Phong tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ văn hóa địa phương

WORSHIP BEINGS THROUGH THE LOCAL CULTURAL PERSPECTIVE

Tác giả bài viết: Sinh viên Quảng Văn Hoàng
Tiến sĩ Nguyễn Thị Việt Hằng
(Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2)

TÓM TẮT

     Cúng chúng sinh là một trong những phong tục tiêu biểu của người Việt Nam chứa đựng trong đó nhiều nét đẹp văn hóa mang tính nhân văn rõ nét. Cho rằng tháng Bảy là tháng “cô hồn”, là thời điểm tất cả các cô hồn được trở về nhân giới trong đó có rất nhiều quỷ đói nên trong thời gian này, ở nhiều nơi đều làm mâm cỗ cúng thí cho chúng sinh khắp nơi. Xưa nay đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tục cúng chúng sinh vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng hầu hết đều chỉ nhìn nhận một cách chung chung mà quên mất một điều rằng mỗi địa phương khi tiếp nhận lại có một quan niệm và cách cúng khác nhau. Trong báo cáo này, ngoài việc tìm hiểu về việc cúng chúng sinh chung của dân gian, chúng tôi còn tìm hiểu phong tục này ở một địa phương cụ thể để thấy được cái hay, cái đẹp, cái tâm, tình tương thân tương ái của con người Việt Nam khi tiến hành nghi lễ.

Từ khóa: phong tục, chúng sinh, văn hóa địa phương…

ABSTRACT

     Worshiping beings is one of the typical customs of Vietnam, and it contains cultural beauty with rich humanities. It is said that July – the month of “ghosts” is the time when all its wandering souls return to the world in which there are so many hungry ghosts so that people offer trays born in many places. From the past to present, there has been many researchers learnt about worshiping beings customs in the middle (full moon) of July, but almost all have just recognized in a general way but forgot one thing that each locality has a concept and a different way of offering. In this report, in addition to learning about the offerings of the common folks, we also learn this customs in a particular locality to identify the good, the beauty, the mind, and the Vietnamese’s solidarity when conducting rituals.

Keywords: customs, beings, local culture…

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Cùng với hôn nhân, tang ma và lễ tết, lễ hội, cúng chúng sinh là một trong những phong tục tiêu biểu của người Việt Nam chứa đựng trong đó nhiều nét đẹp văn hóa mang tính nhân văn rõ nét. Dân gian ta quan niệm, “cô hồn” là những vong hồn bị chết uổng, chết oan và khi về âm giới thì không nơi nào tiếp nhận, không người đơm cúng ngày tuần tiết, sóc vọng. Cũng theo dân gian ta, ngày tết cô hồn bắt đầu từ ngày 1/7 âm lịch hàng năm và kéo dài đến hết tháng. Nhưng từ bao đời nay, nhân dân đã lấy ngày Rằm tháng Bảy âm lịch làm ngày chính để khao giải và phổ độ cho các cô hồn và ngày này trùng với Lễ Vu Lan báo hiếu của Phật Giáo nên nhiều người lầm tưởng hai lễ này là một. Cho rằng tháng Bảy là tháng “cô hồn”, là thời điểm tất cả các cô hồn được trở về nhân giới trong đó có rất nhiều quỷ đói nên trong thời gian này, ở nhiều nơi đều làm mâm cỗ cúng cho chúng sinh khắp nơi để cầu giải thoát cho họ và tránh để họ quấy nhiễu. Điều này không chỉ thể hiện nét văn hóa tâm linh đặc sắc của người Việt mà con thể hiện một văn hóa ứng xử đối với người ở thế giới bên kia. Tiếp thu tinh thần ấy của dân gian, nhìn nhận từ góc độ văn hóa, chúng tôi đi tìm hiểu phong tục cúng chúng sinh của dân gian để thấy được cái tâm, cái tình, cái đức của người Việt Nam thể hiện qua hành động làm phúc của mình.

     Cúng chúng sinh là một mỹ tục được hình thành từ xa xưa, phát triển cho đến ngày nay và chắc chắn sẽ còn tồn tại mãi về sau trong văn hóa Việt Nam. Đề cập đến vấn đề này, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu về tục cúng chúng sinh (cô hồn) vào ngày Rằm tháng Bảy nhưng hầu hết đều chỉ nhìn nhận một cách chung chung mà trên thực tế mỗi địa phương khi tiếp nhận lại có một quan niệm và cách cúng khác nhau chứ không hoàn toàn đồng nhất. Chính vì vậy, chúng tôi chọn đề tài “Phong tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ văn hóa địa phương” và tiến hành khảo sát ở một địa phương cụ thể – vùng đất Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc để từ đó cho thấy nét riêng trong quan niệm của người dân nơi đây, thấy được nét đẹp văn hóa tâm linh thể hiện trong phong tục này.

