Rồng thời Lý – Trần: Biểu tượng lưỡng trị của Nho giáo, Phật giáo thế kỷ XI – XIV

Tác giả bài viết: Tiến sĩ  TRẦN TRỌNG DƯƠNG
(Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)

 Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển Khoa học và
Công nghệ Quốc gia (Nafosted) trong đề tài mã số VIII1.3-2012.01.

TÓM TẮT

     Biểu tượng rồng trong văn hóa Việt Nam nói chung, trong văn hóa thời Lý – Trần nói riêng là biểu tượng đa chiều có nhiều nguồn gốc khác nhau. Rồng tồn tại trong văn hóa Việt Nam ở nhiều dạng thức tạo hình khác nhau. Bài viết khảo sát các tư liệu văn hiến như sử kí, văn khắc, cũng như các tư liệu văn vật (như hiện vật khảo cổ), từ đó, giải mã biểu tượng rồng trong văn hóa Lý – Trần.

Từ khóa: Rồng; biểu tượng tôn giáo; Nho giáo; Phật giáo; thời Lý – Trần.

x
x x

1. Mở đầu

     Rồng là một biểu tượng huyền thoại trong nhiều nền văn hóa. Biểu tượng này xuất hiện từ rất sớm, trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau, khiến cho nó có sự phong phú cả về nội hàm biểu tượng cũng như về hình dáng và phương pháp tạo tác. Ở Việt Nam, rồng là một biểu tượng có nguồn gốc đa nguyên. Theo giới nghiên cứu lịch sử văn hóa, rồng Việt vốn xuất nguyên từ một con vật sông nước của cư dân nông nghiệp, cụ thể là con cá sấu với những bằng chứng trên cổ vật thời Đông Sơn, hay trong mỹ thuật Đại La(1). Tuy nhiên, trong quá trình tiếp xúc với các nền văn minh của Ấn Độ và Trung Quốc, con rồng bản địa đã thâu nhập các yếu tố ngoại lai để ở mỗi một giai đoạn lại có những nét đặc thù riêng. Bài viết này nghiên cứu về biểu tượng rồng thời Lý – Trần như là một yếu tố lưỡng trị của Nho giáo Đại Việt thế kỷ XI – XIV. Các tư liệu khảo sát gồm các hiện vật khảo cổ học có hình tượng rồng; các thư tịch, bi ký, sử liệu thời Lý – Trần có đề cập đến hình tượng này.(1)

2. Bối cảnh tư tưởng thời Lý – Trần

     Hai triều đại Lý – Trần là hai triều đại quan trọng hàng đầu để xác định chủ quyền quốc gia độc lập với những chiến công hiển hách trước giặc ngoại xâm, cũng như về thể chế nhà nước và hệ thống văn hóa. Cả hai triều đại này đều đã phải đi đến một sự chọn lựa về mô hình nhà nước và tư tưởng nền tảng cho xã hội. Như trong một số nghiên cứu gần đây, mô hình nhà nước và tư tưởng của thời Lý – Trần không phải tự dưng “đột khởi” mà đã được chuẩn bị từ trước. Đó là giai đoạn thế kỷ X với những kiểu nhà nước cát cứ – li khai khỏi các triều đình phương Bắc trên nền tảng Phật giáo dung hòa với Nho giáo và Đạo giáo cuối đời Đường, đầu đời Tống.

