Tiềm năng phát triển du lịch cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang

POTENTIAL OF TOURISM DEVELOPMENT IN DONG VAN PLATEAU, HA GIANG

Tác giả bài viết: TRẦN VIẾT KHANH
(Đại học Thái Nguyên)
NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
(Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên)

TÓM TẮT

     Hà Giang là một tỉnh miền núi biên giới phía bắc của Tổ Quốc, với diện tích tự nhiên 7.914,9 km2, là nơi cư trú của 22 dân tộc. Đây là một trong những khu vực có địa hình phức tạp nhất cả nước, có vị trí chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội, an ninh quốc phòng và đối ngoại. Hà Giang là một vùng đất có tiềm năng rất lớn về du lịch, đặc biệt là phát triển các loại hình du lịch sinh thái như: Du lịch tham quan nghỉ dưỡng, du lịch mạo hiểm, du lịch cộng đồng… Cao nguyên đá Đồng Văn một khu vực rộng lớn gồm 4 huyện vùng cao núi đá, phía bắc tỉnh Hà Giang với nhiều tiềm năng du lịch, nhiều dạng địa hình độc đáo chưa được khám phá. Với vẻ đẹp hoang sơ, hùng vĩ nơi đây đã được thế giới công nhận là Công viên Địa chất toàn cầu vào tháng 10 năm 2010. Đây sẽ là tiền đề hết sức quan trọng trong phát triển du lịch sinh thái bền vững của tỉnh trong thời gian tới.

Từ khóa: Cao nguyên đá, Đồng văn, du lịch, bền vững, cộng đồng, Hà Giang.

ABSTRACT

     Ha Giang is a mountainous province in the northern border of Vietnam with an area of 7914.9 km2. It has the residence of 22 ethnic groups. This is one of the most complex terrain of Vienam. This territory play very important role for strategic position in Social-Economic development, national security and foreign policy. Ha Giang is a land of great potential for tourism, especially for the development of eco-tourism.

     Dong Van Plateau is a large area consisting of 4 rocky highland districts, with many tourist potential such as unique terrain types. It is recognized as Global Geoparks in October 2010. This will be a very important conditions for the development of sustainable ecotourism of the province in future.

Keywords: Highland, Dong Van, tourism, sustainable, communities, Ha Giang.

x
x x

Đặt vấn đề

     Thiên nhiên, con người cùng những nét riêng biệt về văn hóa các dân tộc vùng cao núi đá Đồng Văn đã tạo nên một bức tranh văn hóa đa dạng với nhiều bản sắc độc đáo cho riêng vùng này – đây cũng chính là tiềm năng to lớn để phát triển du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng. Tỉnh Hà Giang xác định, xây dựng và phát triển du lịch gắn với cộng đồng được coi là một trong những chiến lược nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước đến với cao nguyên đá Đồng Văn. Du lịch phát triển sẽ đem lại nhiều lợi ích cho người dân bản địa từ các loại hình dịch vụ như: cung cấp dịch vụ nghỉ dưỡng, dịch vụ hướng dẫn, phục vụ ăn uống, trao đổi hàng hóa, sản phẩm du lịch, giao lưu văn hóa, thưởng thức ẩm thực với các món ăn truyền thống, đặc sản của địa phương.

     Việc nghiên cứu cao nguyên đá Đồng Văn sẽ cho phép chúng ta hiểu biết về lịch sử phát triển của lớp vỏ trái đất, quá trình phát triển địa hình của khu vực. Khám phá những nét đặc sắc văn hóa dân tộc góp phần giữ gìn, bảo tồn các di sản tự nhiên và di sản nhân văn, thúc đẩy phát triển du lịch trên cao nguyên đá Đồng Văn.

Vị trí địa lý, phạm vi lãnh thổ của cao nguyên đá Đồng Văn

     Khu vực Cao Nguyên Đá Đồng Văn gồm 4 huyện ( Quản Bạ, Yên Minh, Mèo Vạc, Đồng Văn), với tổng diện tích là: 2356 km2. Đây là khu vực địa đầu tổ quốc, nằm ở phía bắc của tỉnh Hà Giang, tiếp giáp với Trung Quốc ở phía bắc và giáp với huyện Bảo Lâm (tỉnh Cao Bằng) ở phía đông.