2. Nội dung

     2.1. Phong tục cúng chúng sinh trong văn hóa truyền thống

     Theo tín ngưỡng cổ truyền người ta quan niệm “sống gửi, thác về” và cho rằng con người có hai phần: Hồn và xác. Khi đã mãn hạn trần gian con người trở về nơi vốn là của họ (thế giới bên kia) và khi đó hồn lìa khỏi xác, xác thì phân hủy còn hồn thì tiếp tục tồn tại. Những người theo Phật giáo và không theo tôn giáo nào cho rằng hồn sẽ về Tây Phương cực lạc, người theo Thiên chúa giáo cho rằng linh hồn sẽ lên thiên đàng cùng Chúa trời. Những linh hồn ấy sẽ sớm được siêu sinh tịnh độ đầu thai làm kiếp này hay kiếp khác hay bị đày đọa vào ngạ quỷ tùy thuộc vào những điều lành hay dữ mà họ làm khi còn sống. Nếu khi còn sống làm nhiều điều ác thì khi chết đi sẽ bị đày đọa khổ cực hay những người chết uổng chết oan bị bơ vơ nơi nọ nơi kia không nơi nương tựa sẽ khó siêu thoát. Vì lí do đó mà họ được gọi là các “cô hồn” vất vưởng khắp mọi nơi, người trần gian thương xót cho họ phải chịu cảnh “quanh năm đói rét cơ hàn, không manh áo mỏng che màn heo may” nên rằm tháng bảy hàng năm làm lễ cầu siêu để cho họ được siêu thoát và ngày ấy còn được gọi là “xá tội vong nhân”.

     Phong tục cúng cô hồn có nguồn gốc từ Trung Quốc, Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là “Phóng diệm khẩu”, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho loài quỷ đói miệng lửa. Nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và nói trại đi thành “cúng cô hồn”, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ, không có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái.

     Việc cúng chúng sinh (cúng cô hồn) này có liên quan đến câu chuyện giữa A Nan Đà Tôn giả (đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni) với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu). “Một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào. Quỷ cho biết rằng ba ngày sau, A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa, mặt cháy đen như nó. A Nan sợ quá bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ông phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, và soạn lễ cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ, còn tôi sẽ được sinh về cõi trên”. A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật, Đức Phật bèn cho bài chú gọi là “Cứu bạt diệm khẩu ngạ quỷ Ðà La Ni”. A Nan đem tụng trong lễ cúng và được thêm phúc thọ…”

     Ở Trung Quốc, việc cúng cô hồn được thực hiện vào ngày 14 tháng 7 âm lịch còn ở Việt Nam, tháng 7 âm lịch được gọi là “tháng cô hồn” và việc này được thực hiện vào tất cả các ngày trong tháng và chủ yếu là vào 15 tháng 7 âm lịch vì truyền thống của người Việt cho rằng ngày này là “ngày mở cửa ngục” để các cô hồn nhận đồ cúng tế cũng như quần áo, vàng mã và được gọi là ngày “xá tội vong nhân”. Ban đầu phong tục này được người ta vẫn nói là “Phóng diệm khẩu”, với nghĩa gốc là “thả quỷ miệng lửa”, về sau lại được hiểu rộng thành các nghĩa khác như tha tội cho tất cả những người chết (xá tội vong nhân) hoặc cúng thí cho những vong hồn vật vờ (cô hồn) không nơi nương tựa. Trong những ngày này, người dân thường lập đàn cầu siêu hoặc cúng thí (bố thí) thức ăn cho các cô hồn để mong họ phù hộ cho mình, cầu cho gia trung hưng thịnh, đời đời hoan hân.

     2.2. Dấu ấn của phong tục cúng chúng sinh trong các sáng tác văn học

     Nghi thức cúng chúng sinh vốn đã tồn tại ở nước ta từ rất sớm. Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì từ thời Trần đã có nghi thức cúng cô hồn, Huyền Quang đã từng đăng đàn chẩn tế phổ độ chúng sinh, cầu giải thoát cho các oan hồn và trong các chùa Việt lưu truyền sách Bảo Đỉnh hành trì tập hợp khoa nghi bí mật nội truyền do Huyền Quang tổ sư soạn thảo cũng đã phần nào nói lên việc thịnh hành nghi thức Phật giáo. Hơn thế, các bộ sách sử như Đại Việt sử lược, Đại Việt sử kí toàn thư… đều ghi chép đời Trần nước ta đã xin vua Tống Đại tạng kinh, điều này phần nào nói lên “Nghi quỹ thí thực” đã hình thành, phát triển và tồn tại ở nước ta từ rất sớm chứ không phải đến ngày nay nghi thức này mới phổ biến.

     Phong tục cúng chúng sinh tồn tại, phát triển sâu rộng trong dân gian và trở thành một thói quen in sâu trong tâm thức của người dân Việt, trở thành một nét đẹp tâm linh không thể thiếu thể hiện tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc. Văn học trung đại Việt Nam từng có Thập Giới cô hồn Quốc Ngữ Văn (mười điều răn cô hồn viết bằng quốc ngữ) của Lê Thánh Tông. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể biền ngẫu, được chép trong bộ Thiên Nam dư hạ tập gồm 11 đoạn, trừ đoạn mở đầu, 10 đoạn sau, mỗi đoạn là một điều răn một loại cô hồn: thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thiên văn – địa lí, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ, đãng tử, và kết thúc mỗi đoạn là một bài kệ bằng thơ. Với mục đích giáo huấn, mượn lời răn người chết (cô hồn) để dạy người sống và qua việc răn giới, tác phẩm đã phản ánh sinh hoạt của 10 hạng người, vị trí xã hội của họ và thái độ đánh giá đối với họ, quan điểm khen chê chủ yếu dựa vào tiêu chuẩn của đạo đức phong kiến, lợi ích của chế độ phong kiến; được đề cao nhất là quan liêu, nho sĩ, tướng quân; bị miệt thị là thương cổ, hoa nương, đãng tử. Bút pháp vững vàng, kết cấu chặt chẽ, đối ngẫu thoả đáng, từ ngữ chính xác, tinh tế, hình tượng sắc sảo, sinh động; điển cố nhiều nhưng cách dùng rất sáng tạo. Giọng văn hoạt bát, hài hước, chân dung văn học được khắc hoạ hiện thực, cụ thể, độc đáo và sinh động.

