Ảnh hưởng tư tưởng Phật giáo và Nho giáo đến bố cục tổng thể chùa Huế thời Nguyễn (1558-1945)

Kiến trúc chùa Huế hình thành và phát triển dưới thời Nguyễn với dấu mốc rõ nét khi chúa Nguyễn Hoàng vào khai phá xứ Đàng Trong. Nhất là giai đoạn nhà Nguyễn, với nhiều chính sách và nhiều cuộc trùng hưng lớn đã tạo nên số lượng chùa mât tập, tạo nên diện mạo ngôi chùa Huế đặc trưng về kiến trúc và cảnh quan. Khi chúng ta nhìn nhận về mặt kiến trúc, không dễ nhận thấy như ngôi điện Đại Hùng hay các đường nét hoa văn trang trí trên bề mặt,… nhưng bố cục tổng thể ngôi chùa chính là mô hình biểu đạt tổng quan nhất về mặt kiến trúc, về không gian sử dụng và cả môi trường sinh thái đặc sắc xung quanh ngôi chùa.

Xem chi tiết

Ẩn dụ từ chỉ vị giác “苦 (khổ) – đắng” trong tiếng Hán và tiếng Việt

Ẩn dụ vị giác đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức của con người và nhiều khái niệm trừu tượng được xây dựng thông qua ẩn dụ vị giác. Dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận, bài viết nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống về ẩn dụ của từ chỉ vị giác 苦 (khổ) – đắng trong tiếng Hán và tiếng Việt. Kết quả nghiên cứu cho thấy ẩn dụ vị giác 苦 (khổ) – đắng trong hai ngôn ngữ chủ yếu tập trung vào năm lĩnh vực: thị giác/xúc giác, cảm xúc, thế giới vật chất, đời sống xã hội và mức độ…

Xem chi tiết

Giá trị lịch sử – kiến trúc di tích cầu ngói Thanh Toàn và giải pháp khai thác phục vụ du lịch

 Cầu ngói Thanh Toàn (xã Thủy Thanh, Thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế) đã được nhà nước công nhận là di tích cấp quốc gia năm 1990. Trong những năm qua, hoạt động du lịch ở làng Thanh Toàn đã có nhiều chuyển biến và đạt được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, việc khai thác các di tích lịch sử văn hóa để phát triển du lịch trên địa bàn vẫn còn nhiều khó khăn, hạn chế. Bài viết nhận diện các giá trị lịch sử văn hóa, giá trị kiến trúc nghệ thuật của cầu ngói Thanh Toàn, đồng thời, đề xuất một số giải pháp khai thác du lịch hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống của người dân địa phương cũng như công tác bảo tồn di tích trong bối cảnh hiện nay.

Xem chi tiết

Chùa Thánh Duyên: Một dấu ấn văn hoá – kiến trúc dưới triều Nguyễn (1)

Chùa Thánh Duyên được xây dựng, vào triều Minh Mạng, mở rộng quy mô và tăng thêm một số công trình kiến trúc trên núi Thuý Hoa8. Những công trình kiến trúc này, tuy đã được trùng tu nhưng vẫn giữ được khá nguyên trạng kiến trúc và mỹ thuật đặc trưng dưới triều Nguyễn. Đặc biệt là việc hoạch định bố cục, xử lý tình huống hài hòa với địa lý tự nhiên, đồng thời thể hiện những nét đặc trưng của danh lam xứ Huế.

Xem chi tiết

Phủ đệ triều Nguyễn: Không gian, kiến trúc mang tính “chuyển tiếp” giữa sự quyền uy và truyền thống

Nhắc đến Huế, dường như ai cũng biết đến giá trị kiến trúc di sản thời Nguyễn cũng như các giá trị văn hóa đã trầm tích qua bao thế hệ, để hun đúc thành một “xứ” Huế rất riêng mà không thể lẫn vào đâu được trong mạch văn hóa xứ Đàng Trong. Để chứng minh điều đó thì các di sản kiến trúc thời Nguyễn và Nhã nhạc cung đình Huế đã được Unesco công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, để rồi Huế mặc nhiên tự hào là Cố đô cuối cùng của một đất nước ngàn năm văn hiến…

Xem chi tiết

Danh mục sách đã xuất bản và phát hành do Viện nghiên cứu Việt Nam học thực hiện

Viện nghiên cứu Việt Nam học và Thánh địa Việt Nam học xin chân thành cám ơn sự quan tâm của Quý độc giả trong thời gian qua trên trang web thanhdiavietnamhoc.com. Hiện tại, Thánh địa Việt Nam học có các danh mục sách để kính mời Quý độc giả quan tâm.