Đặc điểm tự nhiên của cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang

     Địa chất, địa mạo

     Nằm ở độ cao trung bình 1000 – 1600m so với mực nước biển trên diện tích 2.356km², cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng đá vôi đặc biệt của cả nước, chứa đựng những dấu ấn tiêu biểu về lịch sử phát triển của vỏ trái đất. Đồng Văn có tới 80% diện lộ đá vôi, được tạo thành từ những điều kiện môi trường và giai đoạn phát triển rất khác nhau.

     Theo khảo sát của các nhà khoa học ở Viện khoa học Địa chất và Khoáng sản thì cao nguyên đá Đồng Văn đã trải qua tất cả các giai đoạn phát triển của vỏ trái đất, từ Đại cổ sinh, Đại trung sinh đến Đại tân sinh với sự có mặt của 13 hệ tầng địa chất, bao gồm Chang Pung, Lut Xia, Si Ka, Bắc Bun, Mia Lé, Si Phai, Tốc Tát, Lũng Nậm, Bắc Sơn, Đồng Đăng, Hồng Ngài, Sông Hiến và Lân Pảng, trong đó Chang Pung là hệ tầng cổ nhất có niên đại cách ngày nay khoảng 540 triệu năm.

     Tại các điểm lộ đá trầm tích có tuổi khác nhau ở Đồng Văn, các nhà cổ sinh vật cũng đã phát hiện rất nhiều hóa thạch thuộc 19 nhóm: Tay cuộn, San hô vách đáy, San hô 4 tia, Lỗ tầng, Bọ ba thùy, Cá cổ, Trùng lỗ, Vỏ nón, Răng nón, Chân rìu, Chân bụng, Chân đầu, Động vật dạng rêu, Huệ biển, Vỏ cứng, Giáp xác cổ, Thực vật thủy sinh, Tảo cổ và Chitinozoa. Các cổ sinh vật hóa thạch này đã giúp các nhà khoa học hoàn chỉnh bức tranh lịch sử phát triển địa chất vùng cao nguyên đá Đồng Văn nói riêng và địa chất khu vực đông bắc Việt Nam nói chung.

     Cùng với sự thay đổi của khí hậu, quá trình hòa tan của nước đã tạo ra các dạng địa hình karst như: “vườn đá”, “rừng đá” đa dạng và phong phú. Vườn đá Khau Vai (Mèo Vạc) có các chóp đá hình bông hoa, nụ hoa, nhành hoa muôn hình muôn vẻ; vườn đá Lũng Pù (Mèo Vạc) có các chóp đá, tảng đá, tháp đá hình rồng cuộn, hổ ngồi…; vườn đá Vần Chải (Đồng Văn) có các phiến đá tròn nhẵn xếp gối lên nhau, trông tựa như đàn hải cẩu hàng nghìn con nằm nghỉ trên bãi biển… Tuy nhiên, những dãy núi có dạng kim tự tháp đỉnh nhọn, sườn dốc nối tiếp nhau cao ngất trời mới là phổ biến nhất, tạo cho cao nguyên đá Đồng Văn một sự uy nghi hùng vĩ. Hệ thống hang động trên cao nguyên đá Đồng Văn cũng là sản phẩm của quá trình karst hóa và là những điểm tham quan du lịch rất kỳ thú: Hang Rồng ở Sảng Tủng (Đồng Văn), hang Khố Mỷ ở Tùng Vài (Quản Bạ), động Én ở Vần Chải (Đồng Văn).v.v…

