Phiên dịch học văn hóa – Trường hợp cải biên văn học phương Tây ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX (Phần 1)
Tác giả: Thạc sĩ PHẠM THỊ TỐ THY1
(1Khoa Ngôn ngữ-Văn hóa-Nghệ thuật Khmer Nam Bộ, Trường Đại học Trà Vinh)
CULTURAL TRANSLATION – LITERARY ADAPTATION OF WESTERN LITERATURE IN SOUTHERN VIET NAM AT THE END OF 19th CENTURY AND THE BEGINNING OF 20th CENTURY
TÓM TẮT
Xuất phát từ lý thuyết phiên dịch học văn hóa, bài viết xác định thuật ngữ cũng như vị trí, vai trò của “cải biên văn học” trong hoạt động dịch thuật văn học. Trên cơ sở đó, bài viết giới thiệu một số công trình chuyển ngữ từ các tác phẩm văn học
phương Tây được thực hiện vào giai đoạn cuối thế kỉ XIX đến năm 1945 tại Nam Bộ nhằm tìm hiểu vai trò của hoạt động cải biên trong tiến trình văn học dịch ở Nam Bộ nói riêng, tiến trình hiện đại hóa nền văn học dân tộc nói chung. Bài viết cũng
hướng tới xác định một số đặc điểm của hoạt động dịch văn học ở nước ta thời kì đầu nền văn học quốc ngữ.
Từ khóa: Cải biên văn học, văn học Quốc ngữ Nam Bộ, phiên dịch học văn hóa, dịch văn học phương Tây.
ABSTRACT
From the theory of cultural translation, the paper deals with the defnition of “literary adaption” and its role in the literature translation. Based on that, the research paper introduce the translation
works of Western literature in Southern Viet Nam from the end of 19th century to 1945s so as to fnd out the roles of the literary adaption in the process of literary translation in Southern Viet Nam as well as the process of the literary modernization in Viet Nam. The paper also expects to defnite some characteristics of the literary translation in
the beginning of the Nam Bo Quoc ngu literature.
Keywords: literary adaption, Nam Bo Quoc ngu literature, cultural translation, Western literature translation.
x
x x
1. Mở đầu
Văn học Quốc ngữ Nam Bộ được hình thành từ nửa cuối thế kỉ XIX, có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học dân tộc. Trong tiến trình văn học sử Việt Nam, nền văn học Quốc ngữ Nam Bộ không chỉ dừng lại ở vai trò tiên phong, mở đường cho quá trình hiện đại hóa văn học, mà trước hết đây là nguồn tư liệu vô giá lưu giữ tiếng nói, ngôn ngữ của con người Nam Bộ; cung cấp những thông tin quý báu về đời sống, xã hội, phong tục tập quán, tính cách của con người Nam Bộ. (Lê Giang 2011, tr. 2).
Ra đời trong hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của dân tộc, văn học Quốc ngữ Nam Bộ đóng vai trò chuyển tiếp giữa hệ văn hóa truyền thống và hiện đại, giữa những giá trị nội sinh và ngoại sinh với những bước đi rất cân nhắc, từ việc làm quen với văn hóa ngoại lai qua các công trình dịch thuật, sau đến Việt hóa các tác phẩm phương Tây qua các công trình cải biên và cuối cùng là những sáng tác văn học thực thụ tạo dựng nên một nền văn học Quốc ngữ Nam Bộ “mang trong nó nội dung hiện đại hóa với sắc thái độc đáo như của một phong trào canh tân văn hóa” (Cao Tự Thanh 2009 ). Trên cơ sở vận dụng lý thuyết phiên dich học văn hóa, bài viết bước đầu tìm hiểu thuật ngữ dịch – cải biên và những nội hàm liên quan trong các công trình nghiên cứu dịch thuật, từ đó tìm hiểu hiện tượng phóng tác, cải biên văn học phương Tây trong nền văn học quốc ngữ Nam Bộ qua việc khảo sát hoạt động dịch thuật, cải biên của hai nhà văn: 1). Trương Minh Ký với những công trình cải biên văn học phương Tây đầu tiên; 2). Hồ Biểu Chánh – người cải biên nhiều tác phẩm văn học phương Tây nhất ở Nam Bộ tính đến năm 1945. Bài viết cũng góp phần xác định một số đặc điểm của hoạt động dịch văn học ở nước ta thời kì đầu nền văn học quốc ngữ.
