Quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt ở thành phố Đà Lạt từ năm 1893 đến 1954

HISTORY AND DEVELOPMENT OF THE VIETNAMMESE COMMUNITY
FROM 1893 TO 1954 IN DALAT CITY

Tác giả bài viết: Thạc sĩ  LÊ THỊ NHUẤN1
(1. Giảng viên Khoa Quốc tế học, Trường Đại học Đà Lạt)

TÓM TẮT

     Người Việt (Kinh) là khối cộng đồng cư dân chủ thể ở thành phố Đà Lạt hiện nay. Trong thời kỳ khai sinh thành phố (1893-1914), người Việt lên đây còn ít ỏi. Từ năm 1915-1954, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đô thị Đà Lạt, cư dân Việt cũng tăng lên nhanh chóng. Bài viết này đề cập đến quá trình người Việt di cư lên Đà Lạt, lý giải nguyên nhân của quá trình trên, để từ đó khẳng định vai trò có tính quyết định của họ đối với sự hình thành và phát triển của thành phố này từ khi thành lập cho đến năm 1954.

Từ khóa: Quá trình hình thành, cộng đồng người Việt (Kinh), Đà Lạt.

x
x x

1. Mở đầu

   Thành phố Đà Lạt nằm trong cao nguyên Lang Biang, phía Bắc giáp với huyện Lạc Dương; phía Đông và Đông Nam giáp với huyện Đơn Dương; phía Tây và Tây Nam giáp với hai huyện Lâm Hà và Đức Trọng2. Từ xa xưa, vùng đất này vốn là địa bàn cư trú của người Lạch. Vào cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp đã hoàn thành công cuộc xâm lược và thống trị Việt Nam. Trong chương trình khai thác thuộc địa lần thứ nhất, người Pháp đã chủ trương xây dựng Đà Lạt thành một trung tâm nghỉ dưỡng của họ. Từ những năm đầu thế kỷ XX, cùng với người Pháp, người Việt đã có mặt ở Đà Lạt. Nhưng mãi đến cuối thập niên 30 của thế kỷ XX trở đi, các luồng dân cư Việt từ nhiều nơi đã đổ về Đà Lạt làm cho vùng đất cao nguyên này như bừng tỉnh. Hầu hết, những người Việt đến Đà Lạt với mục đích tìm miền đất mới để làm ăn và định cư. Các luồng cư dân với những nguồn gốc khác nhau ấy đã đem theo những bản sắc văn hóa, những kinh nghiệm làm ăn đặc trưng của địa phương họ tạo nên một Đà Lạt đa dạng các sắc màu văn hóa, nhưng đây đó vẫn thấy nét đặc trưng mang tính vùng miền. Cùng với thời gian, chính những cư dân Việt ở Đà Lạt là những người trực tiếp đóng góp trí lực và gắn bó với vùng đất này. Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở ngày 01-4-2009, người Việt là khối cư dân chủ thể trong cộng đồng dân cư ở Đà Lạt hiện nay, với tỷ lệ khoảng 95,97%3.

2. Nội dung nghiên cứu

     2.1. Quá trình hình thành cộng đồng người Việt ở Đà Lạt thời kỳ 1893-1954

     2.1.1. Thời kỳ trước năm 1915

    Sau khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam (1858), một số quan lại yêu nước, trong đó có Nguyễn Thông đã chủ trương khai phá vùng đất phía Tây các tỉnh Bình Thuận, Khánh Hòa để xây dựng căn cứ lâu dài chống Pháp. Năm Tự Đức thứ 30 (1877), một đoàn khảo sát để mở dinh điền của triều đình do Tuần phủ Trương Gia Hội và Bố Chánh Nguyễn Thông đã tiến hành cuộc thăm dò từ Hàm Thuận, vòng qua Tánh Linh, đến khu vực sông La Ngà. Kế hoạch khẩn hoang vùng La Ngà của Nguyễn Thông bị dừng lại vì gặp phải sự phản đối của người Pháp. Như vậy, đoàn của ông vẫn chưa đặt chân đến cao nguyên Lang Biang. Lúc này, cao nguyên Lang Bian còn là một vùng “lam sơn chướng khí”, người Việt cũng mới chỉ dừng lại ở Xóm Gòn, huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận hiện nay.