Xem chi tiết

Hoàn thiện tính tự lập cho trẻ để hình thành nguồn nhân lực cho tương lai tại trường mầm non 106 Biên Hòa, Đồng Nai

Giáo dục là một quá trình toàn vẹn hình thành nhân cách được tổ chức một cách có mục đích và có kế hoạch, thông qua các hoạt động và các quan hệ giữa người giáo dục và người được giáo dục nhằm truyền đạt và chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã hội của loài người. Giáo dục tính tự lập (GDTTL) cho trẻ trong trường mầm non được hiểu là một hoạt động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch hợp lý, thông qua các hoạt động trong trường mầm non và các quan hệ giữa giáo viên với trẻ nhằm hình thành nét tính cách tự lập cho trẻ.

Xem chi tiết

Vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ nhìn từ thủ pháp viết lại

Có thể nói, đến nay thủ pháp viết lại đã có một bề dày lịch sử trong văn học Việt Nam và được thể nghiệm trên nhiều thể loại khác nhau. Nếu như ở mảng trữ tình và tự sự (nhất là truyện ngắn) việc viết lại đã đạt được những thành công đáng kể với nhiều hình thức đa dạng, phong phú thì ở mảng kịch cũng gặt hái không ít thành quả. Một trong những gương mặt tiêu biểu ấy chắc chắn là Lưu Quang Vũ – một hiện tượng của sân khấu kịch Việt Nam thế kỉ XX. Có thể nói dấu ấn đậm nét trong phong cách kịch của Lưu Quang Vũ là tính chính luận sắc bén và sắc thái trữ tình đậm đà. Bài viết chọn vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt – một sáng tác tiêu biểu của Lưu Quang Vũ để nghiên cứu từ ánh sáng của lý thuyết liên văn bản.

Xem chi tiết

Hệ thống giao thông đường bộ trong sự chuyển biến kinh tế – xã hội ở Đông Nam Bộ (1900 – 1945)

Quá trình khai thác thuộc địa của Pháp trong gần 100 năm thống trị đã làm cho nền kinh tế xã hội ở Đông Nam Bộ có những biến đổi sâu sắc. Để phục vụ cho việc khai thác thuộc địa, Pháp đã xây dựng, phát triển một hệ thống giao thông đường bộ giữa các tỉnh, thành trong khu vực Đông Nam bộ nối với các vùng lân cận. Việc đầu tư xây dựng hệ thống giao thông đã tạo sự chuyển biến kinh tế – xã hội Đông Nam Bộ trong những năm nửa đầu thế kỷ 20.

Xem chi tiết

Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 3)

Nhựt thơ 日書 là một thứ tài liệu ‘mệnh lý học’ (hemerology) dùng để coi ngày tốt ngày xấu, ghi cùng những thứ tài liệu khác trên nhiều tấm thẻ bằng tre/cây ghép lại với nhau, hoặc là một tấm lụa cuốn lại. Thời trào Tần/Hán trước công nguyên (before the common era, viết tắt ‘BCE’), những người đương chức khi chết thì đồ tùy táng trong hòm thường có thêm một tập thẻ như vậy để cho họ qua đời sau nếu vẫn làm chức đó thì lấy mà xài.

Xem chi tiết

Rối nước loại hình nghệ thuật dân gian độc đáo của Việt Nam

 Nghệ thuật múa rối có ở nhiều quốc gia trên thế giới nhưng múa rối nước thì chỉ duy nhất có ở Việt Nam. Theo những nguồn tư liệu khác nhau về nghệ thuật múa rối ở Việt Nam cho thấy, năm 1121 múa rối nước đã được đưa vào biểu diễn để mừng thọ vua, mà minh chứng đó là những dòng chữ Hán được khắc trên tấm bia đá cổ có từ triều đại nhà Lý được đặt tại chùa Long Đọi, xã Đọi Sơn, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam.

Xem chi tiết

Tín ngưỡng Krishna qua di vật khảo cổ học Champa: Giải mã di vật thuộc di tích Khương Mỹ thuộc thế kỷ 10

Bài viết chỉ ra rằng điêu khắc đấu vật thể hiện chủ đề “Krishna tiêu diệt Kamsa”, và điêu khắc cỗ xe ngựa là biểu trưng của “cỗ xe ngựa trắng của thần Arjuna do Krishna điều khiển”. Cả hai nội dung này được diễn giải qua văn khắc Champa, và cổ thư Bà-la-môn giáo, đồng thời qua hệ thống các di vật đã được giải mã cũng được tìm thấy tại di tích này; từ đó, nhận định cư dân Champa có thể đã từng thực hành tín ngưỡng thờ thần Krishna tại di tích Khương Mỹ.

Xem chi tiết

Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 2)

Có lẽ người Việt và người Khmer đều nhận lấy 12 con giáp từ nhóm người nói tiếng AMC ở miền bắc Việt Nam hồi thế kỷ 10. Giả thiết trên ngụ ý rằng những tên gọi chuột, trâu, khái, thỏ,… trong tiếng Việt và jut, chlu,  khal, thoh,… trong tiếng Khmer chính là tên gọi những con vật đó trong tiếng AMC.