2. Nội dung
2.1. Xác định thuật ngữ “cải biên văn học”
Nghiên cứu dịch thuật được xem là một bộ môn học thuật khá mới, giảng dạy và nghiên cứu về các lí thuyết và hiện tượng dịch thuật. Các lí thuyết dịch thuật vốn đã được manh nha từ rất sớm ở cả phương Tây lẫn phương Đông, nhưng mãi đến nửa sau thế kỉ XX mới xuất hiện các công trình mang tính tổng hợp các khái niệm và lí thuyết thuộc lĩnh vực này. Tuy nhiên, hầu như trong những công trình lí thuyết dịch thuật được xuất bản sớm nhất của thế kỉ XX, trọng điểm nghiên cứu dịch thuật vẫn xoay quanh ý niệm “dịch thế nào” và tìm kiếm các tiêu chí dịch sao cho trung thành nhất với nguyên tác. Nói cách khác, buổi đầu của lí thuyết dịch thuật chủ yếu xuất phát từ lập trường ngôn ngữ. Từ góc độ ngữ học, dịch thuật, hiểu một cách chặt chẽ là việc chuyển một văn bản từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác, sao cho “trung thành” với thông điệp gốc. Và do vậy, bất kì sự sai lệch nào xét về câu chữ, cú pháp hay nội dung giữa bản dịch và bản gốc, người ta sẽ quy kết mọi điều không hay cho dịch giả, “dịch là phản” – một đúc kết có từ rất lâu của ngạn ngữ Ý. Từ những năm 70 của thế kỉ XX, nghiên cứu dịch thuật chuyển sang một trang mới với sự xuất hiện của trường phái văn hóa, nghiên cứu dịch thuật từ các phương diện văn hóa, “những nghiên cứu này đã chuyển từ nghiên cứu dịch thuật với tư cách là hoạt động chuyển ngữ sang nghiên cứu bối cảnh văn hóa xuất hiện hành vi dịch thuật và nghiên cứu những nhân tố tương quan khác khống chế dịch thuật.” (Đỗ Văn Hiểu 2012). Chính khi nghiên cứu văn bản dịch trong bối cảnh văn hóa, đặt trọng tâm nghiên cứu mối quan hệ đa chiều giữa tác giả – nguyên tác – dịch giả – bản dịch – độc giả, trong đó dịch giả đóng vai trò “song trùng thân phận”, lý thuyết dịch đã mở rộng hơn cái phạm vi chuyển ngữ trực tiếp, chỉ chú trọng vào sự trung thành, sự tương đương. Trong bài luận Dịch thể loại (Translating Genre), Susan Bassnett đã khẳng định rằng: “Khi văn bản đang dịch không có được cái hình thức tương đương trong nền văn học đích, ấy là lúc dịch giả có thể kiến tạo một hình thức hoặc một thể loại hoàn toàn mới cho nền văn học đó, hoặc phá tung văn bản gốc để cho nó phù hợp với tầm đón nhận của độc giả đích.”2. Theo đó, dịch thuật còn là hoạt động mang tính tái sáng tạo có sự chủ động của dịch giả, và do vậy, trong quá trình giao lưu đa chiều với nguyên tác và với độc giả, trong đó người tiếp nhận là mục đích cuối cùng của dịch thuật, dịch giả có thể “đột phá mô hình phiên dịch truyền thống”, thay đổi, cải biên cho phù hợp với “khuynh hướng tiếp nhận và tầm đón nhận thẩm mĩ của người đọc.”