     Năm 1893, vùng đất Ðà Lạt được bác sĩ Alexandre Yersin4 tìm ra. Với mục đích muốn tìm một nơi dành cho công chức và binh lính Pháp mỏi mệt vì khí hậu nhiệt đới, tránh được cái nóng ở đồng bằng, theo đề nghị của ông, toàn quyền Pháp là Paul Doumer5 đã chọn cao nguyên Lang Biang làm nơi nghỉ dưỡng. Đây là dấu mốc quan trọng, quyết định vị trí và diện mạo của Đà Lạt ngày nay, biến vùng đất hoang sơ của người Lạch trở thành một thành phố du lịch nghỉ dưỡng nổi tiếng. Việc xây dựng một nơi nghỉ dưỡng trên cao nguyên có liên quan mật thiết đến vấn đề quốc phòng toàn Đông Dương. Cao nguyên Lang Biang có thể chứa lực lượng trù bị để đáp ứng vai trò của người Pháp ở Viễn Đông. Các doanh trại quân đội ở Nam kỳ đã đầy ắp quân sĩ và chứa quá nhiều bệnh nhân6 . Về cơ sở vật chất của Đà Lạt thời kỳ này còn khá sơ sài. Năm 1905, Paul Champoudry – thị trưởng của đô thị “không thị dân”7 ở Đà Lạt (1900) đã trực tiếp phác thảo đồ án quy hoạch Đà Lạt theo phương pháp quy hoạch phân khu chức năng (zonning), kèm theo Dự án chỉnh trang và phân lô đất.

     Gắn liền với quá trình khai mở ra vùng đất Đà Lạt, những người Việt đầu tiên có mặt tại cao nguyên Lang Biang là những người tham gia đoàn thám hiểm của bác sĩ Yersin8. Năm 1907, Bác sĩ J.J. Vassal công tác tại Viện Pasteur và phu nhân đã lên cao nguyên Lang Biang. Sau chuyến đi, Bác sĩ đã viết bài “Le Langbian” có đề cập người

     Việt chưa thành công trong việc định cư ở miền núi cao trên dãy Trường Sơn. Ở Đà Lạt lúc ấy có một nhóm người Việt khoảng 60 đến 80 người. Hầu hết, họ là những người đi buôn chuyến, sống trong những điều kiện khốn khổ, mặc quần áo đơn sơ, bị lạnh, ăn uống thiếu thốn và không có gia đình. Họ đến từ Phan Rang hay Phan Thiết với đôi quang gánh, trước khi đến được cao nguyên họ đã đi ngang qua ngôi làng rất độc, những vùng nguy hiểm và bị bệnh sốt rét9. Cuộc sống của người Việt đầu tiên ở vùng đất mới khá khó khăn, gian khổ. Họ phải đối phó với một thiên nhiên còn hoang sơ. Nhưng sự có mặt của họ đã góp phần làm cho Đà Lạt biến đổi, mở đầu cho sự ra đời của một đô thị trên cao nguyên Lang Biang.

     Trong một chuyến lên Đà Lạt, một người Pháp đã mô tả như sau: “Đà Lạt! Tám hay mười nóc nhà tranh của người Việt, một nhà sàn bằng ván thô sơ dành cho lữ khách, một vòi nước, quảng trường, chợ, một nhà bưu điện đơn sơ và trên ngọn đồi, sau hàng rào và giữa rặng thông xanh vào cái nhà gạch của trung tâm thành phố Đà Lạt10.

     Năm 1910, ngoài cư dân tại chỗ là người Lạch sống chủ yếu ở Dankia, một số người Việt là nhân viên đo đạc, lái buôn và đa số là tù nhân tham gia phong trào kháng thuế ở Trung Kỳ, họ là những người thay vì phải lưu đày ở Lao Bảo hay Côn Lôn đã bị đưa lên Ðà Lạt để khai hoang, xây dựng nhà cửa, đường sá. Họ cư trú tập trung ở hai bên suối Cam Ly – con suối chính của Đà Lạt. Ngoài ra, một bộ phận cư dân ở huyện Mỏ Cày (Bến Tre) đã đến Phan Rang thành lập sở muối Cà Ná và lên Đà Lạt mở lò làm gạch tại suối Cam Ly giữa lòng Hồ Xuân Hương ngày nay.

     2.1.2. Thời kỳ từ năm 1915 đến giữa năm 1945

     Nếu ở thời kỳ đầu, tốc độ phát triển của đô thị còn chậm chạp, Đà Lạt đã có sự chuyển mình nhanh chóng cả về quy mô lẫn dân số, nhất là bộ phận dân cư Việt. Người Việt đã trở thành cư dân chủ thể của Đà Lạt. Họ từ nhiều địa phương ở trong nước đến Ðà Lạt để làm công nhân cầu đường, xây dựng nhà cửa và đồn điền của các chủ thầu Pháp.

     Nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng của Đà Lạt phải kể đến sự tác động của tình hình chính trị trên thế giới. Hai cuộc chiến tranh thế giới (1914-1918 và 1939-1945) đã làm cho những người Pháp ở Đông Dương không thể về quê hương nghỉ hè vào các dịp trên, trong khi đó, Đà Lạt – nơi có khí hậu mát mẻ, có phong cảnh hữu tình đã đáp ứng được nhu cầu nghỉ dưỡng của họ.

     Một điều kiện thuận lợi khác là về giao thông như đường ô tô, đường sắt từ Sài Gòn và các tỉnh miền Trung lên Đà Lạt đã được hoàn thiện. Nhờ đó, sự giao lưu giữa Đà Lạt với các vùng khác khá thuận tiện.

     Về hành chính, Đà Lạt trở thành tỉnh lỵ của tỉnh Lang Biang theo quyết định ngày 6-01-1916 của toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Tiếp đến, vào tháng 3 năm Bính Thìn (tức năm 1916), vua Duy Tân đã cho thiết lập Thị xã Lâm Viên. Sách “Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên”, mục thứ 2032 cho biết: “Lúc đầu, vì địa thế Lâm Viên rộng rãi, khí hậu mát mẻ, tương lai có thể thành nơi đô hội đông đúc, đã đặt riêng làm một tỉnh. Lúc ấy, nghĩ đặt thêm ở xứ Đà Lạt một thị xã và dinh thự nhà cửa, cùng công sảnh biện sự Đông Dương đều lần lượt xây dựng, còn nhân dân như ai muốn tới ở đất quan phòng quanh thành, xây dựng nhà cửa làm ăn sinh sống cũng cho, chuẩn theo lời nghị mới tuân hành”11. Vua Duy Tân còn chuẩn bàn cấp cho tri huyện người Việt ở tỉnh Lâm Viên ấn, kiếm, ấn khắc chữ “Lâm Viên Nam Tri Huyện”, kiếm khắc hai chữ “Lâm Viên”12 . Có thể thấy rằng, sách “Đại Nam chính biên đệ lục kỷ phụ biên” đã có những ghi chép cụ thể về việc đặt tri huyện người Việt đầu tiên cho tỉnh lỵ mới Lâm Viên cùng với chỉ dụ của vua Duy Tân cho thành lập thị xã Lâm Viên. Những quyết định về đơn vị hành chính mới này đã giúp cho Đà Lạt tăng nhanh nhịp độ phát triển.

     Về quy hoạch đô thị, người Pháp đưa ra nhiều đồ án quy hoạch như đồ án quy hoạch của Jean O’Neil vào năm 1919. Ông bố trí một khu dành cho người Việt gọi là “làng người An Nam” (ấp Ánh Sáng ngày nay), nhằm đảm bảo nguồn nhân công ổn định cho các công trường đang triển khai ồ ạt tại Đà Lạt. Đồ án quy hoạch của kiến trúc sư Hébrad vào năm 1923 nhằm xây dựng Đà Lạt thành thủ phủ liên bang Đông Dương với khoảng 300.000 dân. Đà Lạt gồm 3 khu đô thị lớn là: Khu đô thị của người Việt (284ha); khu đô thị cho người châu Âu (280ha) và 02 khu trung tâm hành chính… (người dân tộc tại chỗ gần như không được di dân về đô thị)13 . Nội dung chính của đồ án Hébrad đã chia Đà Lạt thành hai khu vực dân cư: phía Bắc suối Cam Ly là khu cư trú của người Việt, phía Nam suối Cam Ly là khu cư trú của người Pháp. Tuy quy hoạch thành hai vùng rõ rệt, nhưng vẫn có những biệt lệ như cho các công chức Pháp có thu nhập thấp nằm trong khu người Việt và ngược lại ấp Tân Lạc tự phát trong vùng cư trú của người Pháp nên không được Pháp công nhận. Dân cư Tân Lạc đa số là người gốc Quảng Nam, Quảng Ngãi, Hà Tĩnh làm phục vụ nhà hàng ăn của người Âu và một số người Nghệ An chuyên làm vườn.