     Thế kỷ X là thế kỷ có sự đan xen, tịnh hành giữa Nho giáo và Phật giáo. Ba đời họ Khúc trong khi xây dựng chế độ tự quản của mình đã thực hiện những thao tác quản lý hết sức bài bản theo tinh thần Nho giáo. Đinh Bộ Lĩnh sở dĩ được suy tôn là vị vua chính thống đầu tiên của đất Việt cũng bởi vì ông đã tiến hành một loạt các thao tác xây dựng mô hình nhà nước, như định đô ở Hoa Lư, đặt quốc hiệu, định triều nghi, phẩm phục, sắp đặt bách quan, đúc tiền riêng, đặt niên hiệu, chế hình luật… Nhưng mô hình nhà nước thời Đinh – Lê cũng đã mang trong mình nhiều màu sắc Phật giáo và Đạo giáo. Chẳng hạn, Ngô Chân Lưu (Khuông Việt) được phong làm Tăng thống; được coi như là mẫu hình thiền sư – chính khách (Nho sĩ) khởi đầu cho giai đoạn sau này(2). Mặt khác, một trong những tác phẩm văn chương sớm nhất trong lịch sử dân tộc là bài Thơ thần Nam quốc sơn hà Nam đế cư! (bài thơ này theo một số người là khuyết danh, chứ không phải của Lý Thường Kiệt, nhưng ta biết đích xác là được sáng tác vào thời vua Lê Hoàn trong cuộc kháng chiến chống Tống năm 981). Bài thơ ấy đã mang đầy tinh thần Nho giáo với những khái niệm cơ bản quốc – sơn hà – đế – phận – thiên thư, mà nhân vật nhà Nho quan trọng bậc nhất đứng sau Lê Hoàn chính là Thái sư Hồng Hiến. Mặt khác, chúng ta còn biết đến những dấu ấn đậm nét của Phật giáo thế kỷ này, với hơn hai trăm kinh tràng của Phật giáo Mật tông thời Đinh – Lê, với tín ngưỡng thờ Tỳ Sa Môn Thiên Vương (vị thần chiến tranh, hộ quốc) của Phật giáo trong trận chiến tại thành Bình Lỗ mà sau này Việt hóa thành Sóc Thiên Vương, Xung Thiên Thần Vương, Phù Đổng Thiên Vương và cuối cùng là Thánh Gióng(3)… Những cứ liệu trên cho thấy, văn hóa Phật giáo đã sớm đi vào đời sống cung đình ngay ở thế kỷ X, trong một mô hình nhà nước đa giáo (Phật – Nho – Đạo – Pháp), trong đó chiếm ưu thế hơn cả vẫn là Phật giáo và Nho giáo. Nho giáo và Phật giáo đã có sự phân chia chức năng và quyền lực: Phật giáo được coi là quốc giáo với chức năng dẫn dắt tư tưởng tâm linh; còn Nho giáo được coi như là một mô hình thiết chế nhà nước với chức năng quản lý, điều hành bộ máy hành chính. Đó là một tiền đề tương đối hợp lý để văn hóa thời Lý – Trần tiếp nối và hưng khởi.

     Nhiều nhà nghiên cứu trước đây đưa ra nhận định rằng: thời Lý – Trần, Phật giáo chiếm vị trí thống trị(4), từ thời Lê – Nguyễn về sau, Nho giáo độc tôn. Thực tế, trong suốt cả ngàn năm độc lập tự chủ, Nho – Phật – Đạo luôn luôn tịnh hành, đồng dụng trong đời sống xã hội. Và như trên đã nói, trong thời Lý – Trần, Phật giáo được coi như là bệ đỡ tâm linh của triều đình trong khi Nho giáo vẫn được coi như là một mô hình để tổ chức và quản lý đất nước.

     Không những vậy, triều Lý, triều Trần còn xây dựng hệ thống pháp luật qua bộ Hình luật có tiếp thu từ Đường luật và luật pháp của nhà Tống (một biểu hiện khác của tư tưởng: nội Pháp – ngoại Nho). Triều Lý thực thi luật pháp khá khoan dung dưới sự điều tiết của tư tưởng đại từ Phật giáo. Từ triều Lý chuyển sang triều Trần, những yếu tố thần bí – nhân đạo trong quyền lực chính trị dần được xóa bỏ. Nhà Trần đã dần siết chặt quản lý xã hội bằng hệ thống của bộ máy quan liêu (Nho lại) trên cơ sở pháp luật(5). Mặc dù, các vua Trần vẫn là những người sùng Phật, song việc áp dụng chế độ tử hình cho thấy lực lượng trí thức Nho giáo ủng hộ pháp quyền ngày càng lấn lướt các trí thức Phật giáo từ bi hỷ xả. Điều này lý giải vì sao, con rồng thời Trần có tính thô mộc, áp chế hơn so với rồng thời Lý.