     Địa hình của 4 huyện vùng cao chủ yếu là địa hình núi đá vôi có xen lẫn núi đất bị chia cắt mạnh, núi cao, vực sâu. Độ cao tuyệt đối phổ biến từ 800m – 1200m so với mặt nước biển. Địa hình thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Phần lớn diện tích của lãnh thổ thuộc về thượng nguồn của sông Miện và sông Nho Quế với các sườn núi đá vôi có độ dốc lớn và chia cắt mạnh. Có đến 55 – 60% diện tích của vùng là diện lộ của các loại đá vôi. Sự đan xen giữa các diện lộ đá vôi và các loại đá khác đã làm nên ở đây một sự kết hợp hài hòa, đa dạng giữa địa hình gồ ghề, hiểm trở của đá vôi và địa hình thoải, mềm mại của các loại đá khác. Đá vôi ở cao nguyên Đồng Văn đang ở giai đoạn karst tương đối trẻ. Trên bề mặt các khối núi đá vôi quá trình hòa tan, xâm thực hiện đại diễn ra mạnh mẽ do hoạt động của nước đã tạo nên những khối đá tai mèo lởm chởm, sắc nhọn. Bề mặt cao nguyên đã bị phá hủy, nhưng các thung lũng còn hẹp và tương đối kín, những núi sót còn chiếm diện tích khá lớn. Sông suối chảy trên cao nguyên, rồi mất hút hoặc là cắt thành những hẻm vực vừa hẹp vừa dài, như hẻm vực sông Miện và các hẻm vực ở sông Nho Quế.

     Khí hậu

     Nhìn chung, khí hậu cao nguyên đá Đồng Văn mang sắc thái ôn đới và cận nhiệt đới. Khí hậu chia thành 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, nhiệt độ trung bình năm 200C – 230C biên độ dao động nhiệt ngày và đêm diễn ra mạnh hơn vùng đồng bằng.

     Lượng mưa trung bình năm 1400 mm, nhưng do địa hình karst nên nước mưa nhanh chóng thẩm thấu xuống các hang động ngầm. Lượng mưa lớn nhất vào tháng 7, tháng có lượng mưa nhỏ nhất là tháng 2.

     Cao nguyên đá Đồng Văn là một trong những vùng có độ ẩm tương đối cao trong hầu hết các tháng trong năm. Độ ẩm trung bình tháng cao nhất là 87% (tháng 7), độ ẩm trung bình thấp nhất là 81% (tháng 4).

     Thủy văn

     Trong vùng có 2 con sông chính là sông Nho Quế, sông Miện và mạng lưới sông suối nhỏ khác, sông có độ dốc lớn, nhiều ghềnh thác, trữ lượng nước ít, lưu lượng thấp. Đây là các nhánh của thượng nguồn sông Lô và sông Gâm. Nguồn nước ngầm vừa hiếm lại phân bố không đều trên cao nguyên. Mặc dù mưa nhiều, độ ẩm cao nhưng cao nguyên Đồng Văn lại là khu vực rất khan hiếm nước do hiện tượng karst tạo ra trong đá vôi nhiều hang động, nhiều khe nứt nên khu vực này không có khả năng tàng trữ nước.

     Tài nguyên sinh vật

     Do nằm ở độ cao trên dưới 1000m so với mực nước biển, ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc và sự xâm nhập của các yếu tố bên ngoài, nên thực vật nơi đây mang sắc thái của khu hệ thực vật á nhiệt đới Hoa Nam – Bắc Việt Nam. Với kiểu rừng đặc trưng là rừng kín thường xanh, trong đó đã pha tạp một số loài thực vật á nhiệt đới, giỏi chịu hạn và chịu lạnh như: thông, sa mu, kháo, de, dổi, trò chỉ, vàng tâm, nghiến, trai, cây bụi và thảm thực bì. Cây trồng, vật nuôi khá phong phú: cây lương thực có lúa, ngô, mạch, đậu các loại…; cây công nghiệp có chè shan tuyết, đậu tương, lanh…; cây ăn quả có đào, lê, mận, hồng… và nhiều loại cây dược liệu khác.