     Sau vài thập kỷ, Đà Lạt trở thành một thành phố đẹp với hàng ngàn biệt thự, hệ thống cơ sở hạ tầng như đường sá, chợ, sân vận động, trường học… được xây dựng khang trang. Chính tình hình này đã thu hút người Việt từ các nơi lên Đà Lạt như những người làm công cho trại chăn nuôi bò và trạm khí tượng ở Dankia.

     Để thu hút nguồn nhân công phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển Đà Lạt, chính quyền Pháp đã tạo điều kiện cho người Việt đến nhập cư tại đây. Người Việt lên Đà Lạt từ nhiều địa phương khác nhau, nhưng đông nhất là từ các tỉnh miền Trung (Thừa Thiên – Huế đến Bình Thuận). Đặc biệt, những người đã định cư ở Đà Lạt từ trước, họ tìm cách đưa anh em, bà con lên Đà Lạt. Thời kỳ này, Đà Lạt được xem là nơi “đất lành chim đậu”. Tuy xa quê hương, nhưng với những người nông dân Việt, nhất là của dải đất miền Trung cần cù chịu khó, Đà Lạt vẫn là nơi họ có thể tạo lập một cuộc sống dễ chịu hơn. Do nhu cầu xây dựng, các nghề truyền thống trước đây càng có điều kiện hơn và thu hút đông nhân công người Việt như nghề cưa xẻ, khai thác cát, đá. Chợ được xây dựng tại khu Hòa Bình (1929), được mở rộng và xây dựng khang trang hơn, nên số người làm nghề buôn bán tăng nhanh. Cũng trong năm này, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế, những người thất nghiệp từ nhiều địa phương trong nước đã tìm đến Xuân Trường để làm công nhân đồn điền hoặc định cư trồng rau và hoa, họ đã lập nên làng Xuân Trường ở Đà Lạt ngày nay.

    Những người Việt lên Đà Lạt thời kỳ này lập thành các xóm, ấp, thường quy tụ những người cùng quê và cùng làm một nghề. Nguồn cư dân Thừa Thiên – Huế vào Đà Lạt chỉ là những cuộc hành trình lẻ tẻ đầy gian khổ vào vùng đất mới. Định cư ban đầu của họ không dựa trên sự phân biệt giai cấp, địa vị mà “nguyên quán” là yếu tố quan trọng để hình thành cộng đồng dân cư ấp Ánh Sáng là nơi tập trung chủ yếu của người làng Phước Yên, Kế Môn (thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế ngày nay). Nhận thấy Đà Lạt là nơi đất rộng người thưa và khí hậu quanh năm mát mẻ, vào các năm 1938 – 1940, ở vùng Đa Thiện (Đà Lạt) đã xuất hiện hai ấp tập hợp những người chuyên làm nghề trồng rau cung cấp cho nhu cầu của thành phố là Hà Đông và Nghệ Tĩnh. Đầu tiên là ấp Hà Đông (lập năm 1938) do công của ông Hoàng Trọng Phu, tổng đốc Hà Đông chiêu tập những người thạo nghề trồng rau thuộc các làng Ngọc Hà, Quảng Bá, Nghi Tàm, Xuân Tảo, Tây Tựu và Vạn Phúc của tỉnh Hà Đông cũ đưa đến Đà Lạt. Những người này khi đến Đà Lạt đã tụ cư quanh một con suối nhỏ và khai khẩn đất hoang để sử dụng vào mục đích trồng rau. Sự phát đạt của nghề trồng rau đã làm cho tình hình nhân công bị thiếu hụt. Bởi vậy, nhiều chủ vườn ở ấp Hà Đông từ năm 1939-1942 đã phải trở ra Bắc chiêu mộ nhân công từ các tỉnh Nam Định, Hưng Yên, Bắc Ninh… vào Đà Lạt làm công. Chỉ sau vài năm lao động cần cù, sáng tạo, ấp Hà Đông đã phủ một màu xanh tươi mát của rau, hoa, cây ăn quả… “Từ ấp Nghệ Tĩnh tôi sang thăm ấp Hà Đông, ở đây các loại rau và hoa phong phú và tốt đẹp hơn ở ấp Nghệ Tĩnh”14. Sau ấp Hà Đông, một bộ phận cư dân Nghệ An, Hà Tĩnh đã vào Đà Lạt lập nghiệp lập nên ấp Nghệ Tĩnh (1940). Di dân trong ấp ban ngày đi làm thuê trong các công sở, buổi chiều họ trở về vỡ đất khai hoang trồng thêm rau. Khi đất đai được mở rộng, họ chuyển sang nghề làm vườn, sản phẩm chủ yếu là cây a-ti-sô. Sự ra đời của hai ấp này đã mở ra một nghề mới cho những người Việt ở Đà Lạt là nghề trồng rau. Rau Đà Lạt không chỉ đáp ứng nhu cầu tại chỗ, mà còn xuất đi nhiều nơi và nhanh chóng có được tiếng vang trên thị trường. Còn những người quê ở Quảng Nam, Bình Định đã đến Đà Lạt, họ tập trung ở vùng Trại Mát, Trại Hầm và vùng Đa Thành… Nghề chủ yếu của họ là cưa xẻ, khai thác đá, xây dựng. Cũng trong thời kỳ này, một số khác đã lấy nguồn sinh sống chính bằng nghề làm vườn. Khi có vườn, họ chủ yếu trồng các loại cây ăn quả như mận, hồng ở Trại Hầm thuộc ấp Đa Lợi. Chủ nhân của ấp Đa Lợi vốn là những người làm công trong các đồn điền trồng cây ăn trái của người Âu khu vực này, nhờ đó họ nắm được kỹ thuật, kinh nghiệm và qua thực tế thấy được hiệu quả của loại cây trồng này. Các làng ấp được thành lập trong thời kỳ này đã khiến cho dân số của Ðà Lạt gia tăng nhanh chóng, từ năm 1938, dân số Ðà Lạt có khoảng gần 9.000 người và năm 1939 khoảng 11.000 người15 . Từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, người Việt ở Ðà Lạt tăng lên khá nhanh từ 13.000 người vào năm 1940 lên 20.000 người vào năm 1942, từ 21.000 người năm 1943 lên 25.000 người năm 194416. Có thể nói, người Việt ngày càng có vị trí, vai trò quan trọng trong việc xây dựng đô thị Đà Lạt. Cùng với người Pháp, người Việt đã góp phần xây dựng Ðà Lạt trở thành “thủ đô mùa hè” của người Pháp ở Ðông Dương trước năm 1945.