Cũng xuất phát từ lý thuyết văn hóa so sánh, khi bàn “Về vấn đề các quan hệ văn học”, Konrat đã phân loại các cấp độ tiếp nhận văn học ngoại lai, trong đó dịch thuật được nhắc đến như một trong những hình thức xâm nhập hữu hiệu của một nền văn học vào thế giới của một nền văn học khác, và ông khẳng định quy mô tác động của hình thức thâm nhập này “hết sức to lớn” so với việc tiếp xúc thẳng văn hóa ngoại lai trong dạng nguyên tác. Xét từ các hình thức quan hệ văn học, Konrat không chỉ dừng lại ở dịch thuật với ý nghĩa là hoạt động chuyển ngữ, trung thành với nội dung bản gốc mà do sự chi phối từ những cách lĩnh hội nguyên tác khác nhau, do “yêu cầu của thời đại” nên “quan hệ văn học” còn được hình thành bởi những hành động khác – những kiểu dịch sáng tạo. Đó có thể là sự phóng họa lại những nội dung, những đề tài từ nguyên tác; hay xuất phát từ sự thích nghi với bạn đọc, quan hệ văn học được thiết lập trên hình thức “thích nghi dân tộc”, tức là cải biên cốt truyện của nguyên tác, thay thế những chất liệu trong bản gốc bằng những chất liệu, những yếu tố phù hợp với quan niệm và thị hiếu của phía tiếp nhận. Ngoài ra, còn có các kiểu phóng họa thể loại hay vay mượn một số mô típ, đề tài, chi tiết của nguyên tác. Như vậy, quan niệm về các hình thức thiết lập nên các quan hệ văn học của Konrat giúp hình dung về một hành động mang tính sáng tạo tiếp nối công việc dịch thuật – “cải biên” những sáng tác văn chương của các nền văn học khác nhau trên thế giới. Điểm đáng chú ý ở đây là, sự cải biên này được thực hiện “theo một dạng thể thích nghi với bạn đọc”, và do vậy được gọi là sự “thích nghi dân tộc” (Konrat 1997, tr. 275).
Nữ học giả Corinne Lhermitte, trong bài báo “Adaptation as Rewritting: Evolution of a Concept” (Cải biên như sự viết lại: Sự tiến hóa của một khái niệm) xuất bản trên Reveu Lisa/ Lisa-e-journal năm 2004, cũng xuất phát từ phương diện so sánh – lịch sử, đã trình bày chi tiết cách hiểu thuật ngữ “adaptation” trong các trường hợp khác nhau theo trục niên biểu, đồng thời mở rộng lý thuyết thể loại của M. Bakhtin trong việc nghiên cứu sự tiến hóa của cải biên văn học với tư cách là một thể loại. Theo Corinne Lhermitte, xét trên bình diện từ nguyên học, “adaptation” có nguồn gốc từ chữ Latinh “adaptatio” – vốn là “một hình thức đặc thù của dịch thuật cho phép sự sáng tạo nhất định, cải biên hàm nghĩa là sự biến đổi, sự điều chỉnh và sự chiếm dụng khi được sử dụng đầu tiên vào thế kỉ XIII”. Do vậy, từ thời Trung cổ, thuật ngữ “translatio” bao gồm các cách hiểu: dịch thuật, cải biên và diễn ngôn mang tính phúng dụ hay ẩn dụ mở rộng. Thông qua sự phân tích, diễn giải quá trình chuyển hóa hai khái niệm cải biên và dịch thuật trong các giai đoạn lịch sử khác nhau, từ thời Trung cổ đến thời kì Khai sáng và sang cả giai đoạn giải cấu trúc, nữ học giả đã trình bày những quan điểm trái chiều nhau trong cách hiểu thuật ngữ cải biên. Trong suốt chiều dài gần năm thế kỉ – từ thời Trung Cổ đến trước thời kì Khai Sáng, cải biên được xem là một hoạt động