     Thế kỷ XVIII Nguyễn Du viết Văn tế thập loại chúng sinh, đây là minh chứng Phật giáo kết hợp với niềm tin tâm linh của dân gian gắn với đạo tràng, cầu siêu và hội tụ đầy đủ tinh thần nhân văn, nhân đạo của Đại thi hào Nguyễn Du mà rộng hơn là của cả dân tộc. Bản văn tế được tìm thấy lần đầu tiên ở Chùa Diệc – Hà Tĩnh, “nói lên rằng, sáng tác Văn tế thập loại chúng sinh trước hết nhằm mục đích cúng tế”, nó được xem là một bản văn khấn cúng chuẩn của Phật giáo được lưu giữ ở nhiều ngôi chùa trên toàn quốc, được in trong Văn khấn Nôm truyền thống và được sử dụng rộng rãi trong mỗi dịp Rằm tháng bảy. Nếu bài văn của vua Lê nặng nề giáo huấn răn đe thì tác phẩm của Nguyễn Du tràn ngập tình yêu thương, thông cảm.

     Bài Văn tế thập loại chúng sinh bao gồm 184 câu, chia ra làm ba phần chính: Phần đầu giới thiệu cảnh não nề của tháng bảy mưa dầm sùi sụt, cảnh lặng lẽ man mác, buồn thương…; Phần thứ hai nói rõ mười loại cô hồn, đây là phần chính của bài văn; Phần cuối kết luận, mở hướng cho con người đi vào con đường lương thiện, theo cầu đạo Phật từ bi để không sa đọa vào cô hồn quỷ đói. Cả ba phần đều với giọng văn thê lương, vạch hướng con người đi vào con đường từ bi lương thiện để thoát khỏi cảnh tai ương khổ ải của kiếp nhân quả luân hồi. Bài văn đã miêu tả cảnh khổ đau của mọi hạng người trong xã hội từ giàu sang cho đến đớn hèn, từ những người mũ cao áo rộng cho đến những người hành khất ngược xuôi… Con người khi sống trong xã hội thì phân biệt sang hèn, kẻ hiền người ngu nhưng khi chết đi thì đều được bình đẳng, nhất là “thác đi làm kiếp cô hồn – lênh đênh mặt nước, đầu non dãi dầu – chẳng biết ăn đâu, ở đâu – đêm thẳm ngày sầu hè lại sang đông”, chúng sinh tuy mỗi người mỗi nghiệp khác nhau nhưng tựu trung đều bi thảm giống nhau. Qua khảo sát, chúng tôi thấy được có 16 loại chúng sinh được Nguyễn Du nhắc tới trong văn tế, tuy sống thì mỗi người một nghiệp, người bài binh bố trận, kẻ hành khất lang thang, người thì “rắp cầu chữ quý” kẻ thì vào sông ra bể, người thì “liều tuổi xuân buôn nguyệt bán hoa”, và cả những đứa trẻ “lỗi giờ sinh lìa mẹ lìa cha” nhưng khi thác đi tất cả họ đều “hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người” không ai đơm cúng, phải ăn mày Phật, cậy nhờ “hớp cháo lá đa”. Cảm thương cho số phận đói rét của các cô hồn, nhãn quan nhìn thấu từ trần gian cho đến âm phủ, Nguyễn Du đã lập đàn giải thoát, sửa sang manh áo thoi vàng nhờ vào phép thần thông của Phật kêu gọi các chúng sinh lắng nghe kinh để được siêu thoát khỏi trong luân hồi, lục đạo. Bản văn tế có nhiều đoạn kể về nỗi đói rét của các cô hồn khiến cho nhiều người khi đọc cũng phải sụt sùi cảm thương:

“Lòng nào lòng chẳng thiết tha

Cõi dương còn thế nữa là cõi âm…

…Thương thay thập loại chúng sinh

Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người”

Hay:

“Cũng có kẻ đi về buôn bán

Đòn gánh tre chín dạn hai vai

Gặp cơn mưa nắng giữa trời

Hồn đường phách sá lạc loài nơi nao?…

Sống đã chịu một đời phiền não

Thác lại nhờ hớp cháo lá đa

Đau đớn thay phận đàn bà,

Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?