     2.1.3. Thời kỳ từ giữa năm 1945 đến năm 1954

     Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, vị vua cuối cùng của triều Nguyễn – Bảo Đại đã thoái vị ở Huế làm cho cục diện cuộc chiến tranh Đông Dương có sự thay đổi một cách cơ bản. Sau khi Nhật đảo chính Pháp, Đà Lạt được giao cho người Việt Nam quản lý. Ngày 25-8-1945, Ủy ban Cách mạng lâm thời thị xã Đà Lạt được thành lập, báo hiệu thời kỳ độc chiếm nơi đây của người Pháp sắp kết thúc. Cuối năm 1945, Ủy ban hành chính của người Việt ra đời đem lại niềm phấn khởi cho nhân dân Đà Lạt. Năm 1946, thực dân Pháp quay lại toan thôn tính Đà Lạt một lần nữa. Thực hiện chủ trương của Ủy ban kháng chiến tỉnh Lâm Viên, các cơ quan đoàn thể và đa số người Việt ở Ðà Lạt tản cư xuống Cầu Ðất, Ðơn Dương (Lâm Đồng ngày nay), hay đi Phan Rang (Ninh Thuận), Phan Thiết (Bình Thuận), một số khác trở về quê cũ. Do đó, đến năm 1946, dân số người Việt ở Ðà Lạt còn lại khoảng 5.200 người17. Sau khi tái chiếm Đà Lạt, Pháp đã tổ chức lại bộ máy chính quyền, Tòa đốc lý được đổi thành Tòa thị chính, các phường, xã thành lập Hội đồng kỳ mục. Người Pháp đã thừa nhận Đà Lạt là “thành phố hiu quạnh” và kêu gọi nhân dân, công nhân hồi cư, nhất là công nhân nhà máy điện, nhưng vẫn ra sức khủng bố những người bị tình nghi hoạt động cách mạng: “tất cả những người bị thực dân Pháp cho là cảm tình với Việt Minh đều có thể bị bắt giam, bị khủng bố hoặc bị trục xuất khỏi Đà Lạt bất cứ lúc nào, cho nên bề ngoài đồng bào nói chung có vẻ dè dặt…”18.