dịch thuật năng động, tích cực – “một cố gắng tập thể hướng đến tri thức và tiến bộ”, một tiểu thể loại của dịch thuật, một sự viết lại cho phù hợp với “những chuẩn mực của nền văn hóa đích đương thời”, hướng tới mục đích “góp phần làm giàu có ngôn ngữ và xây dựng một nền văn chương bản địa” (Corinne Lhermitte 2004). Đến giai đoạn bùng nổ chuyển thể sân khấu ở thế kỉ XVII, cải biên thêm nét nghĩa là một hoạt động chuyển thể sáng tạo, “tái sinh” những tác phẩm văn học trong hình hài những kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh. Một số học giả, theo dẫn giải của Corinne Lhermitte, đã sử dụng những ẩn dụ liên quan đến “tục ăn thịt người” hay đề xuất ý niệm “những người đẹp không chung thủy” khi bàn về hoạt động cải biên văn học. Sự so sánh, ẩn dụ này nhằm hướng đến khẳng định cải biên trong hoạt động dịch văn học như là “một giải pháp” của các dịch giả nhằm làm giàu hơn ngôn ngữ bản địa, tô thêm vẻ đẹp cho “văn học quê nhà”. Vấn đề Corinne Lhermitte muốn nhấn mạnh, sau những quan điểm phổ dụng xem cải biên (adaptation) như một tiểu thể loại của dịch thuật từ thế kỉ XVIII trở về trước, “một cách bất ngờ” (nguyên văn “suddenly”), cải biên trong thời kì Khai Sáng được nhìn nhận gắn liền với khái niệm “đạo văn” (plagiarism), và vì thế sự sáng tạo, “sự phát triển nghệ thuật được đặt dưới lớp kính hiển vi của luật pháp”. Như nữ học giả đã nói rõ trong phần tóm tắt, mục đích bài báo là truy nguyên lịch sử vận động của cải biên học như là một tiểu thể loại của dịch thuật trên các bình diện từ nguyên học, văn hóa học và ngôn ngữ học; lần lượt nội dung bài viết đã trình bày rằng qua các giai đoạn lịch sử, sự tiến hóa của tiểu thể loại này vô cùng phức tạp, câu chuyện chấp nhận và không chấp nhận tính khả chuyển ngữ/khả chuyển thể của một nguyên tác vẫn không có hồi kết thúc. Bài báo cung cấp một quan niệm khá rõ của Corinne Lhermitte đối với cải biên văn học, theo đó cải biên có một mối quan hệ gần gũi với dịch thuật – “quan hệ họ hàng” (kindship), là một “phương thức dịch thuật” đóng vai trò như một giải pháp giúp dịch giả/nhà văn trau dồi tài năng nghệ thuật, góp phần làm phong phú nền văn học của các dân tộc. Ý tưởng về việc xem dịch thuật như là sự viết lại vốn đã được André Lefevere và Susan Bassnett công bố trong công trình Translation, Rewriting, and the Manipulation of Literary Fame (1992), trong đó nhóm tác giả đề xuất ý tưởng nghiên cứu dịch thuật như một hình thức viết lại, được chuyển ngữ và được tiếp nhận trong khung ý thức hệ và chính trị của hệ thống văn hóa đích. Lefevere cho rằng bất kì văn bản nào, đặc biệt những văn bản văn chương, khi được chuyển ngữ đều có chủ ý của người dịch trong việc “cải biên” văn bản gốc ở một mức độ ý thức hệ hoặc thi pháp của một giai đoạn, một thời đại, hoặc cả hai, đang giữ ảnh hưởng trong ngôn ngữ đích. Có thể thấy rằng bài viết của nữ học giả Corinne Lhermitte đã tiếp tục phát triển ý tưởng này bằng việc định danh và đi sâu tìm hiểu cụ thể một hình thức viết lại của dịch thuật – cải biên văn học.
