Rào cản tăng năng suất lao động của Việt Nam (Phần 1)
KIM NGỌC 1 , TRẦN NGỌC SƠN 2
(1 Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. 2 Trường Đại học Đông Á)
TÓM TẮT
Năng suất lao động là chìa khóa cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Nền kinh tế có cạnh tranh hay không phụ thuộc vào năng suất lao động cao hay thấp. Trong những năm qua, năng suất lao động của Việt Nam đã cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua từng năm. Việt Nam là một quốc gia có tốc độ tăng năng suất lao động trung bình năm cao hơn các nước trong khu vực ASEAN như Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines. Tuy nhiên, năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua chủ yếu tăng theo chiều rộng, do phần lớn vẫn dựa vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, và chưa phải là do sự cải thiện năng suất lao động trong nội tại từng ngành kinh tế.
Từ khóa: Năng suất lao động, cải thiện, Việt Nam.
Phân loại ngành: Kinh tế học.
ABSTRACT
Labour productivity is the key to Vietnam’s economic development. Whether the economy is competitive depends on whether the productivity is high or low. In recent years, labour productivity in Vietnam has improved significantly in the direction of increasing steadily annually. The country has a higher annual productivity growth rate than those of its ASEAN peers such as Singapore, Malaysia, Thailand, Indonesia and the Philippines. However, the increases in Vietnam’s labour productivity over the past years have been mostly by the width, which is largely due to economic restructuring from the agricultural to the industrial and service sector, not yet resulting from the improvement of the productivity within each industry of the economy.
Keywords: Labour productivity, improvement, Vietnam.
Subject classification: Economics.
x
x x
1. Đặt vấn đề
Nâng cao năng suất là yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Chỉ có tăng năng suất lao động, Việt Nam mới có thể tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, và nền kinh tế Việt Nam có cạnh tranh hay không cũng phụ thuộc vào năng suất lao động cao hay thấp. Theo Tổng cục Thống kê, thời gian qua, năng suất lao động của Việt Nam cải thiện đáng kể theo hướng tăng đều qua từng năm. Tính chung giai đoạn 2007-2016, năng suất lao động của Việt Nam tăng trung bình 4,2%/năm. Năng suất lao động toàn nền kinh tế năm 2017 đạt khoảng 92,1 triệu đồng, tương đương khoảng 4.100 USD/lao động, tăng 5,9% so với năm 2016, cao hơn so với mức tăng bình quân 4,5% giai đoạn 2011-2016 và cao hơn nhiều so với mức tăng 3,45%/năm giai đoạn 2006-2010.
Đóng góp của năng suất yếu tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế ngày càng cao. Chỉ tính riêng các năm 2016-2017, TFP tăng khoảng 2,26%, đóng góp khoảng 35,4% vào tăng trưởng kinh tế. Tuy vậy, tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam không thể hiện sự vượt trội so với các nước Đông Á và Đông Nam Á khác và vẫn thấp xa so với Trung Quốc (9,07%). Năng suất lao động của Việt Nam xếp sau cả Campuchia ở ba ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; xây dựng và vận tải; và kho bãi, truyền thông. Trong khi đó, chế biến, chế tạo hiện đang được cho là ngành mũi nhọn, điểm sáng của tăng trưởng [8]. Năng suất lao động của Việt Nam đang rất thấp so với nhu cầu phát triển. Việt Nam đang đứng trước nguy cơ bị tụt lại phía sau, khi mà tốc độ tăng năng suất đang thấp hơn tốc độ tăng bình quân của tổng sản phẩm quốc nội (GDP) – khoảng 6,21% giai đoạn 2011- 2017, và cũng thấp hơn tốc độ tăng lương thực tế bình quân khoảng – 12,59%/năm. Điều đó có nghĩa rằng, chi phí sản xuất ở Việt Nam đang trở nên đắt đỏ hơn và điều này tác động trực tiếp tới tính cạnh tranh của nền kinh tế, nguy cơ sụt giảm đà công nghiệp hoá khi mà nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ chuyển địa điểm sản xuất sang nước có chi phí rẻ hơn, tạo áp lực lớn lên tăng trưởng kinh tế.