Cũng có kẻ nằm cầu gối đất

Dõi tháng ngày hành khất ngược xuôi

Thương thay cũng một kiếp người

Sống nhờ hàng xứ chết vùi đường quan”…

     Nguyễn Du đã nói lên nỗi thương xót các cô hồn bơ vơ bằng tất cả tấm lòng nhân ái, nhân đạo của mình. Thương cho các cô hồn lạc loài, “anh em thiên hạ, láng giềng người dưng”, những cô hồn “sống nhờ hàng xứ, chết vùi đường quan”… Tất cả họ đều bơ vơ không chốn tựa nương, không manh áo mỏng, không người đơm cúng, không ai tảo mộ. Lập đàn giải thoát, thí thực cho chúng sinh, cuối cùng kêu gọi các loại cô hồn hãy khôn ngoan lắng nghe kinh để nương nhờ phép Phật mà thoát khổ, lấy Phật làm lòng thì tự nhiên siêu thoát trong luân hồi. Văn tế thập loại chúng sinh là một lời cảnh báo cho thế gian, đáng cho mọi người suy ngẫm khi nó trùng với ngày Đức Mục Kiền Liên cứu mẹ khỏi khổ hình Địa Ngục để báo hiếu, Nguyễn Du không chỉ khóc thương cho người đã khuất mà còn như nghẹn ngào tâm sự với người đang sống, nói về quá khứ nhưng kỳ thực là đang nhắc đến hiện tại và nhìn về tương lai, nhắc nhở con người ta hãy bừng tỉnh, thoát khỏi vòng mê đắm của phú quý vinh hoa.

     Từ những truyền thống văn hóa có từ xa xưa, hình thành và phát triển qua bao thời đại, đi cùng những biến cố thăng trầm của thời gian, của lịch sử, phong tục cúng chúng sinh ngày càng được mở rộng trong dân gian, đặc biệt là trong thời đại kinh tế đang phát triển. Sở dĩ cúng chúng sinh được hình thành sớm và gìn giữ lâu đời như vậy mà không bị mai một bởi văn hóa Việt Nam là loại hình văn hóa gốc nông nghiệp, văn hóa làng xã, trọng tình, sự yêu thương, tình nhân ái, tính nhân văn, nhân đạo luôn được đặt lên hàng đầu. Tính nhân văn, nhân đạo không chỉ được thể hiện ở sự đùm bọc, giúp đỡ những người nghèo khổ khi đang còn sống mà còn hướng tới cả những người đã mất mà không nơi tựa nương, sống thì phải chịu một đời phiền não khi thác đi lại “nhờ hớp cháo lá đa”. Hình ảnh “hớp cháo lá đa” đã trở nên rất quen thuộc trong các buổi lễ cũng như trong các bài văn tế chúng sinh, vừa thể hiện sự từ bi của Phật, vừa thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, lòng nhân đạo của người sắm lễ vật cúng dường lại vừa thể hiện trong đó sự thương xót của người hành lễ. Chỉ là hớp cháo lá đa, một chút cháo để cứu cơ tạm thời, của ít nhưng lòng nhiều, các cô hồn đều vui lòng nhận để được vui lòng ấm bụng, để nghe kinh, để thấu hiểu được rằng: dù tội hay dù oan thì cũng chẳng phàn nàn bởi số trời đã định, các cô hồn hay nghe lời Phật dạy mà được “đắc độ, đắc siêu về nơi tiên cảnh” hoặc được đầu thai vào kiếp người sung túc hơn.

     Trên thực tế, ngoài Thập Giới cô hồn Quốc ngữ văn của Vua Lê Thánh Tông, khoa cúng Mông sơn thí thực của Phật giáo, Văn tế thập loại chúng sinh của Nguyễn Du thì trong dân gian vẫn tồn tại những bản khác được sử dụng rộng rãi để cầu giải thoát cho chúng sinh vào mỗi dịp Rằm tháng bảy âm lịch. Riêng phần về các bản văn cúng chúng sinh, chúng tôi sẽ làm rõ ở phần sau.

     2.3. Phong tục cúng chúng sinh ở xã Hồng Phương – Yên Lạc – Vĩnh Phúc

     2.3.1. Những nét chung với quan niệm dân gian

     Như đã nói ở trên, nếu một người bị chết oan hoặc do tác động của những nghiệp xấu, các cô hồn không/chưa được cõi nào tiếp nhận, phải lang thang, chịu đói rét, hoặc quấy rối người sống. Vì vậy, cúng chúng sinh là để “cứu giúp” những linh hồn khốn khổ, hoặc nhằm “hối lộ” để khỏi bị các oan hồn quấy phá, hoặc để được họ “hỗ trợ”, phù hộ. Đồ cúng chúng sinh luôn có hương, hoa, đèn (nến), quần áo chúng sinh, tiền vàng, gạo, muối, nước lã kèm theo các món ăn… và một thứ không thể thiếu trong mâm lễ cúng chúng sinh là cháo loãng. Sở dĩ cháo loãng không thể thiếu là bởi dân gian cho rằng những linh hồn bị đày đọa phải mang một thực quản nhỏ hẹp không thể nuốt được thức ăn thông thường. Nhìn chung tất cả các đồ cúng đều là đồ chay vì nếu cúng đồ mặn sẽ khơi dậy sự tham, sân, si của chúng sinh, làm cho chúng sinh khó siêu thoát. Thức cúng bằng đồ chay cũng thể hiện trong đó quan niệm của Đạo Phật, không đùng đồ mặn đồng nghĩa với việc không sát sinh, không làm mất đi sự sống của các loài, không làm gia tăng ác nghiệp cho chúng sinh để chúng sinh chóng được siêu thoát.