Một nhà nghiên cứu dịch thuật trẻ, Henry Whittlese, trong công trình A Typology of Derivatives: Translation, Transposition, Adaptation (Hệ thống các loại hình phát sinh: dịch thuật, chuyển vị, cải biên), đăng trên Tạp chí Khoa học Dịch thuật (Translation Journal) tháng 6/2012, cho rằng trong giai đoạn hậu hiện đại, sự cải biên (adaptation) trở thành một hiện tượng phổ biến: cải biên trong văn chương, trong âm nhạc và trong điện ảnh. Theo tác giả, nếu việc dịch (transalation) một văn bản phải tuân theo những nguyên tắc, quy ước cụ thể để đảm bảo tính chính xác với bản gốc, thì ngược lại gần như không có một nguyên tắc hay tiêu chuẩn nào đối với các hình thức của một tác phẩm cải biên. Trọng tâm của bài báo trình bày cách hiểu của tác giả về sự chuyển vị/hoán vị (transposition) trong dịch thuật – một hoạt động dịch giữ vai trò chuyển tiếp giữa dịch thuật (translation) và cải biên (apdaptation). Henry Whittlesey đã cung cấp khá chi tiết những lí giải cùng các minh chứng để độc giả hiểu và chia sẻ với quan điểm của mình. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy, thật ra dịch – chuyển vị cùng các hình thức cụ thể chính là sự mở rộng hơn cách hiểu thuật ngữ dịch – cải biên (adaptation). Theo đó, hoạt động dịch thuật này có thể bao gồm các dạng thức: cải biên nội dung; cải biên hình thức; cải biên nội dung và hình thức; cải biên tác phẩm văn học thành kịch bản sân khấu hay một thể loại truyền thông khác (Henry Whittlese 2012). Xu hướng “chuyển vị thể loại” trong dịch thuật vốn đã được Susan Bassnett dành nhiều trang để phân tích và dẫn chứng từ văn học châu Âu trong bài luận Dịch thể loại, trong đó quan điểm chung của Susan Bassnett là xem dịch – chuyển vị thể loại như một trong những hoạt động dịch sáng tạo, đồng thời cũng là một trong những phương cách hữu hiệu để nhận diện “quá trình biến đổi thể loại như là những quá trình sửa đổi bất tận”.
Tựu trung lại, một số công trình nghiên cứu dịch thuật tiếp cận từ lý thuyết văn hóa nói trên đã góp phần xác lập cách hiểu thuật ngữ “cải biên” cũng như lịch sử vận động của thuật ngữ này trong lịch sử nghiên cứu dịch thuật của nhân loại. Những luận điểm của các học giả trước hết khẳng định cải biên là một thể loại dịch thuật, một hoạt động dịch mang tính sáng tạo và từ đó xác định vị trí, vai trò của hoạt động này trong sự tiến hóa của các nền văn học.
Ngược dòng lịch sử dịch thuật Việt Nam, với vốn tài liệu đã tìm hiểu, chúng tôi chưa thể khẳng định cụ thể thời gian xuất hiện tác phẩm cải biên văn học nước ngoài đầu tiên ở Việt Nam, nhưng có thể nhận thấy hoạt động dịch – cải biên trong tiến hình văn học Việt Nam phát triển mạnh từ giai đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII, khi loại hình tiểu thuyết tài tử giai nhân của văn học Trung Quốc xâm nhập vào nền văn học dân tộc. Trong công trình “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực”, Trần Nghĩa đã sử dụng thuật ngữ cải biên trong khi bàn về những tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam được chuyển thể từ tác phẩm văn học cổ Trung Quốc. Nhà nghiên cứu ước khoảng “trong số 90 tiểu thuyết Hán – Nôm Việt Nam…, có ít nhất 20 trường hợp chuyển thể (adaptation) từ tác phẩm văn học Trung Quốc”. Ở đây, ông có sự phân biệt khá rạch ròi giữa chuyển thể (adaptation) và mô phỏng (imitation), trong đó hình thức chuyển thể/cải biên được đề cập trong bài viết “là vay mượn cốt truyện từ tiểu