Tăng năng suất lao động của Việt Nam thời gian qua chủ yếu theo chiều rộng chứ chưa theo chiều sâu, do phần lớn vẫn dựa vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ khu vực nông nghiệp sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, mà chưa phải là sự cải thiện năng suất lao động trong nội tại từng ngành kinh tế. Phát biểu tại Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2018, GS. Kenichi Ohno, Viện Nghiên cứu Chính sách Quốc gia Nhật Bản, nhận định, sự tăng trưởng của Việt Nam trong quá khứ là do số lượng (nguồn vốn và lao động) chứ không dựa trên chất lượng (năng suất lao động). Chất lượng chính sách của Việt Nam vẫn thấp so với các nền kinh tế có năng suất cao ở Đông Á [1]. Muốn thay đổi năng suất lao động, Việt Nam phải tháo gỡ các rào cản về thể chế, nguồn nhân lực, và cơ sở hạ tầng. Bài viết này phân tích để làm rõ ba rào cản hạn chế tăng năng suất lao động củaViệt Nam, trên cơ sở đó, đưa ra các giải pháp tháo gỡ.
2. Rào cản về thể chế
2.1. Rào cản về nguồn lực kinh tế
Việt Nam có ba trụ cột kinh tế quan trọng là kinh tế nhà nước (KTNN), kinh tế tư nhân (KTTN) và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, song nguồn lực kinh tế tập trung chủ yếu tại thành phần kinh tế hoạt động kém hiệu quả nhất trong nhiều thập kỷ qua là KTNN. Hiện nay, khu vực KTNN đóng góp 28,9% GDP cả nước; khu vực KTTN đóng góp 43% GDP; và 18% GDP của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Mặc dù chỉ tạo ra 28,9% GDP và chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ về số lượng (bình quân trong các năm 2000-2014 chiếm 4,04% tổng số doanh nghiệp, từ năm 2008 đến nay khoảng 1%), nhưng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) hiện nắm giữ khối lượng lớn tài sản, vốn và nguồn lực khổng lồ của đất nước. Khu vực KTNN chiếm 38-40% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các DNNN đã tăng từ 229,9 nghìn tỷ đồng (tương đương 52% GDP) năm 2000 lên mức 3.358,6 nghìn tỷ đồng (tương đương 85,3% GDP) năm 2014. Điều đó cho thấy, cổ phần hóa (CPH) hàng trăm DNNN hầu như không ảnh hưởng tới cơ cấu nguồn lực của DNNN. Tái cơ cấu DNNN nói chung, cổ phần hóa và thoái vốn DNNN nói riêng chưa làm thay đổi phân bổ nguồn lực của nền kinh tế. Việc DNNN nắm giữ nhiều nguồn lực ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân trong nước, các doanh nghiệp vốn chịu sự bất bình đẳng so với DNNN không chỉ trong tiếp cận với các nguồn lực sản xuất mà còn cả trong tiếp cận với các cơ hội kinh doanh.
Các DNNN giữ nhiều nguồn lực sản xuất của nền kinh tế và được hưởng nhiều ưu đãi, nhưng hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp và có xu hướng giảm xuống so với các loại hình doanh nghiệp khác. Không ít DNNN rơi vào tình trạng thua lỗ kéo dài. Đóng góp về giải quyết công ăn việc làm và thu ngân sách của khu vực này chưa tương xứng với vốn đầu tư [7]. Ông Sudhir Shetty, chuyên gia kinh tế trưởng khu vực Đông Á và Thái Bình Dương của Ngân hàng Thế giới (WB), chỉ ra thực trạng DNNN vẫn hoạt động chưa hiệu quả, sử dụng nguồn lực khan hiếm chưa đảm bảo hiệu suất. Đây là lý do khu vực KTNN luôn có hiệu quả đầu tư thấp nhất so với các thành phần kinh tế khác. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) của khu vực KTNN luôn cao nhất. Năm 2017, hệ số ICOR của khu vực ở mức 10,3 – cao hơn nhiều so với mức bình quân 6,4 của toàn nền kinh tế; khu vực kinh tế ngoài nhà nước là 6,5 và khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 5,7 [11].