     Từ năm 1947 đến đầu năm 1949, khi giao thông đã trở lại bình thường, cư dân cũ ở Đà Lạt đã từ nhiều nơi trở về định cư. Tính đến tháng 3-1948, toàn Ðà Lạt có khoảng 18.513 người. Năm 1949, một số gia đình người Việt từ Huế qua Lào rồi trở về Việt Nam, lập ấp ở vùng đất thuộc cây số 7 trên đường Ðà Lạt – Lạc Dương19 (Lâm Đồng ngày nay). Tuy nhiên, sự kiện này không kéo dài được lâu bởi một thỏa hiệp đã ký ở Paris (Pháp) giữa Bảo Đại với Pháp về vấn đề Đà Lạt và Tây Nguyên. Theo thỏa hiệp này, Pháp nhìn nhận Việt Nam là một quốc gia “độc lập và thống nhất”, nhưng trên thực tế là một sự mặc cả giữa Bảo Đại và Bollaert. Pháp đã khuyên Bảo Đại nên tách Tây Nguyên thành một đơn vị hành chính riêng. Theo đó, ngày 14-4-1950, Bảo Đại ra Dụ số 6-QT/TD lập nên “Hoàng triều Cương thổ” và chọn Đà Lạt làm trung tâm. Sau đó, ngày 10-11-1950, Bảo Đại tiếp tục ra Dụ số 4-QT/TD với nội dung sửa đổi địa giới hành chính thị xã Đà Lạt và sáp nhập một phần tỉnh Lâm Viên vào tỉnh Đồng Nai Thượng. Bởi sự thay đổi đó, kể từ đây, người Việt không còn tự do lên định cư ở Đà Lạt như trước. Năm 1952, Bảo Đại đã ra chiếu “mộ nhân công lên cao nguyên miền Nam”, trong đó có đề cập tới việc mộ nhân công lên các cao nguyên miền Nam nhằm mục đích thực hiện một chương trình kiến thiết “Hoàng triều cương thổ”; “Sắc lệnh số 28 QT/TD”20 của Bảo Đại vào năm 1952 đã đặt ra quy chế riêng vùng cao nguyên miền Nam thuộc “Hoàng triều cương thổ”. Cuối năm 1952, trước tình hình thất bại của quân đội Pháp đã rõ, chính phủ Pháp cố bám lấy giải pháp “trung lập” cho Đà Lạt bằng cách bàn với Bảo Đại cho phép dân di cư lên Đà Lạt để thực hiện chính sách “Việt Pháp sống chung”. Do đó, năm 1953, Bảo Đại ra chiếu “Vấn đề mộ nhân công và di dân lên Hoàng triều cương thổ miền Nam” 21. Từ những biến động lịch sử trên, cuối năm 1952 ở Ðà Lạt có khoảng 25.041 người, trong đó 1.217 người Âu (không kể quân nhân), 752 người Hoa, 22.232 người Việt, 840 người dân tộc tại chỗ22. Sau Hiệp định Genève (tháng 7-1954) hơn 15.000 dân di cư từ miền Bắc đã vào định cư tại Đà Lạt.

     2.2. Đặc điểm tình hình cư dân Việt ở Đà Lạt thời kỳ 1893-1954

     Đà Lạt là một thành phố biệt lập, nhưng giữ một vị trí quan trọng, có tầm chiến lược nhất là về chính trị đối với cả Nam Tây Nguyên và Nam Đông Dương. Ở Đà Lạt, tuyệt đại bộ phận là người lao động gốc từ những quê hương cách mạng, là những người tù khổ sai, những người tham gia cách mạng bị khủng bố. Chính mối quan hệ với nhiều địa phương khác của cư dân Đà Lạt đã xóa đi một phần nào tính “cô lập” về thông tin liên lạc với cả nước. Họ trở thành chỗ dựa, là hậu phương của chiến trường, là mảnh đất tốt để ươm mầm hạt giống cách mạng. Khác với lúc còn ở quê cũ, đến vùng đất mới trên cao nguyên Lâm Viên, một bộ phận cư dân làm nông nghiệp có thêm một nghề mới trong canh tác nông nghiệp đó là nghề trồng hoa. Trong khi đó, cây lúa là loại cây trồng chính trước đây của họ không còn đóng vai trò quan trọng nữa. Mặt khác, một bộ phận cư dân khi đến Đà Lạt chủ yếu sống bằng nghề trồng cây công nghiệp dài ngày như trà, cà phê và một số loại cây hoa quả khác như hồng, bơ… Sự thay đổi trong canh tác nông nghiệp này được quy định bởi nhiều yếu tố như khí hậu, địa hình, đất đai.