     Vào thời Lý, trong khi hàng ngàn chùa tháp (như Đại Thắng Tư Thiên, Diên Hựu, Tứ Thiên Vương, Cảnh Long Đồng Khánh, Sùng Thiện Diên Linh…) được xây dựng, thì hệ thống văn miếu và khoa cử Nho giáo cũng được thiết lập: Khổng Miếu(6), Quốc tử giám, Viện Hàn lâm,… Đương nhiên, trong thời đại Phật giáo chiếm vị trí chủ đạo thì mẫu hình trí thức – thiền sư về cơ bản chiếm số lượng vượt trội hơn cả, và “với tư cách là những trung tâm văn hóa, nhà chùa, ngoài in kinh thuyết pháp, còn dạy chữ Hán, dạy cả tri thức Nho học”(7). Nguyễn Kim Sơn viết: “Thời Lý – Trần, Tam giáo tịnh hành, hội nhập trên cơ sở lấy Phật giáo làm bản vị. Hội nhập tam giáo thời kỳ này lấy thực hành đạo trị, lấy thiên hạ, tức phương diện chính trị xã hội (cũng đồng thời là vấn đề dân tộc), làm điểm quy kết. Tinh thần bồ tát cứu thế, tinh thần nhập thế hoà quang đồng trần của Phật giáo đời Trần và lý tưởng bình trị thiên hạ của Nho gia gặp nhau, tạo ra trạng thái khoan dung, hợp nhất của tam giáo, là cơ sở cho Phật giáo chấp nhận Nho giáo”(8).

     Do bối cảnh thời đại như trên nên thời Lý – Trần đã để lại một nền văn hóa đậm đà với những yếu tố của cả Nho lẫn Phật. Các tác phẩm văn học thời Lý – Trần còn lại cho đến nay là một ví dụ điển hình cho một thời đại đỉnh cao của nghệ thuật tôn giáo. Và với những cứ liệu vật chất (khảo cổ học lịch sử hiện còn), chúng ta có thể đi đến nhận định rằng: nghệ thuật tạo hình (kiến trúc, điêu khắc…) Đại Việt thời kỳ này cũng không nằm ngoài xu hướng trên.

3. Rồng thời Lý – Trần: biểu tượng của vương quyền

     Nằm trong thế giới chịu ảnh hưởng sâu đậm của văn minh Hoa Hạ, văn hóa thời Lý – Trần đã tiếp thu biểu tượng vương quyền trong hình ảnh rồng (tiền đề cho hình tượng rồng thời kỳ này là con rồng của thế kỷ X và xa hơn con rồng của thời Bắc thuộc). Dựa trên những cứ liệu khảo cổ học, chúng ta được biết đến hình ảnh rồng có sừng sớm nhất hiện còn là rồng của nhà Tùy trên trán ngạch văn bia Đại Tùy Cửu Chân quận Bảo An đạo tràng chi bi văn khắc in năm 618(9) tại quận Cửu Chân (Thanh Hóa). Bài văn bia này ngoài việc ca ngợi Phật Pháp và công lao xây chùa hoằng dương Phật giáo của Ái Châu Thứ sử Lê Hầu, còn sử dụng rất nhiều ngôn từ Nho giáo để ca ngợi việc cai trị của nhân vật lịch sử này(10). Điều đó cho thấy, hình tượng rồng như một biểu tượng lưỡng trị của Nho giáo – Phật giáo đã sớm đi vào Việt Nam trong giai đoạn Bắc thuộc. Đến thế kỷ X, các dấu hiệu vật chất không còn nhiều, hiện chỉ thấy một hiện vật đầu rồng thời Đinh – Lê tại Hoa Lư. Đầu rồng này hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Ninh Bình. Theo chúng tôi, đó là dạng Xi Vẫn – một trong long sinh cửu tử(11) của thế kỷ X. Dạng Xi Vẫn này được tạo tác theo xu hướng long đầu (chỉ chú trọng đến đầu rồng), khác với xu hướng Xi Vĩ hóa (chú trọng vào yếu tố đuôi) trong văn hóa kiến trúc đời Đường. Cách tạo tác thô tháp của đầu rồng cho thấy, mỹ thuật thời kỳ này chưa thực sự chau chuốt như thời Lý (nhất là ở phần bờm, lưỡi và tua râu), nhưng về cơ bản đó là hình ảnh của một đầu rồng hướng thượng, miệng đã ngậm một viên hỏa châu. Điều này chứng tỏ, hình tượng rồng thời Đinh – Lê đã tạo một tiền đề cơ bản cho rồng thời Lý – Trần sau này và cho thấy tính lưỡng trị của rồng Lý – Trần là sự tiếp nối vốn đã tồn tại từ một vài thế kỷ trước đó.