thuyết văn xuôi, hí khúc, thoại bản, ca bản, truyện kí hoặc biến văn của Trung Quốc rồi chuyển thể thành tiểu thuyết chữ Nôm thể lục bát, thất ngôn bát cú hay thất ngôn tứ tuyệt. Chúng vừa mang tính chất dịch thuật (translation), lại vừa mang tính chất cải biên (adaptation)” (Trần Nghĩa 1999). Trong khi đó, những tiểu thuyết mô phỏng viết bằng chữ Hán chủ yếu “vay mượn phương thức chuyển tải (thể loại, văn liệu,…),… kĩ thuật trình bày (kĩ xảo) của tiểu thuyết cổ Trung Quốc” (Trần Nghĩa 1999), một tác phẩm mô phỏng thành công sẽ trở thành mẫu mực về mặt thể loại và từ đó khai sinh ra những tác phẩm bản địa cùng tính chất, chẳng hạn Truyền kì mạn lục do Nguyễn Dữ soạn phỏng theo Tiễn đăng tân thoại (tác giả Cù Hựu, người Trung Quốc, đời Minh) đã làm tiền đề cho sự ra đời những tác phẩm mô phỏng tiếp sau đó trong nền văn học Hán Nôm của dân tộc như: Truyền kì tân phả (Đoàn Thị Điểm), Tân truyền kì lục (Phạm Quý Thích), Thánh Tông di thảo (khuyết danh),… Bài viết cũng đề cập riêng tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du – một trường hợp cải biên tác phẩm văn học nước ngoài thành công bậc nhất trong nền văn học dân tộc – nhằm nhấn mạnh đến giá trị của hoạt động dịch – chuyển thể/cải biên. Theo Trần Nghĩa, chính sự chuyển dịch sáng tạo của Nguyễn Du, linh hoạt chuyển từ thể loại văn xuôi trong bản gốc sang thể thơ lục bát và bằng tiếng mẹ đẻ với những tình điệu dân tộc đã mang lại thành công vượt bậc của Truyện Kiều.
Đồng quan điểm của nhà nghiên cứu Trần Nghĩa, trong hành trình khơi sâu những giá trị của nền văn học cổ của dân tộc, học giả Nguyễn Nam, trên cơ sở tiếp cận đa dạng các xu hướng nghiên cứu phiên dịch học lịch sử – văn hóa, liên văn bản, cũng đã khẳng định “những thành tựu về văn học so sánh Trung Việt cho thấy nhiều trường hợp điển hình về việc người Việt Nam thưởng thức và dựa vào tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc để cải biên, viết thành tiểu thuyết Hán văn của mình” . Ông cũng cho rằng hoạt động “cải biên từ văn xuôi tự sự (tiểu thuyết Hán văn) sang vận văn quốc âm (truyện thơ Nôm lục bát) trở thành con đường chủ yếu giới thiệu các giá trị văn chương nước ngoài (chủ yếu là từ Trung Quốc) đến đại chúng” (Nguyễn Nam 2002, tr. 36).
Trong bài luận khá dài bàn về “Truyện Nôm, vài khía cạnh văn học sử”, Lại Nguyên Ân đã trình bày quan điểm của ông đối với vấn đề chuyển dịch, vay mượn tác phẩm nước ngoài thông qua hiện tượng diễn Nôm trong lịch sử văn học dân tộc. Theo ông, hoạt động diễn Nôm ở thể loại truyện, “nếu xét ở cấp độ các yếu tố ngôn ngữ cấu thành văn bản tác phẩm, ta cũng có thể nói đến những thao tác dịch thuật được biểu hiện ở những ngôn liệu, thi liệu vay mượn và Việt hóa, tương tự như đối với thơ Nôm. Nếu xét ở cấp độ tác phẩm thì chỗ đáng quan tâm nhất là những truyện có gốc tích ngoại lai, chủ yếu là vay mượn tác phẩm Trung Hoa” (Lại Nguyên Ân 1996). Từ đó, dẫn theo Kiều Thu Hoạch, ông cho rằng trong danh mục gồm 100 truyện nôm có khoảng 20 truyện vay mượn hoặc cải biên từ truyện tích Trung Hoa. Dù mới dừng lại phân tích một vài trường hợp truyện Nôm cụ thể nhưng Lại Nguyên Ân “vẫn tin rằng hoạt động diễn nôm nói chung, nhóm truyện Nôm nói riêng, nhất là các truyện Nôm mượn tích từ văn học Trung Hoa (từ thế kỷ XIX trở về trước) chính là vùng thượng nguồn, nơi ra đời của văn học dịch, một bộ phận cấu thành quan trọng của văn học trung đại Việt Nam” (Lại Nguyên Ân 1996).