     Để cúng chúng sinh thì người ta thường cúng vào buổi chiều tối hoặc tối hẳn vì buổi sáng, ánh nắng sẽ làm bạt, suy yếu các vong linh hồn còn khi đến tối là thời điểm các vong linh hồn được tích tụ lại. Do đó, cúng buổi tối thì các cô hồn này mới có thể dễ nhận nhận được đồ mà các gia chủ cúng cho. Nơi cúng thường đặt ở ngoài trời, có thể cúng ở cổng chứ không nên để trong nhà bởi các cô hồn có thể ở lại trong nhà không đi làm ảnh hưởng tới gia đình, đặc biệt là đối với gia đình có trẻ nhỏ hay có người yếu bóng vía sẽ dễ bị ma quỷ đó trêu chọc. Nhiều gia đình không muốn cúng chúng sinh ở nhà thì có thể cúng ở chùa làm phúc, nhờ các nhà sư phổ độ cho chúng sinh, răn dạy chúng sinh.

     2.3.2. Nét riêng của phong tục cúng chúng sinh của địa phương

     Bên cạnh những nét chung của dân gian, mỗi địa phương lại có những quan niệm riêng của mình về tục cúng chúng sinh và từ đó bên cạnh những gì theo quan niệm của dân gian, họ có những cách sắm lễ và cách thức cúng riêng của mình mang đặc trưng bản xứ. Chúng tôi tìm đến gặp Cụ Đỗ Thị Vinh 87 tuổi, ngụ tại thôn Trung Nha, xã Hồng Phương, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, một Cụ làm thủ nhang Chùa Am Tự trên địa bàn dân cư nơi đây gần 20 năm để tìm hiểu về phong tục cúng chúng sinh của người dân nơi đây và thấy được rằng cách hành lễ nơi đây có nhiều nét đặc biệt mà các địa phương khác ít có được.

     Theo Cụ, có hai thứ không thể thiếu trong lễ vật cúng chúng sinh không thể thiếu đó là đồ mã và đồ ăn để “thí thực” cho chúng sinh. Nếu như trên cả nước đồ mã cúng chúng sinh thường chỉ là quần áo và chút tiền vàng thì đồ cúng nơi đây lại có những sự khác biệt, có sự mở rộng hơn, phong phú hơn mang tính quan niệm.

     Đồ mã cúng chúng sinh của địa phương gồm: 1 mũ Phật, 3 mũ Hành khiến (của Quan hành khiến cai quản trong năm), 5 bộ ngựa (xanh, đỏ, trằng, vàng, tím) kèm theo đó là 5 bộ mũ, áo, hia đặc trưng cho Ngũ phương (trung ương, đông, tây, nam, bắc), một mũ tai đen (của Tiêu Diện Đại vương) và quần áo chúng sinh, tiền vàng tùy tâm gia chủ. Đồ cúng tế cũng thoái mái hơn so với quan niệm của dân gian, một nồi cháo loãng, gạo muối, bánh kẹo, hoa quả, nước, xôi, chè và có thêm đồ mặn (thịt gà, thịt lợn), rượu… Đồ cúng chúng sinh ở đây có thêm đồ mặn bởi người dân ở đây cho rằng chúng sinh cũng giống như những người đang sống, cũng phải có rượu, thịt để ăn uống, không phân biệt giàu sang, các chúng sinh về bản đàn được quyền bình đẳng. Riêng chỉ có quần áo chúng sinh chỉ có một cỡ là bởi quần áo này dùng cho tất cả mọi người, không phân biệt, không đắn đo ngắn dài, những ai hễ là chúng sinh thì đều mặc vừa. Với các ngày lễ lớn được làm tại Chùa thì quần áo chúng sinh có thể lên đến 200 hay 300 bộ, còn những lễ nhỏ được các gia chủ làm tại gia thì chỉ cần từ 50 đến 100 bộ quần áo chúng sinh là đủ và cứ một áo được xếp vào với một quần để thành bộ khi khao giải.