Số liệu thống kê cho thấy có sự bế tắc trong chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, không có sự chuyển dịch nguồn lực từ khu vực KTNN sang khu vực KTTN; tức là nguồn lực kinh tế không được chuyển dịch từ khu vực kinh tế kém hiệu quả sang khu vực kinh tế hiệu quả hơn. Trong số 96,5% số doanh nghiệp đã được CPH, chỉ có 8% số vốn nhà nước được chuyển giao cho khu vực tư nhân [13]. Từ góc độ tái cơ cấu nền kinh tế, mục tiêu chính là chuyển nguồn lực quốc gia từ khu vực sử dụng kém hiệu quả sang khu vực sử dụng hiệu quả chưa đạt được.
Bởi với 8% số vốn nhà nước trong các DNNN được CPH, hầu như vẫn nguyên sở hữu nhà nước, các thành phần khác vẫn phải đứng ngoài cơ cấu quản lý doanh nghiệp CPH, hạn chế tác dụng của CPH đối với đổi mới quản trị và thu hút vốn đầu tư phát triển từ bên ngoài. Hiện, DNNN còn nắm giữ nhiều cổ phần nhà nước, có lợi thế hơn hẳn các doanh nghiệp cùng ngành nghề, nhưng kinh doanh lại kém hơn so với các doanh nghiệp đã CPH trước đó. Chẳng hạn, tại Công ty cổ phần Cao su Phước Hòa (Bình Dương), doanh nghiệp thuộc Tập đoàn Cao su Việt Nam, đơn vị đang chuẩn bị khá tốt cho tiến trình CPH, lãnh đạo công ty cho biết, sau CPH, vì cổ phần nhà nước còn lớn, chiếm tỷ lệ chi phối, cho nên hầu như hoạt động của doanh nghiệp không mấy thay đổi.
Trước đây, Công ty cổ phần Cao su Phước Hòa là một trong những doanh nghiệp nộp ngân sách vào hàng đầu của địa phương, nhưng sau CPH số thu rất ít, chỉ có thể bảo đảm cho người lao động trong doanh nghiệp mức thu nhập trung bình [13].
Trong khi đó, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của khu vực KTTN cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực KTNN. KTTN đang ngày càng thể hiện được vai trò xung kích trên mặt trận phát triển kinh tế của đất nước. Theo đánh giá của nhiều chuyên gia kinh tế, với mỗi một đơn vị vốn bổ sung, khu vực tư nhân Việt Nam đang tạo ra doanh thu nhiều gấp 3 lần so với doanh nghiệp nhà nước. Tại một diễn đàn kinh tế tổ chức tại Tp. Hồ Chí Minh, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Tổng Giám đốc Hãng hàng không Vietjet Air lấy ví dụ: “Để thay đổi một vách kính ở sân bay Tân Sơn Nhất nhằm tạo không gian thông thoáng cho hành khách thì Nhà nước làm mất 2 năm. Đồng thời sửa sang một phòng chờ theo cơ chế nhà nước cũng mất 2 năm mới hoàn thành. Trong khi đó, trong 2 năm đó, doanh nghiệp tư nhân đã chủ động đầu tư cả một sân bay như Vân Đồn” [14]. Hãng hàng không Vietjet đã góp vốn đầu tư, làm xong nhà ga mới tại Cam Ranh trong vòng có 18 tháng. Chất lượng, kiến trúc công trình đều được đánh giá cao. Trong khi đó, cùng dự án qui mô tương tự như trên, ở nhiều sân bay khác, do các DNNN đầu tư, thường mất ít nhất 4-5 năm. Đây chỉ là một trong số rất nhiều ví dụ cho thấy, trong nhiều lĩnh vực đầu tư, đầu tư của tư nhân thường hiệu quả, nhanh chóng hơn đầu tư từ vốn ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi cơ chế, giảm đầu tư công, khuyến khích, thúc đẩy đầu tư