     Cộng đồng cư dân Việt ở Ðà Lạt là một khối cư dân trẻ, đứng trên cả hai phương diện về cả độ tuổi trung bình và về thời gian tụ cư. Các dòng họ người Việt ở Ðà Lạt lâu nhất cũng chỉ khoảng từ 4-5 thế hệ, còn lại đa số người Việt ở đây là những người dân “tứ chiếng” tới với khoảng 2-3 thế hệ. Quá trình tăng trưởng dân số ở Đà Lạt chủ yếu là tăng cơ học, chính điều này giải thích cho việc dân số của Ðà Lạt có sự biến động lên xuống, nhất là ở các giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám (1945), chiến thắng Ðiện Biên Phủ (1954). Điều dễ dàng nhận thấy nguồn gốc của người Việt ở Ðà Lạt là thông qua giọng nói của họ gồm có thứ tiếng của cả 3 miền: Bắc, Trung, Nam. Các luồng dân nhập cư và con cháu của họ mới có một thời gian chưa dài trong quá trình hội nhập, giao thoa giữa cá tính và bản sắc địa phương. Cố nhiên, sau khi định cư tại Đà Lạt, mối quan hệ dòng họ dựa trên nền tảng làng ấp ngày càng được củng cố và phát triển. Ở đây, hai dòng họ lớn là Nguyễn Thái và họ Nghiêm, còn các họ khác chỉ gồm vài gia đình mà thường là anh em ruột thịt hay chú bác họ. Kết cấu xã hội làng Việt cổ truyền tiếp tục được tái lập ở Đà Lạt chính là gia đình – dòng họ – làng = ấp.

     Khi di cư đến Đà Lạt, các cộng đồng người Việt đã mang theo phong tục, tập quán trước đây ở quê hương tiếp tục được duy trì, gìn giữ. Họ góp công, góp của xây dựng các đình, đền, miếu vừa để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tâm linh, vừa thể hiện truyền thống cộng đồng nhân ái của người Việt. Trong đó, đình là trung tâm sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng của dân cư trong ấp như tế lễ vào dịp “Xuân Thu nhị kỳ”, hội họp bàn những công việc chung của ấp. Những người có công lập ấp sau khi mất đều được thờ cúng ở đình của làng ấp. Bên cạnh đó, truyền thống lao động cần cù, sáng tạo tiếp tục được phát huy trên vùng đất cao nguyên này. Ngoài ra, phong cách sống của người dân ở trung tâm du lịch nghỉ dưỡng sớm được hình thành là phong cách thanh lịch, hiền hòa, mến khách.

     Ở Đà Lạt, ngoài những người làm nông là chính như ở Đa Thành, Đa Lạc… còn có một bộ phận vợ của những người công chức làm nghề buôn bán nhỏ; một bộ phận làm thầy giáo (khu vực đường Nguyễn Chí Thanh ngày nay)23 … Trải qua quá trình sinh sống ở Đà Lạt, bên cạnh một bộ phận cư dân có cuộc sống gặp nhiều khó khăn đã có một số người vươn lên trở thành những người chủ, giàu có như ông Võ Đình Dung (quê ở Quảng Ngãi) là một người thầu khoán xây dựng có tiếng trong những thập niên 30, 40 của thế kỷ XX.

3. Kết luận

     Thành phố Đà Lạt là miền đất hội tụ của nhiều tộc người trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó có người Việt. Lịch sử hình thành cộng đồng người Việt ở thành phố Đà Lạt thời kỳ 1893-1954 gồm những đặc điểm sau:

     3.1. Kể từ đầu thế kỷ XX đến nay, người Việt là khối cư dân chiếm tỷ lệ đông đảo nhất trong cộng đồng các tộc người ở Đà Lạt, là nguồn nhân lực dồi dào cho mọi hoạt động của thành phố. Trong quá trình định cư tại Đà Lạt, người Việt đã có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển của Đà Lạt thời kỳ này cũng như trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước ta hiện nay.

     3.2. Người Việt là khối cư dân tham gia tích cực vào quá trình phát triển của ngành nông nghiệp tại Đà Lạt. Chính sự phát triển của nghề trồng trọt các loại rau ôn đới ở đây đã góp phần thu hút nguồn dân cư Việt chủ yếu là anh em, bà con cùng họ đến Đà Lạt định cư. Quá trình lập làng, khai hoang để trồng rau của người Việt đã tạo nên thương hiệu “rau Đà Lạt” nổi tiếng trong và ngoài nước.