     Theo tục lệ của địa phương, cả làng sẽ làm một khóa lễ cúng chúng sinh vào đúng ngày Rằm tháng bảy tại sân chùa với sự có mặt đông đủ của các Vãi trong làng và Pháp sư sẽ làm lễ đăng đàn khai hoa kết ấn, thỉnh Phật tuyên kinh, phổ độ chúng sinh. Ngoài ra những ngày lễ lớn như Rằm tháng Giêng, rằm tháng Tư (Lễ Phật đản, vào hè), rằm tháng Sáu (ra hè), 23 tháng Chạp (tết ông Công ông Táo), các cụ trong làng cũng thiết lập đàn cúng chúng sinh. Đồ mã được bày biện theo trình tự từ cao xuống thấp và chia làm ba tầng (không cúng Phật vì Phật đã thỉnh trong Tam bảo). Trên cao nhất là mâm Quan Hành khiến, có đủ cả đồ chay, đồ mặn và “ông gà” được đặt tại đây, tiếp đó là mâm quan Ngũ Phương với tất cả các đồ cúng đều phải có 5 (5 chén rượu, 5 đĩa xôi nhỏ, hoa quả 5 trái, thịt 5 khẩu nhỏ…) và 5 ông ngựa cúng tạ Quan Ngũ phương thì đặt dưới đất, quần áo được đặt trên lưng ngựa để khi thụ hưởng xong các quan lấy ngựa quy năm phương. Dưới cùng sẽ là mâm của Tiêu Diện Đại vương và các chúng sinh, mũ Tai đen và quần áo, đồ ăn của chúng sinh được đặt tất cả trên một cái nia hoặc ba cái mâm đặt dưới đất, riêng nước lã và cháo thì không để trong mâm, cháo được đơm ra các bát nhỏ, mỗi bát để một chiếc đũa, nước để trong chậu và để 5 hoặc 7 chén nhỏ cho chúng sinh uống nước. Không phải ngẫu nhiên phong tục ở đây lại để mũ Tiêu Diện Đại vương cùng với mâm chúng sinh mà do Tiêu Diện Đại vương là người trực tiếp “linh kỳ một lá dẫn đường chúng sinh”, là người chia đều cho chúng sinh được công bằng, bình đẳng khi về nghe kinh và ăn lộc Phật. Sau khi Pháp sư làm lễ thỉnh Phật tuyên kinh trong Tam bảo sẽ ra ngoài sân cùng các Vãi thỉnh khoa “Đương niên đương cảnh” và khoa “Ngũ phương” để cầu bình an cho dân làng sau đó sẽ phổ độ cho chúng sinh, nhờ vào phép mầu của Phật để siêu thoát về Tây phương cực lạc. Đến đây, các thức dùng để cúng dường Tam bảo có thể xin hạ lễ mang ra khao giải cho chúng sinh và đồ cúng trên mâm Quan Hành khiến và Quan Ngũ phương cũng có thể làm như vậy. Pháp sư là người chính tiến hành nghi lễ phổ độ chúng sinh theo trình tự: mời chúng sinh đến, chúc thực – mời ăn, dặn dò chúng sinh và mời ra. Nghi lễ kết thúc bằng việc Pháp sư dùng gạo, muối vài đi khắp bốn phương, tám hướng tiễn chúng sinh ra khỏi làng và xin các cô hồn phù hộ xóm làng bình an, nhân khang vật thịnh bằng những câu tống tiễn như sau:

Hơi hỡi chúng sinh nghe lời khuyên nhủ / Thầy mời thì ở thầy tiễn thì đi / Trống giong cờ dắt, tuân hành Phật sắc / Quân nơi âm phủ về đến diêm la / Quân ở trên trời thì về tiên phủ / Quân nơi biển cả, rẽ nước mà đi / Không được lân la làm điều bất lợi / Không vào thôn xóm trộm lợn bắt gà / Không trêu người già bắt nạt trẻ nhỏ / Ai có phần mộ về đó an cư / Ai có thần từ quy về miếu mạo / Khi mời lại đến nghe kệ nghe kinh / Tịnh độ siêu sinh, quy y Phật quốc

     Không chỉ cúng tại chùa mà nhiều gia đình có tâm sẽ nhờ Pháp sư về làm lễ chúng sinh tại nhà hoặc có thể tự làm trong ngày này và các gia đình mỗi khi nhà có đám (bất kể đám hiếu, hỉ, làm lễ dâng sao giải hạn đầu năm hay cúng tứ cửu…) đều làm lễ khao giải chúng sinh. Từ hiện thực cuộc sống trước đây, mỗi khi nhà có đám, trẻ em hay chạy chơi đùa để ăn cỗ và những người nghèo khó vẫn thường hay đến để xin ăn mà nhân dân ở đây quan niệm: trần sao âm vậy, những người chịu một đời long đong, hành khất xin ăn hay những người thác đi không người đơm cúng khi thấy những gia đình có đám sẽ lân la đến xin ăn, những đứa trẻ khi mất đi không nơi nương tựa cũng tìm nơi đám thứ đông đúc hòng xin được chút gì đó nên các gia đình mỗi khi có việc gì đó đều làm mâm cúng chúng sinh cầu bình an cho gia đình. Tuy là lễ nhỏ làm tại gia nhưng cũng giúp cho chúng sinh không nơi nương tựa được vui lòng ấm bụng, cầu được giải thoát về cõi Cực lạc. Làm lễ tại gia thì mũ Phật phải được đặt trên hàng cao nhất và đồ cúng là đồ chay, xôi trắng, hàng thứ hai được chia làm hai mâm lễ, bên trái là mâm Quan Hành khiển và bên phải là Quan Ngũ phương, dưới cuối cùng sẽ là mâm chúng sinh. Khoa nghi cũng lần lượt từ thỉnh Phật tuyên kinh, làm lễ cầu an và sau đó là khao giải chúng sinh. Theo người dân tại đây, làm lễ tại gia không nhất thiết phải nhờ cậy đến Pháp sư mà các Vãi cao tuổi cũng có thể làm được miễn sao đủ các nghi thức trên và xin được “đài âm dương” vì người trần mắt thịt phải lấy ấm dương làm tín.

