nghiệp Thái Tông, giữa chừng gặp tai hoạ giặc vào cướp, đã uỷ nhiệm tướng thần cùng với Nhân Tông chung sức, cùng nhau vượt qua, khiến cho thiên hạ đã tan mà hợp, xã tắc đã nguy mà lại yên, suốt đời Trần không còn nạn xâm lược của giặc Hồ nữa. Công lao ấy to lớn lắm”. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, Sđd, tr.67.
14 Tháng 4-1289, trong dịp định công dẹp giặc Nguyên, vẫn còn có người chưa bằng lòng, Thượng hoàng Trần Thánh Tông đã dụ rằng: “Nếu các khanh biết chắc giặc Hồ không vào cướp nữa thì nói cho trẫm biết, dù có thăng đến cực phẩm trẫm cũng không tiếc. Nếu không thế mà đã vội thưởng hậu, vạn nhất giặc Hồ trở lại, các khanh lại lập công nữa thì trẫm lấy gì mà thưởng để khuyến khích thiên hạ’’, Đại Việt sử ký toàn thư, Sđd, tr.64.
15 Lê Tắc: An Nam chí lược, Nxb. Thuận Hoá – Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, 2002, tr.123.
16 Nguyễn Văn Kim: Việt Nam trong thế giới Đông Á – Một cách tiếp cận liên ngành và khu vực học, Nxb. Chính trị Quốc gia, H., 2011, tr.114.
17 Việt sử Thông giám Cương mục, Quyển 8, Tập 4, Nxb. Văn – Sử – Địa, H., 1958, tr.549.
18 Việt sử Thông giám Cương mục, Quyển 8, Tập 4, Sđd, tr.554.
19 Phan Huy Lê: Tưởng nhớ công lao của vua Trần Nhân Tông và công chúa Huyền Trân, Tạp chí Xưa & Nay, số 263, tháng 7, 2006, tr.17. Xem Tạ Chí Đại Trường: Thần người và đất Việt, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, 2006, tr.170.
20 Cùng với tư cách là những nhà tu hành, những người khai sáng ra dòng Thiền Việt Nam nhiều vua/ thái thượng hoàng còn là tác giả của những công trình nghiên cứu Phật giáo và văn hoá nổi tiếng như Trần Thái Tông có Thiền Tông chỉ nam, Khoá hư lục; Trần Nhân Tông có Thiền Lâm thiết chủng ngữ lục, Đại Hương hải ấn thi tập, Tuệ Trung có Tuệ Trung thượng sĩ ngữ lục… Ngoài ra còn có: Tham Thiền chỉ yếu của Pháp Loa, Phổ Tuệ ngữ lục và Ngọc Tiền thi tập của Huyền Quang. Cùng với các tác phẩm như Binh thư yếu lược, Vạn Kiếp tông bí truyền thư, Hịch tướng sĩ, Bạch đằng giang phú, Đề Thạch môn sơn… đã thể hiện sâu sắc tinh thần Phật giáo, Nho giáo sự thâm sâu của nền học thuật, triết lý nhân văn cũng như tinh thần yêu nước, khí phách dân tộc Đại Việt thời Trần.
21 Hà Văn Tấn: Bản sắc văn hoá Việt cổ, trong: Đến với lịch sử văn hoá Việt Nam , Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội, 2005, tr.152-153.
22 Viện Văn học: Thơ văn Lý – Trần, 3 tập, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, 1978 & 1989.
23 Đặng Văn Lung: “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì”, trong: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý – Trần, Sđd, tr.548.
24 Keith W. Taylor: Quyền uy và tính chân chính ở Việt Nam thế kỷ thứ XI, Sđd, tr.89.
25 Có thể xem Ishida Kazuyoshi: Nhật Bản tư tưởng sử, 2 tập, (Châm Vũ Nguyễn Văn Tần dịch), Tủ sách Kim Văn, Sài Gòn, 1972; Joseph M.Kitagawa: Nghiên cứu tôn giáo Nhật Bản, (TS. Hoàng Thị Thơ dịch), Nxb. Khoa học Xã hội, H., 2002; hay Stephen Addiss: Nghệ thuật Zen (Tư Tam Định dịch), Nxb. Văn hoá Thông tin, H., 2001.
26 Có thể xem nghiên cứu xuất sắc của cố GS. Trần Quốc Vượng về Huyền thoại Thánh Gióng (Truyền thuyết về ông Gióng trong sách vở và ngoài đời) và khảo cứu của nhà nghiên cứu Chu Xuân Giao trong cách luận giải độc đáo của tác giả về truyện Hà Ô Lôi. Theo đó, dấu ấn Chăm (Ấn Độ) trong các tác phẩm đó là rất sâu đậm. Có thể tham khảo thêm Tống Trung Tín: Nghệ thuật điêu khắc Việt Nam thời Lý và thời Trần (thế kỷ XI-XIV), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1997, tr.170-190.