Dân cư, dân tộc cao nguyên đá Đồng Văn

    Cao nguyên đá Đồng Văn là địa bàn cư trú của 17 dân tộc anh em, với số dân 253.864 người (năm 2009) chiếm 35,8% số dân tỉnh Hà Giang. Cộng đồng dân tộc ở đây có sự đa dạng về phong tục, tập quán với nhiều bản sắc văn hóa riêng biệt; đó là các dân tộc: Mông, Dao, Lô Lô, Tày, Nùng, Giáy, Cờ lao, Pu Péo, Bố Y, Pà Thẻn, Hoa…. Sự hội nhập, giao lưu của nhiều tộc người cùng sinh sống trên cao nguyên đá Đồng Văn đã tạo nên bản sắc văn hóa hết sức độc đáo trong cộng đồng 22 dân tộc sinh sống ở Hà Giang. Những phương thức canh tác độc đáo, các giá trị văn hóa được truyền lại từ nhiều đời qua nhiều thế hệ của những con người “sống trên đá”, những lễ hội văn hóa giàu tính nhân văn đã làm tăng sức hấp dẫn của vùng đất nơi địa đầu Tổ quốc này.

Một số điểm du lịch và lễ hội truyền thống trên cao nguyên đá Đồng Văn

     Một số điểm du lịch

     Danh thắng Mã Pì Lèng

     Danh thắng Mã Pì Lèng được biết đến là một trong những con đèo trong “tứ đại đỉnh đèo” hùng vĩ nhất nước ta. Đèo Mã Pì Lèng là biểu tượng của ý chí chinh phục thiên nhiên của con người khi mở con đường lịch sử mang tên “Hạnh phúc” từ Hà Giang đến Mèo Vạc. Đến đây du khách có thể khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ với nhiều cảnh quan ngoạn mục. Từ trên đỉnh Mã Pì Lèng nhìn xuống dòng sông Nho Quế xanh ngắt như sợi chỉ uốn lượn dọc theo thung lũng với những vách đá dựng đứng. Tại đây có thể quan sát được những mặt trượt của các đứt gãy địa chất đã từng hoạt động cách đây hàng trăm triệu năm.

     Núi Đôi

     Núi Đôi thuộc thị trấn Tam Sơn và xã Quản Bạ, huyện Quản Bạ, cách thành phố Hà Giang 46 km về phía Bắc. Đứng giữa cổng trời, du khách có dịp dừng chân chiêm ngưỡng Núi Đôi một kiệt tác tuyệt vời của thiên hiên. Đây cũng là một hiện tượng karst trụi, độc đáo trên miền đất cao nguyên này.

     Các điểm hoa tam giác mạch

     Tam giác mạch trên cao nguyên đá mọc thành từng dải dài, với nhiều màu sắc sặc sỡ, phủ kín trên các triền đồi, khe núi. Thậm chí trên từng cung đường uốn lượn, chúng ta cũng có thể được chiêm ngưỡng những vạt tam giác mạch mọc bên lề đường. Thông thường hoa tam giác mạch nở rộ vào cuối tháng 10, đầu tháng 11. Hãy đến với những cánh đồng tam giác mạch nơi đây để cảm nhận bầu không khí đất trời tuyệt diệu mà không nơi nào có được.

     Ruộng bậc thang

     Đến với cao nguyên đá du khách sẽ ngất ngây trước cảnh sắc muôn hình của những thửa ruộng bậc thang được tạo ra từ bàn tay của con người. Những thửa ruông bậc thang ở đây thường uốn lượn thành các đai có cùng độ cao trên sườn núi . Do địa hình dốc nên các thửa ruông bậc thang thường có diện tích hẹp. Vào tháng 9, tháng 10 và đầu mùa xuân là thời điểm đẹp nhất để ngắm những thửa ruộng bậc thang, vì đây là thời điểm chuẩn bị gieo cấy và lúa đang lên xanh.

     Cổng trời Quản Bạ

     Từ thời Pháp thuộc, cổng trời Quản Bạ đã là địa danh nổi tiếng. Cổng trời có địa thế độc đáo, nằm cách thành phố Hà Giang 45 km, có độ cao 1200 mét so với mặt nước biển. Từ Cổng trời có thể quan sát được toàn bộ thị trấn Tam Sơn cùng những thung lũng rộng lớn với các cánh đồng lúa chín, rải rác những ngôi nhà nhỏ xinh xắn, ấm cúng nép mình bên thảm lúa.