Điểm qua một số công trình nghiên cứu liên quan hoạt động cải biên trong nền văn học Hán – Nôm, chúng tôi nhận thấy, dù đối tượng tiếp cận trong bài viết của Trần Nghĩa, Lại Nguyên Ân hay của nhà nghiên cứu dịch thuật Nguyễn Nam là thực tiễn hoạt động văn học Việt Nam nhưng cách hiểu của các ông về hoạt động cải biên văn học không xa lạ với quan điểm của các nhà nghiên cứu dịch thuật quốc tế đã trình bày trên, cũng đồng xem cải biên là một hoạt động dịch sáng tạo với mục đích trước hết nhằm phong phú hóa nền văn học nước nhà, đồng thời là cơ hội để các dịch giả – tác giả đào luyện thêm nghệ thuật viết văn.
Trở lại thực tế hoạt động văn chương ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, những nhân vật chính tham gia trực tiếp vào công việc thiết lập quan hệ văn học Đông – Tây đã từng có những bộc bạch nào liên quan đến hành động “thích nghi dân tộc”? Trương Minh Ký, người mở đầu phong trào dịch văn học phương Tây ở Nam Bộ, đã có quan niệm khá độc đáo, phản ánh cái gốc văn hóa Hán Nôm vẫn còn vương vấn ít nhiều trong lớp trí thức Tây học ngay trong những dòng đầu của tác phẩm Phú bần truyện diễn ca, “Phú bần truyện thiệt tiếng tây. Diễn ra quấc ngữ cho bầy trẻ coi”. Với Trương tiên sinh, dịch – cải biên văn học phương Tây không xa mấy kiểu diễn Nôm các tác phẩm Hán học đã rất phổ biến ở Nam Bộ, vốn đã được Lại Nguyên Ân bàn khá kĩ trong tài liệu đã dẫn. Đến Hồ Biểu Chánh, quan niệm của ông về hoạt động này được trình bày cụ thể như sau: “Đọc tiểu thuyết hay tuồng Pháp văn hễ tôi cảm thì tôi lấy chỗ tôi cảm đó mà làm đề, rồi phỏng theo ít nhiều, hoặc tách riêng ra làm mà sáng tác một tác phẩm hoàn toàn Việt Nam. Tuy tôi nói phóng tác song kỳ thiệt tôi lấy đại ý mà thôi, mà có khi tôi lật ngược với đại ý, làm cho cốt truyện trái hẳn, tâm lý khác xa với truyện Pháp” (Dẫn theo Huỳnh Thị Lành 2007, tr. 45). Như vậy, nhà văn Hồ Biểu Chánh đã ý thức rất rõ hoạt động phóng tác, cải biên văn học. Tuy nhiên, từ lời phát biểu trên, có thể nhận một điểm khá thú vị ở hoạt động này của tiên sinh, cũng là một nét đặc thù của hoạt động dịch – cải biên văn học phương Tây ở Nam Bộ giai đoạn đầu, là hành động phóng tác, cải biên không chỉ xuất phát trên cơ sở tiếp nhận một tiểu thuyết văn chương mà còn có thể thông qua một tuồng hát, một vở kịch.
Trong các công trình nghiên cứu gần đây, thực hiện cùng với chủ trương khôi phục lại diện mạo nền văn học Quốc ngữ Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, các học giả ít nhiều có trình bày cách hiểu về hoạt động phóng tác văn học, chủ yếu trong các bài viết liên quan đến nhà văn Hồ Biểu Chánh. Khi phân tích sự thẩm thấu của một số mô hình tiểu thuyết phương Tây vào thực tế văn học Việt Nam đầu thế kỷ XX, Phạm Xuân Thạch đã phát biểu ngắn gọn: “Nhiều sơ đồ cốt truyện được sử dụng lại gần như nguyên vẹn dưới dạng phóng tác, một hành vi thực chất là sử dụng công cụ nghệ thuật từ những nền văn hóa ngoại lai để phục vụ ý đồ nghệ thuật của chủ thể sáng tạo” (Phạm Xuân Thạch 2002)3. Cụ thể hơn, xuất phát từ lý thuyết văn học so sánh, Hoàng Cẩm Giang đã có sự so sánh, đối chiếu cách hiểu thuật ngữ “phóng tác” trong các công trình, giáo trình nghiên cứu văn học, trong các từ điển văn học, từ điển tiếng Việt đã xuất bản và đi đến kết luận: “xem xét hiện tượng phóng tác không chỉ là việc chuyên chú xem “tác phẩm được phóng tác đã vay mượn những gì” mà quan trọng hơn là cách thức, mức độ của sự tiếp nhận và động lực thực sự của quá trình này” (Xem Hoàng Cẩm Giang 2013)4. Tuy nhiên, trong dịch văn học, tiến trình chuyển dịch một tác phẩm văn học có thể đi từ dịch nguyên tác, đến hoạt động phóng tác và sau cùng là mô phỏng, cải biên; hiểu đơn giản, đó là con đường đi từ thích ứng đến vận dụng, chế tác cho phù hợp với nhu cầu.