     Huyền thoại rời đô của Lý Thái Tổ với cái tên đầy ý nghĩa “Thăng Long” hẳn là một dấu vết quan trọng cho thấy việc chuyển kinh từ Hoa Lư ra Đại La phải có sự tham mưu, cố vấn của các nhà Nho. Những điển tích Nho giáo tràn ngập trong Chiếu dời đô với các mẫu hình nhân vật chính trị kiểu Nho giáo Hoa Hạ. Điều đó không chỉ tôn lên vẻ đẹp về địa thế quân sự của Kinh đô mới, mà còn hàm ý trong đó cái đẹp của vương quyền, “mảnh đất rồng bay” với hình thế “rồng cuộn, hổ ngồi” (long bàn, hổ cứ) chồng lấn (đó là một thông điệp về mảnh đất đế vương). Mặt khác, ngay từ thời Lý, chúng ta đã thấy một quan niệm rõ ràng về hình ảnh rồng như là biểu tượng quan trọng nhất cho đế vương. Điều này được thể hiện qua các cứ liệu của văn bia Sùng Thiện Diên Linh, một tấm bia quan phương của triều đình do Thượng thư Nguyễn Công Bật soạn và đích thân hoàng đế Lý Nhân Tông ngự thư trên bi ngạch và cho khắc năm 1121(12).

     Có thể thấy, rồng vàng ngũ sắc được coi như là điềm lành báo việc sinh hạ Thánh vương. Phong độ đế vương được mô tả bằng hình ảnh “ngươi rồng mắt phượng” với những quý tướng khác theo quan điểm nhân tướng học của Nho gia. Thư pháp vua viết đẹp đẽ và sang trọng như “rồng bay phượng múa”. Khi ngài lên ngôi trị vì quốc gia thì hàng loạt điềm lành xuất hiện. Nếu như voi trắng sáu ngà là biểu tượng cho vị vua Phật, thì rồng ngọc là biểu tượng cho vị hoàng đế Nho gia. Bàng bạc khắp các dòng chữ trong bi ký hay sử ký là những câu chuyện liên quan đến rồng. Rồng xuất hiện ở điện Trường Xuân khiến vua đặt bảo tháp ở (Phật) Đồ Sơn tên là Tường Long. Rồng bay trên mặt biển thì dựng tháp ở núi Long Chương (vẻ rực rỡ của rồng). Rồng ùa thành đàn, thành đội qua hình dáng núi sông thì dựng tháp ở Long Đội (đội quân rồng). Rồng núi Long Tỵ(13) đậu trên tay Khai Minh Vương báo đại thắng bình Chiêm như một điềm lành cho vị minh quân Lý Phật Mã. Rồng bay theo thuyền ngự vua Nhân Tông đến tận thác bờ Long Thủy trong trận đánh dẹp động Ma Sa. Rồi cửa Phi Long, gác Long Đồ, điện Hội Long, tường Long Thành, rồi Long Trì trong hoàng cung để diễn xướng rồng cuộn trên ngọn núi chúc thọ Vạn Tuế Nam Sơn… Đâu đâu cũng thấy rồng. Rồng trở thành “phong cách thời trang” của cả thời đại, đến mức cả dân đen lẫn nô bộc trong nhà thường dân cũng đua đòi thích chữ xăm rồng, khiến triều đình phải ra luật cấm(14). Hoàng gia nhà Trần, vốn là dân võ thuật miền biển, lại săm hình rồng vào đùi để luôn nhớ nguồn gốc tổ tiên và tránh giao long (cá sấu, thuồng luồng). Quân sĩ nhà Trần đều xăm hình rồng hoa (thái long) ở bụng, lưng và hai bắp đùi như là biểu hiện của hào khí Đông A. Những cứ liệu trên cho thấy, rồng là một biểu tượng phổ dụng của thời Lý – Trần. Rồng xuất hiện trong các cung điện, lầu gác của hoàng cung. Rồng được dùng để đặt tên cho tên núi, tên sông, tên chùa, tên tháp. Rồng là điềm lành báo hiệu thánh vương xuất hiện, hay trưng triệu chiến thắng trước quân thù. Rồng cuộn bay trên áo long bào, long cổn. Rồng đi vào nghệ thuật điêu khắc, kiến trúc và hoạt động diễn xướng cung đình. Rồng ùa vào đời sống mỹ thuật của dân gian. Tuy nhiên, những biểu hiện phong phú ấy chỉ còn lại vài dòng trên các sử liệu.