     3.3. Điểm nổi bật và xuyên suốt gắn bó với quá trình hình thành và phát triển của khối cộng đồng dân cư nơi này đó là việc vẫn duy trì được những nét văn hóa khá đặc trưng của người Việt cho dù nhiều thế hệ đã trôi qua. Tính cộng đồng, gắn kết đùm bọc lẫn nhau là những điểm thường thấy của những người đi tha hương. Điều này càng được thể hiện rõ nét trong đời sống, trong các mối quan hệ xã hội của cư dân Việt, nhất là các hoạt động mang tính cộng đồng cao như các dịp cúng đình làng, ấp hàng năm hay mỗi khi trong làng, ấp có tang ma thì tinh thần ấy như được sống dậy. Hòa nhập với xã hội và vùng đất mới, người Việt vừa bảo tồn và phát huy những nét văn hóa truyền thống, vừa giao lưu tiếp nhận những yếu tố văn hóa mới để thích nghi, làm giàu thêm vốn văn hóa tộc người.

_________
2. Ủy ban nhân dân thành phố Ðà Lạt (2008), Ðịa chí Ðà Lạt, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, tr.61.

3. Nguồn: Cục Thống kê Lâm Đồng cung cấp ngày 06-01-2015.

4. Alexandre Yersin sinh ngày 22-9-1863 tại xứ Vaud – Thụy Sĩ.

5. Vassal. J.J (1907), Le Langbian, Revue Indochinoise, Hanoi, N053, page 358 (tài liệu lưu trữ tại Thư viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh).

6. Những năm đầu thế kỷ XX, cư dân tại chỗ ở Đà Lạt như người Lạch không phải là thị dân.

7. Những năm đầu thế kỷ XX, cư dân tại chỗ ở Đà Lạt như người Lạch không phải là thị dân.

8. Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993), Đà Lạt thành phố cao nguyên, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr.100.

9. Vassal. J.J (1907), Tài liệu đã dẫn, tr.359.

10. Paul Duclax (1994), Dalat de 1907, A. Chaval dan la nature Sanvoge, Revue Indochine, N099 – Dẫn theo Trương Phúc Ân (2000), Bí mật thành phố hoa Đà Lạt, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, tr.95.

11. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Cao Tự Thanh (dịch), Nxb Văn hóa văn nghệ, tr.240.

12. Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Sđd, tr.240.

13. Tài liệu đánh máy do kiến trúc sư Trần Đức Lộc – Trưởng phòng quy hoạch kiến trúc, Sở Xây dựng Lâm Đồng cung cấp ngày 30-7-2015.

14. Phạm Khắc Hòe (1983), Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Hà Nội, tr.230.

15. Nhiều tác giả (1971), Ðặc khảo Ðà Lạt, Sử Ðịa số 23 – 24, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, tr.34.

16. Ủy ban nhân dân thành phố Ðà Lạt (2008), Tài liệu đã dẫn, tr.103.

17. Ủy ban nhân dân thành phố Ðà Lạt (2008), Tài liệu đã dẫn, tr.103.

18. Dẫn theo Trương Phúc Ân (2000), sđd, tr.125.

19. Ủy ban nhân dân thành phố Ðà Lạt (2008), Tài liệu đã dẫn, tr.103.

20. Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt – Lâm Đồng).

21. Tài liệu lưu trữ tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia IV (Đà Lạt – Lâm Đồng).

22. Ủy ban nhân dân thành phố Ðà Lạt (2008), Tài liệu đã dẫn, tr.104.

23. Thời gian này, người Đà Lạt thường gọi là đường các Thầy.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     [1] Trương Phúc Ân (2000), Bí mật thành phố hoa Đà Lạt, Nxb. Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

     [2] Phạm Khắc Hòe (1983), Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc, Hà Nội.

     [3] Nhiều tác giả (1971), Ðặc khảo Ðà Lạt, Sử Ðịa số 23-24, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

     [4] Quốc sử quán triều Nguyễn (2012), Đại Nam thực lục chính biên đệ lục kỷ phụ biên, Cao Tự Thanh (dịch), Nxb. Văn hóa văn nghệ.

     [5] Ủy ban nhân dân Thành phố Đà Lạt (1993), Đà Lạt thành phố cao nguyên, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh.

     [6] Ủy ban nhân dân thành phố Ðà Lạt (2008), Ðịa chí Ðà Lạt, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

     [7] Vassal. J.J (1907), Le Langbian, Revue Indochinoise (Tạp chí Đông Dương), Hanoi.

Nguồn: Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Hồng Đức, số 26, 2015

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng người Việt ở thành phố Đà Lạt từ năm 1893 đến 1954 (Tác giả: ThS. Lê Thị Nhuấn)