Khảo qua những công trình nghiên cứu trong và ngoài nước liên quan đến cội nguồn, quá trình vận động và vai trò trong nền văn học nhân loại của hoạt động cải biên học, chúng tôi rút ra ra một số vấn đề sau:
– Thứ nhất, cải biên học đã xuất hiện từ khá sớm trong các nền văn học trên thế giới. Tại Việt Nam, hoạt động cải biên văn học đã phát triển mạnh mẽ từ cuối thế kỉ XVIII gắn với hiện tượng diễn Nôm các truyện tích gốc Trung Hoa.
– Thứ hai, hoạt động cải biên được đặt trong mối quan hệ với dịch thuật, cụ thể là một loại hình dịch sáng tạo, trong đó dịch giả/tác giả vay mượn nội dung nhưng chuyển thể hình thức của bản gốc hoặc vay mượn hình thức và một số tình tiết, nhân vật trong nguyên tác để sáng tác một tác phẩm mới.
– Thứ ba, hoạt động cải biên đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy giao lưu giữa các nền văn học, qua đó góp phần thúc đẩy nền văn học dân tộc phát triển.
Hiện nay, thuật ngữ “cải biên” (adaption) được sử dụng phổ biến trong trường hợp cải biên/chuyển thể tác phẩm văn học thành các kịch bản sân khấu, kịch bản điện ảnh. Đây cũng là một hình thức phiên dịch văn chương, không dừng lại ở sự chuyển ngữ mà các nhà cải biên đã thực hiện việc chuyển thể, làm biến đổi dạng thức hoặc còn gọi là sự chuyển dịch liên kí hiệu. Từ điển Tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) đã định nghĩa cải biên là “sửa đổi ít nhiều hoặc biên soạn lại (thường nói về vốn nghệ thuật cũ)”. Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên) cũng định nghĩa tương tự, cải biên là “sửa đổi hoặc biên soạn lại theo hướng mới: cải biên một số làn điệu dân ca – cải biên tuồng cổ”.
Trong bài viết, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “cải biên văn học” nhằm hướng đến các công trình dịch văn học phương Tây ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945 dưới những hình thức phóng tác, mô phỏng. Theo đó, sẽ bao gồm những công trình cải biên hình thức, tức là chuyển dịch từ thể loại này sang thể loại khác, “thi vận hóa một bản văn xuôi, và ngược lại diễn thành văn xuôi một văn bản bằng thơ” (Francois Ost 2011, tr. 195), những công trình cải biên nội dung hoặc cải biên cả nội dung và hình thức.
__________
2 Trích từ Chương II – “Genre in Adaptation and Translation” trong Garin Dowd, Lesley Stevenson và Jeremy Strong (biên tập). 2006. Genre Matters – Essays in Theory and Criticism. The University of Chicago Press. 178 trang.
3 Bài viết đã đăng trên Tạp chí Nhà văn, tháng 7/2002.
4 Bài viết đã đăng trong sách 100 năm nghiên cứu và đào tạo các ngành khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.153-171.
Còn tiếp. Mời quý độc giả đón xem:
Phiên dịch học văn hóa – Trường hợp cải biên văn học phương Tây ở Nam Bộ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX (Phần 2)
Nguồn: Tạp chí Khoa học Xã hội & Nhân văn, Số 20, tháng 12/2015
Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)