     Trước đây, khi nghiên cứu về biểu tượng rồng giai đoạn này, phần lớn các nhà nghiên cứu đều cho rằng rồng thời Lý – Trần là biểu tượng cho Nho giáo. Nguyễn Du Chi viết: “dường như những di tích có liên quan đến vua mới được chạm rồng, còn các kiến trúc khác, dù là của Hoàng hậu (như chùa Lạng, chùa Tấm…) cũng bị cấm. Điều đó chứng tỏ đến thời này đã có quy chế nghiêm ngặt và rồng không còn là vật tổ dân dã mà đã được dành riêng cho thần quyền mặc dù trong cấu trúc của nó vẫn giữ nguyên những quan niệm của dân dã”(15). Chu Quang Trứ cũng có những nhận định tương tự: “với nhà Lý, cái ý thức vua gắn với rồng – rồng là biểu trưng của vua đã được khẳng định”(16). Trần Lâm Biền và Chu Quang Trứ cũng viết: “từ một con vật mang ý niệm vũ trụ vốn được người thời ấy tôn sùng, có lẽ rồng đã bị nhà vua độc chiếm để làm vật bảo vệ và trang điểm cho uy lực của mình”(17). Song cũng có người, trên cơ sở thiếu vắng của mô típ rồng chầu mặt trời, lại cho rằng “con rồng thời Lý không có ý nghĩa thần quyền như kiểu các con rồng đời sau”(18). Tuy nhiên, dù rồng có chầu mặt trời hay không, thì bản thân hình tượng rồng đã mang ý nghĩa vương quyền (như trên đã chứng minh).

     Còn mô típ lưỡng long triều nhật có khả năng là một sản phẩm của Nho giáo thời Minh Thanh và Lê Nguyễn.

4. Rồng thời Lý – Trần: biểu tượng hồi quy giác tính(18)

     Hai triều Lý – Trần vẫn luôn dùng Nho giáo như một thiết chế để quản lý xã hội, nhưng đời sống tư tưởng và hoạt động tâm linh thì lấy Phật giáo làm bệ đỡ tinh thần. Mặc dù, không ai có thể phủ nhận yếu tố vương quyền trong hình tượng con rồng vào thời kỳ này, nhưng chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng, bản thân hình tượng rồng còn là biểu tượng trong văn hóa Phật giáo. Tức là trong biểu tượng này có sự hòa kết giữa hai luồng tư tưởng mỹ học của cả Nho giáo lẫn Phật giáo. Yếu tố Nho giáo làm cho con rồng mang tính uy quyền, biểu thị sự thần quyền hóa của nhà vua. Yếu tố Phật giáo làm cho con rồng mang tính nhân văn biểu thị sự Phật tính hóa trong tâm tính của cả một thời đại. Nhưng có điểm chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là yếu tố Phật giáo có phần nổi trội hơn yếu tố Nho giáo ở phương diện tạo hình.