của tư nhân cho đến nay vẫn còn rất chậm chạp. Lãnh đạo Nhà nước không phải không có chủ trương giảm dần đầu tư nhà nước, khuyến khích đầu tư tư nhân vào phát triển, xây dựng cơ sở hạ tầng, nhưng từ chủ trương đến hiện thực vẫn là một chặng đường dài. Đã có những thông điệp, chỉ đạo là phải chuyển giao, giao bớt nhiều dự án, công trình đầu tư cho tư nhân làm, nhưng thực tế, có không nhiều công trình, dự án lớn tới tay khối doanh nghiệp tư nhân. Mặc dù là tỷ trọng vốn đầu tư công trong tổng vốn đầu tư phát triển hàng năm đã có xu hướng giảm, nhưng tốc độ giảm còn chậm (năm 2015 còn ở mức 38% thì hiện nay đang ở mức trên 36%, là mức rất cao so với nhiều nước khác). Điều đó cho thấy, việc khuyến khích, thúc đẩy tư nhân đầu tư, giảm bớt đầu tư công vẫn dừng lại ở chủ trương, chưa phát huy hết tiềm năng của khu vực KTTN. Trong khi đó, ở các tập đoàn, doanh nghiệp lớn của Nhà nước, do vướng mắc bởi cơ chế, thủ tục, rào cản quá nhiều, nên tốc độ giải ngân, hiệu quả vốn đầu tư rất khó được cải thiện, nâng cao. Đó là chưa kể trong quá trình thực hiện, vẫn có nhiều kẽ hở cho tiêu cực làm thất thoát, lãng phí, giảm hiệu quả nguồn vốn lớn từ ngân sách.
Nhìn từ ví dụ những cảng hàng không, cảng biển, đường cao tốc (do một số doanh nghiệp tư nhân đầu tư trong thời gian vừa qua và so sánh với nhiều hạng mục, công trình do một số DNNN đầu tư nhưng thua lỗ, như: Nhà máy Đạm Ninh Bình, Nhà máy Xơ sợi Đình Vũ, Gang thép Thái Nguyên…), hoàn toàn có thể khẳng định, các doanh nghiệp tư nhân sẽ thay thế được vai trò đầu tư, phát triển thay cho những doanh nghiệp nhà nước. Vốn đầu tư công chỉ nên tập trung vào những dự án, công trình thiết yếu, trọng điểm mà tư nhân chưa có khả năng làm được [14].
2.2. Rào cản về tái cơ cấu kinh tế
Chủ trương tái cơ cấu kinh tế tập trung vào ba lĩnh vực: đầu tư công, DNNN và hệ thống ngân hàng thương mại, với mục tiêu là chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ phát triển theo chiều rộng sang phát triển theo chiều sâu. Chủ trương này đã được Chính phủ triển khai và đạt được những kết quả bước đầu. Tuy nhiên, tái cơ cấu kinh tế Việt Nam hiện đang phải đối mặt với những thách thức và rủi ro. Nếu tái cơ cấu kinh tế dựa trên những tư duy cũ, không được đổi mới thì dù có làm tích cực kết quả đạt được cũng sẽ là hạn chế. Nếu Việt Nam vẫn giữ tư duy xem trọng DNNN, xem nhẹ doanh nghiệp tư nhân, thì dù có thực hiện chương trình cổ phần hóa DNNN, rút cục khu vực DNNN vẫn là trụ cột của nền kinh tế. Và rủi ro là sức cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế Việt Nam sẽ yếu kém so với các quốc gia khác, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đã và đang tham gia ngày càng nhiều các hiệp định thương mại tự do (FTA). Nếu tư duy phát triển của Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế khác (như đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại, nông nghiệp, phân cấp…) không có sự đổi mới thì kết quả tái cơ cấu chắc chắn sẽ bị hạn chế [6].