Xem chi tiết

Nhận thức rõ thêm về kênh Thoại Hà (An Giang) qua một số tài liệu tiếng Pháp

Năm 1817, Thoại Ngọc Hầu nhận trấn thủ trấn Vĩnh Thanh, kiêm quản trấn Hà Tiên. Việc làm đầu tiên của ông khi đến vùng đất này là huy động nhân dân đào kênh Thoại Hà năm 1818. Trải qua thời gian, nhất là trong thời Pháp thuộc, kênh Thoại Hà không chỉ tiếp tục được nạo vét, mở rộng, mà còn định vị những giá trị mới trong thuỷ nông, giao thông, thương mại và biên phòng, là hiện thân của sức lao động sáng tạo của các lớp dân cư, minh chứng cho chính sách trọng nông để phát triển nông nghiệp. Dòng kênh này cũng thu hút sự quan tâm khảo cứu của chính quyền thực dân Pháp và giới nghiên cứu nước ngoài…

Xem chi tiết

Mười hai con giáp, nói hoài chưa hết (Phần 1)

 ‘Con giáp’ (zodiac animals) là những con vật mà dân gian ở một số nơi gắn với mười hai năm, với niềm tin rằng ai đẻ ra trong năm con trâu thì có tánh thiệt thà (honest), cần cù (diligent), đáng tin (dependable), nhẫn nại (patient), persevering (bền bỉ), nghĩ sâu (deep thinkers), bướng bỉnh (stubborn), và hợp với màu đen,…

Xem chi tiết

Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần chót)

Xưa có anh kia làm hoài vẫn nghèo, muốn đi gặp Thần May xin cho giàu. Trên đường ảnh gặp một cái hồ không có đò, một con cá bự trồi lên hỏi ảnh đi đâu, nghe xong nó chở ảnh qua và nhờ ảnh hỏi Thần May vì sao nó bị đau lưng đã lâu không dứt. Rồi ảnh tới xứ kia, có nhà vua trẻ tuổi dòm tướng mạo y hệt con gái mà đánh trận nào thua trận đó. Ảnh bị lính bắt, vua hỏi ảnh đi đâu, nghe xong cho thả ảnh ra và nhờ ảnh hỏi Thần May vì sao vua chưa bao giờ thắng trận. Rồi ảnh gặp một ông thợ cày trồng cây không bao giờ ra trái, nhờ ảnh hỏi Thần May vì sao như vậy.

Xem chi tiết

Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 4)

Bà Chằn [a] có một đứa con gái. Ngày nọ, khi bả đi kiếm mồi, nó ở nhà đem lòng thương anh kia. Thấy bả về, nó dắt ảnh đi giấu, nhưng bả vẫn tìm ra; nó nhận là thương ảnh, xin bả tha mạng cho ảnh làm con rể. Bữa kia bà Chằn đi săn, đứa con gái lén lấy bửu bối của bả đưa chồng coi. Đó là một cây gậy lạ: đập đầu này thì làm cho chết, đập đầu kia thì làm cho sống, trỏ đầu này thì làm ra biển nước, trỏ đầu kia thì làm cho nước cạn. Anh chồng dụ vợ: ‘Để tui thử lấy cây gậy đập cho mình chết, rồi đập cho mình sống lại, hén.’…

Xem chi tiết

Giới thiệu sơ lược về tam Tổ Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam

Bài viết giới thiệu sơ lược về Thiền phái Trúc Lâm Việt Nam thời Trần qua các vị tiền bối (thông qua cuộc đời, hành trạng, sự nghiệp, những dấu ấn chính và các trước tác của ba vị Tổ sư thời Trần). Qua đây, chúng ta thấy được những nét riêng trong đặc điểm của từng vị Tổ sư cũng như những nét tương đồng và thống nhất; đồng thời thấy được quá trình hình thành và phát triển tư tưởng cũng như những việc làm thiết thực của các vị thiền sư trong từng giai đoạn và hoàn cảnh cụ thể. Tuy nhiên, tất cả đều thống nhất trong tinh thần tu tập giác ngộ và hành đạo vì lý tưởng bồ tát độ tha.

Xem chi tiết

Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3C)

Xưa hột lúa bự như cái tô, cái chén. Người ta khỏi cần làm gì hết, tới kỳ lúa chín thì đốt đèn cầy, cúng vái hai ba ngày, là lúa tự nó vô nhà mình. Anh kia có vợ làm biếng, biểu đi dọn dẹp nhà cửa đặng cúng, tới khi ảnh sắp vái mà cũng chưa quét xong. Cô vợ đang lom khom thì hột lúa tông vô nhà cái rầm….

Xem chi tiết

Antony Landes với chuyện dân gian người Việt (Phần 3B)

 Xưa có nhà họ Liêu, đàn ông hễ tới ba mươi mốt tuổi là chết. Con cháu họ lo sợ, chẳng biết làm sao cho khỏi chết sớm. Lúc đó [nghe nói] có ông nào đó tên Lữ Vọng sống tới ba trăm tuổi. Ông này hay tới ngồi trên một tảng đá lớn mà câu cá. Ai cũng nói Trời chẳng có mắt khi một người sống lâu chừng dó còn những người khác chưa chi đã chết…

Xem chi tiết