     Việc xuất hiện con rồng (với một sự đồng nhất cao độ về hình tượng và phương thức tạo hình) trên vật liệu kiến trúc chùa tháp cũng như Hoàng thành Thăng Long là một biểu hiện giao thoa sống động giữa văn hóa Nho giáo và văn hóa Phật giáo. Con rồng tạc trên các chùa hành cung (còn gọi chùa hoàng gia) như chùa tháp Từ Thị Thiên Phúc tại núi Phật Tích (1066), chùa tháp Tường Long ở núi (Phật) Đồ Sơn (1072), chùa tháp Cảnh Long Đồng Khánh ở núi Dạm (1096), chùa tháp Sùng Thiện Diên Linh ở núi Long Đội (1121), chùa tháp Vạn Phong Thành Thiện ở núi Chương Sơn (1108)… Đó là biểu hiện của vương quyền gắn với thần quyền. Các hình tượng như song long hiến châu, rồng chầu lá đề, rồng trên thân cột theo mô hình tu di đài – cửu sơn bát hải, rồng – xi vẫn ngậm ngọc, rồng tràn ngập trên các dấu vết vật chất trong Hoàng Thành Thăng Long cho thấy, biểu tượng rồng không chỉ xuất hiện trong không gian chùa tháp Phật giáo mà đã trở thành yếu tố thường trực nổi trội trong văn hóa và nghệ thuật cung đình. Tác giả Thích Đức Thiện khi nghiên cứu về rồng tại chùa Phật Tích đã viết: “rồng là biểu tượng cho quyền lực của vương quyền… Rồng cũng gắn liền với cuộc đời đức Phật khi ngài đản sinh có chín rồng phun nước tắm cho Phật”(19).

     Một đặc điểm chung về mô típ rồng thời Lý là “rồng ngậm ngọc châu”. Theo chúng tôi, chưa một nghiên cứu nào trước đây giải mã ý nghĩa biểu tượng này. Thực chất, mô típ này xuất phát từ điển “long nữ hiến châu” trong kinh sách nhà Phật.

     Sự xuất hiện mô típ “long nữ hiến châu” chuyển thân nam mà thành Phật có thể coi là một dấu ấn về mặt tạo hình cho thấy những ảnh hưởng cụ thể của Phật giáo Đại Thừa trên đất Đại Việt vào thời kỳ này(20).

     Chúng ta còn thấy hình ảnh rồng trong khá nhiều bi ký chùa chiền của thời Lý. Trong đó hình ảnh rồng luôn xuất hiện với tư cách là linh vật huyền thoại đã được giác ngộ, là thần hộ pháp. Có thể thấy hình ảnh rồng phun nước lưu ly trong văn bia Minh Tịnh, hay cửu long chạy đàn trong văn bia Sùng Thiện Diên Linh là một kiểu ánh xạ của thuyết long vương phun nước khi đức Phật đản sinh(21). Như vậy đến đây có thể thấy rằng, mỹ thuật thời Lý – Trần (như cách gọi của Chu Quang Trứ) là mỹ thuật Phật giáo. Hình tượng rồng trong văn hóa thời Lý – Trần, cụ thể là trên các công trình kiến trúc, điêu khắc thời này, có lẽ đều mang trong đó những nội hàm của nhà Phật.

     Hình ảnh các con rồng ngậm hỏa châu chứ không phải “vờn khối cầu”(22) hay lưỡng long tranh châu(23) là một biểu hiện của sự quy y Phật pháp, hay sự quy hồi giác tính. Nghệ thuật tạo hình Đại Việt thời Lý – Trần đã chớp được cái ý tưởng cao quý đó và thể hiện qua rất nhiều công trình điêu khắc, kiến trúc khác nhau. Chỉ có điều, trong mỹ thuật, các nghệ nhân xưa đã sáng tạo ra các loại bố cục, đồ án phong phú tùy theo sự hạn định của vật chất tạo tác và bề mặt của vật liệu. Trên một mặt phẳng hình chữ nhật như tòa tu di đỡ tượng Phật Thích Ca ở chùa Phật Tích, hay trán bia chùa Long Đọi, bia chùa Quỳnh Lâm, người ta sẽ tạc lên đó hình các con rồng dâng châu nối đuôi nhau. Trên các hình lá đề, người ta sẽ tạc lên đó mô típ song long hiến châu với thân rồng uốn lượn, và ba đôi chân đang dâng ba viên ngọc châu tỏa sáng. Cũng có khi trong mỗi hào quang của hỏa châu đó, người ta tạc thêm cả hình tượng một vị Phật đang ngồi kiết già.