Tái cơ cấu kinh tế phải tuân theo các nguyên tắc của thị trường (như: các giá cả, tỷ giá, lãi suất phải do thị trường định; cạnh tranh phải tự do, phải không có độc quyền; các nguồn lực phải do thị trường phân bổ). Chương trình tái cơ cấu hiện đã không đề cập tới vấn đề này một cách rõ rệt. Các biện pháp hành chính, cơ chế xin – cho vẫn giữ vai trò quan trọng. CPH DNNN chỉ hiệu quả nếu Nhà nước chỉ còn tham gia với tư cách là một cổ đông, không còn nắm quyền quản trị. Khi đó quản trị doanh nghiệp hiện đại, chiến lược phát triển, quản lý, đầu tư công nghệ dài hạn được thực hiện bởi khu vực kinh tế ngoài nhà nước (tư nhân hoặc nước ngoài). Tuy một lượng lớn DNNN đã cổ phần hóa 5%-49% vốn, nhưng Nhà nước vẫn nắm quyền sở hữu, giữ quyền quản trị, quyền quản lý. Kết quả là, DNNN sau CPH không được “thay máu”, tiếp tục là khu vực kinh tế trì trệ và kém hiệu quả. Nghiêm trọng hơn là, sau CPH “nửa vời”, một loạt bộ chủ quản sẽ cử người đại diện vốn tại doanh nghiệp này, từ đó tạo ra một cát cứ lợi ích mới, quá lớn cho một nhóm cán bộ – những người đại diện vốn chủ sở hữu Nhà nước tại DNNN – không phải bỏ ra một đồng vốn nào, nhưng lại được hưởng rất nhiều lợi ích. Chưa kể đến vấn đề các cán bộ công chức của bộ chủ quản lĩnh trách nhiệm này có kinh nghiệm trong quản trị và quản lý kinh doanh hay không vẫn còn là một dấu hỏi lớn. Đây cũng là nguyên nhân khiến nhiều DNNN có nhiều quyết định bổ nhiệm “khó hiểu” cho các “nhân tài” có quan hệ thân hữu như câu chuyện của Sabeco.
2.3. Rào cản về quản trị doanh nghiệp
Doanh nghiệp Việt Nam có năng lực cạnh tranh thấp so với khu vực và thế giới do năng lực tự chủ tài chính thấp, quản trị không hiệu quả, thâm dụng vốn cao nhưng không gắn với đầu tư đổi mới công nghệ. Thực tế, các DNNN vẫn nắm giữ phần lớn nguồn lực quốc gia, trong khi nhóm doanh nghiệp này lại có nhiều cơ hội tác động làm thay đổi chính sách quản lý ngành có lợi cho hoạt động kinh doanh của họ, nhưng không tạo ra một môi trường cạnh tranh bình đẳng cho cả ngành hay nền kinh tế. Các DNNN có “năng lực” là bởi bộ chủ quản của họ vừa là đại diện chủ sở hữu, vừa có chức năng quản lý nhà nước ở lĩnh vực kinh doanh của họ, trong khi giám sát (từ Kiểm toán Nhà nước, từ cơ quan thuế) còn rất hạn chế, chịu nhiều tác động bởi các bộ, ngành có liên quan. Kết quả là, các DNNN không chỉ hoạt động kém hiệu quả, đầu tư thất thoát, lãng phí lớn, mà còn làm giảm động lực tăng trưởng của doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì cạnh tranh không bình đẳng. Thêm vào đó, phát sinh một lượng lớn doanh nghiệp ngoài quốc doanh hình thành từ mối quan hệ “thân hữu” với các DNNN, hoạt động kinh doanh của nhóm này là đối tác đầu vào, thầu phụ của các DNNN, là “sân sau” của các cá nhân có quyền lực trong DNNN. Nhóm doanh nghiệp này sẽ không quan tâm tới đầu tư dài hạn, chiến lược dài hạn, quản trị hiện đại, bởi đơn giản là vòng đời của doanh nghiệp còn phụ thuộc vào mối quan hệ và cơ hội ngắn hạn. Không chỉ vướng rào cản từ việc cạnh tranh với DNNN, doanh nghiệp tư nhân còn mất luôn cơ hội cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (doanh nghiệp FDI), bởi các chính sách “khó hiểu” từ các cơ quan quản lý nhà nước. Trong nhiều ngành, nhiều địa phương, các ưu đãi quá mức cho doanh nghiệp FDI (về thuế, tiếp cận nguồn lực đất, vốn…) đã gây khó khăn cho chính doanh nghiệp tư nhân trong nước, gây bất bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực đầu vào, khiến nhóm doanh nghiệp này tự thu hẹp lại hoạt động sản xuất kinh doanh của chính mình. Đặc biệt, trong trường hợp thị trường xuất khẩu gạo, doanh nghiệp ngoại thậm chí còn “vận động hành lang” để có được các chính sách với các điều kiện “trên trời” so với doanh nghiệp nội, khiến chỉ doanh nghiệp ngoại mới đáp ứng được yêu cầu về độ lớn, về quy mô để thu gom và xuất khẩu gạo, được tự ý mạo danh gạo Việt thành gạo Thái hoặc gạo Indonesia. Kết quả là, dù Việt Nam trở thành quốc gia lớn thứ hai về xuất khẩu gạo trên thế giới, nhưng mất hẳn thương hiệu gạo Việt, gạo trong nước bị chính thương lái nước ngoài ép giá đến mức giá trị xuất khẩu rất thấp; lợi nhuận của toàn bộ phân khúc phân phối gạo rơi vào tay của nhóm doanh nghiệp FDI.