     2.3.3. Các bài cúng được nhân dân trong vùng sử dụng để cúng chúng sinh

     Pháp sư có thể dùng khoa cúng Mông sơn thí thực của Đạo Phật để cúng, các Pháp sư khác lại dùng bài Văn tế cô hồn thập loại chúng sinh của Nguyễn Du làm bài cúng chuẩn mỗi khi phổ độ chúng sinh. Nỗi khổ của chúng sinh được Pháp sư tụng đọc với giọng thương xót khi kể về cuộc đời đau khổ của chúng sinh và nhờ Đức Phật từ bi “giải oan cứu khổ độ về Phương Tây”, cho các cô hồn siêu thoát. Khi gần hết khoa cúng của mình Pháp sư tụng “Chú biến thực cam lộ thủy chơn ngôn” và “chú cúng dường” để biến đồ cúng tế chúng sinh một thành rất nhiều do quan niệm chúng sinh thì vô biên mà đồ cúng chỉ có hạn, trong đó có một câu chúng tôi thấy rất tâm đắc vì khi đọc câu chú ấy lên như có phép màu của Phật giống như câu “Phép thiên biến ít thành nhiều” trong Văn tế thập loại chúng sinh vậy:

     “Pháp vô vi hữu – Đạo pháp thiền môn. Phổ cúng dàng: Tự nhiên thiên trù thực – Vô lượng diệc vô biên -Tùy niệm giai sung túc – Cung thỉnh các quan đồng lai chứng giám

     Nhất biến vi thập, thập biến vi bách, bách biến vi thiên, thiên vi vạn, vạn vi ức, ức biến hằng hà, hằng hà sa số, tốc tốc thành tựu sa hạ” (3 lần).

     Điều đáng nói ở đây là bên cạnh bài cúng của Pháp sư sử dụng thì các Vãi lại có những bài cúng riêng của mình khi hành lễ bất kể là ở chùa hay tại gia và phần ấy được gọi là “Chào giầu”. Chúng tôi tiến hành tìm hiểu và được Cụ Đỗ Thị Vinh cung cấp cho tất cả 5 bài khác nhau dùng để “Chào giầu” các quan và chúng sinh. Ở đây chúng tôi xin trích dẫn 1 bài được đánh giá là có nội dung khá hay:

     “Ơi hỡi các Quan ơi / Già trẻ bảo nhau cho thông / Người trần nay sắm lễ các quan / Các quan dong nhản dong nhan / Quan trẩy qua ngàn quan đóng đâu đây / Ba hồi chúc thực ở đâu thì vào / Nào là áo đỏ áo đào / Áo xanh, áo tím, cặp nào cũng xinh / Còn cặp áo trắng một mình / Các quan nhận đủ để dành chúng sinh / Ơi hỡi chúng sinh kia ơi / Vào mà nhận lấy áo này / Áo giấy mượn thợ cắt cho / Chẳng quản đắn đo áo ngắn áo dài / Làm người lên một lên hai / Lên ba lên bốn bỏ cha cho đến mãn già / Nào người mười bảy mười ba / Mười lăm mười tám lại hòa hai lăm / Chân chậm còn phải hỏi thăm – Leo cao ngã dốc còn nằm đi sau / Người ở bới lá bới lau / Ba hồi chúc thực ở đâu thì vào / Vãi tôi phải đón phải chào / Các quan nhận đủ bay cao lại nhà / Phù hộ tín chủ (làng xóm) thật là bình an / Những nơi cỗ cả bàn cao / Chả được nhời chào các quan thấy chả được hả tâm / Hôm nay tín chủ ngày tuần / Các vãi chúng con thành tâm ra chào / Lòng thành kính dâng một triệu ngũ tuần nhang / Kính dâng các quan trời đất / Nhớ thuở xưa ăn hang ở lỗ / Nhớ thuở xưa Phật dạy rành rành / Ở trên trần mỗi người mỗi kiếp / Ngày hôm nay là ngày tuần tiết / Các vãi thành tâm làm lễ chào giầu / Mời các quan xơi nước xơi giầu / Như lễ tiễn dù nhầm dù lỗi / Mong các quan xuể xỏa từ bi / Ngày mai gặp hội tứ kỳ / Vãi con lại khấn lại mời về cho ăn./ Ơi hỡi các quan ơi / Bây giờ ăn uống xong rồi / Kim ngân vàng mã đâu thời chia ra / Các quan chia thì chia cho đều / Chớ có ngang tắt mà trêu người trần / Người trần nhỡ bước sa chân / Các quan cứ thẳng ven đường mà đi / Ngày mai gặp hội tứ kỳ / Vãi tôi lại khấn lại mời về cho ăn / Ơi hỡi các quan ơi, hương châm ba nén đã tàn / Các quan ăn đoạn ra khỏi ngoài làng đừng có quở ai / Ra đường gặp gái gặp trai / Chớ nên quở trách đến ai ven đường / Những người đi nắng về sương / Tránh ra ven đường để người trần đi / Người trần thế hệ ngu si / Âm dương cách biệt vậy thì biết đâu / Ra đường gặp bò gặp trâu / Chớ nên quở trách trước sau con nào / Nghe nhời vãi dặn thấp cao / Chớ trêu người nào ở cõi trần gian / Bây giờ nước lạnh, nhang tàn / Các quan ăn đoạn ra khỏi ngoài làng đừng có ở đâu / Cây cao bóng mát quán cầu – Hay là ở mộ nơi đâu thì về