     Còn với các kiến trúc một cột, không gian tạo hình đã thay đổi khiến cho người xưa thỏa sức sáng tạo. Ví dụ, ở cột đèn Quảng Chiếu, hàng loạt thân rồng cắm thẳng vào các lỗ ngàm, đầu rồng đua ra đỡ lấy một tòa sen vàng, ở trên đó người ta sẽ thắp hoa chúc (đuốc). Hàng chục, hàng trăm hình rồng ấy cắm từ dưới lên trên đỉnh cột tạo thành một hội đèn rực rỡ như ánh từ quang chiếu diệu kinh thành. Một ví dụ nữa: ở chân đèn tại chùa Phật Tích, các thân rồng uốn lượn dọc theo thân cột, đầu hướng về phía đài sen ở phía trên như một sự chiêm bái tôn sùng ánh từ quang. Hay ở chân cột thời Lý đào được tại làng Ngọc Hà, những tầng lớp sóng nước và núi non phủ kín phần chân, phía trên thân cột là một đôi rồng uốn lượn nhịp nhàng như đan dệt khắp thân cột. Sự đăng đối chỉnh thể nhưng đầy tính linh hoạt của thân rồng đã tạo nên sự sống động hiếm thấy: nếu như đặt cột ấy lên một bàn xoay, ta sẽ thấy cả một thế giới tâm linh đang chuyển động, những tầng sóng nước như đang dâng vỗ vào các tầng núi non trùng điệp, các tầng núi non ấy lại đang như nâng đôi rồng cao lên, còn đôi rồng như như đang phi thăng lên trên cung trời Đao Lị, như đang ngưỡng vọng về một cõi niết bàn. Còn ở cột đá Liên Hoa Đài chùa Dạm thì đôi rồng theo đặc trưng phong cách thời Lý, uyển chuyển, duyên dáng mà khỏe khoắn, sung mãn đang cùng nhau dâng lên những viên ngọc châu sáng ngời.

5. Kết luận

     Nhìn từ góc độ tạo hình và hàm nghĩa biểu tượng tôn giáo, hình ảnh rồng thời Lý – Trần là một sự đan xen hai khuynh hướng thẩm mỹ của Nho giáo và Phật giáo. Rồng thời Lý – Trần dù là thể hiện tính vương quyền của Nho gia, nhưng hầu như không có chút áp chế, dữ dằn như rồng Trung Hoa. Trong đó, yếu tố Phật giáo được thể hiện ở mô típ “long nữ hiến châu” trong hầu hết các hiện vật khảo cổ. Rồng luôn đi liền với các biểu tượng Phật giáo khác như tháp, nhạn, sư tử, hoa cúc, hoa sen, lá đề, khẩn na la, ca lâu la… Vì tính Phật giáo tương đối đậm nét, nên hình tượng rồng thời Lý – Trần cũng trở nên hài hòa, duy mỹ hơn, nhân văn hơn, vì thế nó thể hiện được phần nào nét đặc trưng cho tinh thần khoan dung, uyển chuyển của thời đại.

__________
     (1) Nguyễn Quang Hà (2012), “Suy nghĩ về hình tượng cá sấu trang trí trên gạch Đại La (thế kỉ VII – IX) phát hiện ở khu di tích Hoàng thành Thăng Long, Hà Nội với tư liệu thư tịch cổ”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, số 1, tr.24 – 27.

     (2) Trần Trọng Dương (2010), “Khuông Việt thiền sư hay phức thể dung hội Nho, Phật”, Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo – Văn học với 1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Nxb Văn hóa Thông tin, tr.97 – 109.

     (3) Nguyễn Thanh Tùng (2012), “Giấc mơ Khuông Việt – nhìn từ giác độ lịch sử văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 11, tr.17 – 37.