Tại Diễn đàn kinh tế Việt Nam lần thứ 2 do Ban Kinh tế Trung ương tổ chức tại Hà Nội tháng 1/2018, các chuyên gia kinh tế chỉ ra rằng, năng suất lao động của Việt Nam đang rất thấp so với nhu cầu phát triển. Có nghĩa là, chi phí sản xuất ở Việt Nam đang trở nên đắt đỏ hơn. Điều này sẽ tác động trực tiếp tới tính cạnh tranh của nền kinh tế, làm sụt giảm đà công nghiệp hoá (vì nhiều doanh nghiệp FDI sẽ chuyển địa điểm sản xuất sang nước có chi phí rẻ hơn). Tệ hơn, quản lý nhà nước yếu kém và lợi ích nhóm quá lớn đã khiến chi phí kinh doanh của doanh nghiệp Việt cao hơn nhiều lần so với các doanh nghiệp trong khu vực, trong đó, chi phí vận tải doanh nghiệp Việt phải chịu cao nhất khu vực, gấp 3 lần Singapore. Theo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), chi phí vận chuyển một container từ cảng Hải Phòng về Hà Nội đắt gấp 3 lần chi phí vận chuyển từ Hàn Quốc, Trung Quốc về Việt Nam. Một khảo sát độc lập khác của WB cho thấy, chi phí logistics chiếm rất lớn trong giá thành của nhiều ngành hàng tại Việt Nam: ngành thủy sản hơn 12%, đồ gỗ 23%, rau quả 29,5% và ngành gạo gần 30% . Tính bình quân, chi phí logistics mà doanh nghiệp Việt đang “gánh” bình quân cao hơn Thái Lan 6%, Malaysia 12%, và gấp 3 lần Singapore [11]; chi phí phi chính thức (chi phí ngầm) là gánh nặng lớn cho doanh nghiệp. Kết quả khảo sát 2.600 doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trong lĩnh vực chế biến, sản xuất năm 2016 của VCCI cho thấy, có hơn 40% doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn phải chấp nhận những khoản chi không chính thức cho các cơ quan quản lý nhà nước. Trung bình có khoảng 66% doanh nghiệp phải “móc hầu bao” cho các khoản không chính thức, cao hơn 12-15 điểm phần trăm so với giai đoạn 2008-2013. Đáng chú ý, 9-11% doanh nghiệp tham gia điều tra cho biết các khoản chi cho riêng mục này chiếm tới hơn 10% tổng doanh thu của họ, cao hơn hẳn mức 6-8% giai đoạn 5 năm trước đó [11]; tốc độ tăng lương tối thiểu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng năng suất lao động. Thời gian qua, lương tối thiểu tăng từ 8-12%, cao hơn tốc độ tăng năng suất lao động là 4-5%. Mức đóng bảo hiểm 22% lương tháng mà doanh nghiệp đang gánh là rất cao so với Malaysia (13%) hay Philippines (10%) [11].
Chi phí kinh doanh cao không chỉ là nguyên nhân bào mòn năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, mà còn hủy đi động lực đầu tư công nghệ dài hạn trong bối cảnh rủi ro chính sách, rủi ro thị trường quá cao.
Mời xem tiếp:
Rào cản tăng năng suất lao động của Việt Nam (Phần 2)
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 – 2019
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)