     Quan niệm: lời chào cao hơn mâm cỗ, bên cạnh việc nhờ cậy Pháp sư mời chúng sinh đến thụ hưởng lễ vật, các Vãi cao tuổi là những người “đức cao vọng trọng” cũng có lời chào các quan mời các quan và chúng sinh thụ hưởng lễ vật dâng cúng, dặn dò, cầu mong phù hộ cho xóm làng, gia chủ. Các bài chào giầu cũng thường gồm 3 phần: mời đến, mời ăn và mời ra, những bài “chào giầu” này được viết theo thể tự do phần nào thể hiện sự thương xót chúng sinh của các Vãi với mong muốn các chúng sinh “vui lòng ấm bụng”, “tịnh độ siêu sinh, quy y Phật quốc”. Kêu gọi các cô hồn nghe ba lời “chúc thực” ở đâu thì vào thụ hưởng lễ vật, nhận manh áo thoi vàng, kim ngân, những người không tên từ già tới trẻ, từ các quan cho đến người hành khất, người ở bới lá bới lau hay chính là mọi giai cấp trong xã hội xưa và nay đều được mời về chốn bản đàn để được giáo hóa và mong được giải thoát khỏi trong lục đạo trầm luân nhiều bề khổ. Các bài cúng đều chứa đựng giá trị nhân văn, cung kính khi mời đến, thành tâm khi chúc thực và nhã nhặn khi mời ra. Chúng sinh ở mọi lứa tuổi nào là trẻ nhỏ, cô nhi “lên một, lên hai”, có cả người “mười lăm, mười tám hòa là hai lăm”, những người già cả mắt mờ chân chậm hay những người cực khổ phải ở “bới lá bới lau” đều được thỉnh mời về bằng lòng thành kính. Tư tưởng công bằng, bình đẳng cũng được gửi gắm qua các bài cúng khi các Vãi cúng “Các quan chia thì chia cho đều”, “Có bầu có bạn phải biết nhường nhau” hay “Phát cho từ dưới lên trên- Đàn bà, con trẻ đúng tên rành rành- Kẻ tàn, người tật một manh – Đừng cậy người lớn mà khinh bé gầy – Thiếu đủ thì đã có thầy”… tất cả đều là chúng sinh thì phải được bình đẳng. đó là ước nguyện muôn đời mà nhân dân muốn gửi gắm không chỉ đối với chúng sinh mà còn cả với người đang sống. Bài cúng tuy câu chữ tự do, nôm na được người dân trong vùng truyền tai nhau để lưu giữ khi lập đàn chẩn tế phổ độ cô hồn nhưng nó rất hay, rất đẹp, rất nhân văn bởi tấm lòng nhân đạo, sự thương xót và lòng cầu mong giải thoát mà nhân dân dành cho các cô hồn không ai đơm cúng.

     Như vậy, các bản văn dùng để cúng chúng sinh của Pháp sư, các bài “chào giầu” của các Vãi đều thể hiện tư tưởng sâu sắc tư tưởng nhân văn, nhân đạo, thương xót cho các chúng sinh không nơi nương tựa, tư tưởng “lá lành đùm lá rách” không chỉ thể hiện khi con người còn sống với nhau mà cả khi về thế giới bên kia, những cô hồn không ai đơm cúng cũng được nhân dân hướng tới như một sự cưu mang, cảm thương với họ.

3. Kết luận

     Có thể nói, đối với việc nghiên cứu, tìm hiểu, khám phá những nét đẹp văn hóa dân gian là những điều cần thiết phải làm, nhất là trong thời hội nhập như hiện nay. Nghiên cứu về văn hóa dân gian từ cổ xưa giúp chúng ta hiểu sâu sắc thêm những bản sắc văn hóa của dân tộc, tinh hoa văn hóa riêng biệt được bộc lộ. Phong tục hình thành và tồn tại xuyên suốt quá trình phát triển của dân tộc, có những phong tục không những không bị đào thải mà ngày càng được mở rộng hơn. Tiếp cận các phong tục từ góc độ văn hóa, đặc biệt tà tục cúng chúng sinh tuy không mới nhưng nhìn nhận theo quan điểm của địa phương, của vùng miền sẽ khơi gợi được nhiều hứng thú, sự say mê của người nghiên cứu đối với các phong tục cổ truyền của dân tộc, bồi dưỡng cho mọi người thêm yêu những truyền thống văn hóa, tư tưởng nhân văn của cha ông từ bao đời nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Kế Bính (1915). Việt Nam phong tục. Nxb Văn học.

2. Nguyễn Lang (1979). Việt Nam Phật giáo sử luận. Tập I, II, III. Nxb Văn học.

3. Trần Ngọc Thêm (2011). Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nxb Giáo dục.

Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Sài Gòn, số 14 (39) – tháng 3/2016

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Phong tục cúng chúng sinh nhìn nhận từ góc độ văn hóa địa phương
(Tác giả: SV. Quảng Văn Hoàng; TS. Nguyễn Thị Việt Hằng)