27 Về vấn đề này Keith W. Taylor viết: “Tôn giáo triều Lý” còn không loại trừ các khác biệt về nguồn gốc sắc tộc và khuynh hướng học thuyết. Người Trung Quốc, người Chăm, người Ấn Độ đều tham gia vào sự thức tỉnh này của thực thể Việt. Các hình thức của tư tưởng Phật giáo đều phát triển bên nhau, học vấn kinh điển, sự giác ngộ có tính bình dân, sự bảo trợ của vua và sự hỉ xả khổ hạnh đều tồn tại song song. Khuynh hướng ưu thế lức bấy giờ là sự tìm hiểu, không phải tìm cách kiểm soát, thử nghiệm hơn là bảo thủ”, Keith W. Taylor: Quyền uy và tính chân chính ở Việt Nam thế kỷ thứ XI, trong Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam: Những vấn đề lịch sử Việt Nam, Nguyệt san Xưa & Nay – Nxb. Trẻ, 2001, tr.75.
28 Trần Quốc Vượng: Đôi điều về nhà Trần – Đức Thánh Trần: Cội rễ lịch sử và sự phát triển trong bối cảnh văn hoá Đại Việt thế kỷ XIII-XIV, trong: Nhà Trần và con người thời Trần, Sđd, tr.48.
29 Xem Nguyễn Duy Hinh: Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1999, tr.592-594.
30 Hà Văn Tấn: Ba yếu tố của Phật giáo Việt Nam: Thiền, Tịnh, Mật, trong: Đến với lịch sử văn hoá Việt Nam, Nxb. Hội nhà văn, H., 2005, tr.289-190.
31 Hà Văn Tấn: Phật giáo từ Ngô đến Trần (Thế kỷ X-XIV), trong: Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nguyễn Tài Thư (Cb.), Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1988, tr.215.
32 Hà Văn Tấn: Chùa Việt Nam, trong: Đến với lịch sử văn hoá Việt Nam, Nxb. Hội nhà văn, H., 2005, tr.218.
33 Nguyễn Đức Sự: Phật giáo và triết học của các Thiền sư thời Đinh, Lê, Lý, Trần, trong: Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nguyễn Tài Thư (Cb.), Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1993, tr.215.
34 Nguyễn Duy Hinh: Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Sđd, tr. 540-551. Xem thêm Nguyễn Văn Huyên: Văn minh Việt Nam, Nxb. Hội nhà văn, H., 2005, tr.356.
35 Dẫn theo Hà Văn Tấn: Phật giáo từ Ngô đến Trần (Thế kỷ X-XIV), Sđd, tr.240.
36 Tháng Tư năm 1236 sau 10 năm ở ngôi, vì nhiều nguyên nhân, Trần Thái Tông đã bỏ kinh thành ra đi với ý định lên núi Yên Tử tu luyện. Trả lời câu hỏi của Trúc Lâm đại sa môn, nhà vua cho rằng: “Trẫm còn trẻ thơ, mẹ cha vội mất, trơ vơ đứng trên dân chúng, không chỗ nương tựa. Lại nghĩ sự nghiệp các đế vương thuở trước hưng phế bất thường, cho nên tìm đến núi này chỉ muốn được thành Phật, chứ không cầu gì khác”. Điều đáng chú ý là, sau khi tìm được đức vua, trong lời khuyên vua Trần trở về nắm giữ vương quyền, Trần Thủ Độ đã thể hiện rất rõ tinh thần Nho giáo đặc biệt là khía cạnh con người trách nhiệm, vị thế quyền lực và lòng trung thành tuyệt đối của kẻ bề tôi với đấng quân vương. Dẫn theo Nguyễn Duy Hinh: Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Sđd, tr. 488-489. Tham khảo thêm một phát ngôn tương tự cũng được ghi lại trong Toàn thư, Sđd, tr. 16 và Viện Văn học, Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam: Thơ văn Lý – Trần, Tập 3, Nxb. Khoa học Xã hội, H., 1989, tr.29.
37 Trong tác phẩm Khoá hư lục Trần Thái Tông từng viết: “Trẫm lượng đức mà chủ trì ngôi báu, rồi trước sau chăn dắt muôn dân. Từng lo vất vả, chẳng ngại sớm hôm. Tuy một ngày trăm việc, cũng trộm lúc rảnh rang, chăm việc, tiếc giờ học càng tăng tiến. Một chữ đinh lo chưa biết đến, đêm canh hai còn gắng tìm xem. Đã duyệt phần điển Khổng Khâu, lại xét sách kinh đạo Thích. Kinh này (Kim cương) vừa gặp trăm cảnh đã sinh, sâu kín mối manh suy đi nghĩ lại, nghiền ngẫm ý nghĩa, thu thập vẻ tinh hoa, làm rạng rỡ lời nói của Thánh nhân, để giúp ích ít nhiều người hậu học”, Xem: Thơ văn Lý – Trần, Sđd, tr.34. Trong Toàn thư, Ngô Sĩ Liên và các sử thần nhà Lê đã không tiếc lời ca ngợi nguồn lực tri thức, đức độ của các vua Trần và nhiều danh tướng như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Phạm Ngũ Lão…
38 Phổ khuyến phát bồ đề tâm xem Viện Văn học: Thơ văn Lý – Trần, Tập 3, Sđd, tr.65.
Nguồn: Vai trò của Phật giáo trong công tác xã hội ―
Nghiên cứu so sánh Việt Nam và Nhật Bản, năm 2013
(Trường Đại học Shukutoku ベトナム国立社会人文科学大学(USSH,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội)
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)
Download file (PDF): Phật giáo Việt Nam thời đại Lý -Trần: Lịch sử, năng lực nhập thế và vai trò xã hội (Tác giả: PGS.TS Nguyễn Văn Kim) |