     (4) Alexey B. Polyacop (2009), “Vai trò của Nho giáo ở Đại Việt thời Hậu Lý sơ (1010 – 1127)” trong Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.691.

     (5) Yu Insun (2009), “Hệ thống luật pháp của triều Lý và triều Trần của Việt Nam – mối quan hệ giữa Đường luật và Lê triều hình luật”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.356.

     (6) Văn miếu vốn gọi tắt từ Miếu thờ đức Văn Tuyên Vương Khổng Tử, chỉ là tên gọi đời sau do các sử gia nhà Nho thời Lê áp đặt. Còn ở thời Lý, mới chỉ có tên là Khổng Miếu. Dựa vào sử liệu ghi dựng Khổng Miếu năm 1222, Polyacop cho rằng, thời điểm 1075 chỉ là ngụy tạo của các nhà Nho đời sau, còn thời điểm chính thức là năm 1225.

     (7) Nguyễn Kim Sơn (1998), “Nho giáo và tâm thái lập quốc triều Lý”, 45 năm Khoa Văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.424.

     (8) Nguyễn Kim Sơn (2004), “Xu hướng hội nhập tam giáo trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Nho giáo tại Việt Nam (Harvard Yenching, Hoa Kỳ – Viện nghiên cứu Hán Nôm), Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.118 – 128.

     (9) Trần Trọng Dương (2012), “Văn bia Trường Xuân” trong Văn bia Thanh Hóa, t.1, Nxb Thanh Hóa, Thanh Hóa, tr.21 – 101.

     (10) Trần Trọng Dương (2012), sđd, tr.43.

     (11) Trần Trọng Dương (2014), “Những xu hướng biến đổi hình tượng Xi Vẫn – Xi Vỹ trong văn hóa Việt Nam và Đông Á”. Nghiên cứu Mỹ thuật. 06-2014, tr.24 – 33.

     (12) Trần Trọng Dương (2013), Kiến trúc một cột thời Lý, Nxb Hồng Đức, Tp. Hồ Chí Minh, tr.217 – 280.

     (13) Núi Long Tỵ: theo Cương mục, ở địa phận xã Thuần Chất, huyện Bình Chính, tỉnh Quảng Bình, hình thể núi này nhô lên như vòi rồng, nên gọi là “Long tỵ”. Huyện Bình Chính, nay là huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình.

     (14) Đại Việt sử ký toàn thư , t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.289.

     (14) Nguyễn Du Chi (2001), Trên đường tìm về cái đẹp của cha ông, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, tr.538.

     (15) Chu Quang Trứ (2012), Mỹ thuật Lý Trần – Mỹ thuật Phật giáo, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội, tr.282.

     (16) Trần Lâm Biền – Chu Quang Trứ (1975), Nghệ thuật chạm khắc cổ Việt Nam (qua các bản rập). Viện Nghệ thuật – Bộ Văn hóa, Sài Gòn, tr.12.

     (17), (18) Hoàng Văn Khoán (2009), “Con rồng thời Lý”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học 1000 năm vương triều Lý và kinh đô Thăng Long, Nxb Thế giới, Hà Nội, tr.636.

     (19) Thích Đức Thiện (2014), Phật Tích – di sản văn hóa Phật giáo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, tr.45.

     (20) (2000) (Sa môn Thích Quảng Độ dịch), Phật Quang đại từ điển (quyển 6), Hội Văn hóa Giáo dục Linh Sơn Đài Bắc xuất bản, tr.2834. (21) Sđd, tr.2844.

     (22) Chu Quang Trứ (2012), sđd, tr.284.

     (23) Một số eteket tại các bảo tàng thường chú thích các mô típ này do ảnh hưởng từ mỹ thuật Nho giáo của thời Lê – Nguyễn. Lưỡng long tranh châu, khó có thể mang nội hàm Phật giáo ở đây được.

Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2(87) – 2015

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Rồng thời Lý – Trần: Biểu tượng lưỡng trị của Nho giáo, Phật giáo thế kỷ XI – XIV (Tác giả: TS. Trần Trọng Dương)