     Khu di tích kiến trúc nhà Vương

     Khu di tích này thuộc địa phận xã Xà Phìn, huyện Đồng Văn. Đây là một công trình độc đáo, được xây dựng từ đầu thế kỷ XX mô phỏng theo kiến trúc cổ Trung Quốc thời Mãn Thanh với những đường cong, nét lượn, trạm trổ tinh xảo… Đây không chỉ là dinh thự mà còn là pháo đài phòng thủ giữa cao nguyên đá trong thời điểm lịch sử đó. Khu di tích này được công nhận là di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia từ năm 1993. Hiện nay khu di lích này đang được trùng tu, trở thành một điểm nhấn của các tuyến du lịch trên cao nguyên Đồng Văn.

     Phố cổ Đồng Văn

     Dãy phố dài gần một km được hình thành cách đây gần một thế kỷ, với những nét kiến trúc đặc trưng của đồng bào vùng cao với nhà trình tường, mái ngói âm dương, nền lát đá… Điểm nhấn và bắt đầu của dãy phố là khu chợ cổ, được xây bằng đá mái lợp ngói âm dương. Phố cổ Đồng Văn hiện còn hơn 40 ngôi nhà có tuổi từ 100 đến 300 năm, trong đó ngôi nhà của dòng họ Lương được xác định là lâu đời nhất. Những đêm rằm, toàn bộ dãy phố được thắp sáng bằng những chiếc đèn lồng đỏ với nhiều kích cỡ khác nhau.

     Một số lễ hội, văn hóa truyền thống

     Mỗi dân tộc có một nếp sinh hoạt và tập tục lễ hội riêng và thường tập trung vào tháng giêng âm lịch. Trong đó phải kể đến là các lễ hội tiêu biểu như:

     Lễ hội “Gầu Tào” là một lễ hội độc đáo của người dân tộc Mông.

     Từ mùng 3 đến mùng 5, tháng giêng, chọn ngày tốt, giờ tốt, chủ nhà tiến hành khai hội. Dưới chân cây nêu đã được chuẩn bị từ trước là một cây tre to cao. Chủ nhà chỉ nói một vài lời mang tính chất tuyên bố, ngay sau đó hát hội bắt đầu. Nội dung của lời bài hát chủ yếu là ngợi ca, chúc tụng hoặc giao duyên tình cảm. Ngoài ra còn có các trò chơi dân gian và các nội dung sinh hoạt văn hoá.

     Lễ “Cúng thần Rừng”: Hàng năm, cứ vào ngày 6/6 âm lịch, người Pu Péo lại tổ chức lễ hội cúng Thần rừng vì họ cho rằng, ngày 6/6 âm lịch là ngày sạch sẽ nhất trong năm, trời đất đều linh thiêng. Địa điểm tổ chức lễ hội là thôn Chúng Trải, xã Phố Là, huyện Đồng Văn (Hà Giang). Nơi tổ chức lễ cúng là một gò, gần bìa rừng phía đầu bản người Pu Péo sinh sống.

    Với người Pu Péo, lễ cúng Thần rừng có một ý nghĩa rất đặc biệt, họ quan niệm thần phù hộ cho cuộc sống người dân và thần ngụ ở trên rừng nên từ xa xưa, cụ tổ của dân tộc Pu Péo đã thề ở miếu trước cửa rừng rằng sẽ dạy bảo con cháu giữ gìn rừng thiêng.

     Chợ tình Khau Vai: Phiên chợ diễn ra tại xã Khau Vai (Mèo Vạc) vào đêm ngày 26 đến sáng ngày 27 tháng 3 (âm lịch) hàng năm. Đây là một lễ hội đặc trưng và độc đáo nhất ở Việt Nam và trên toàn thế giới. Khau Vai, là nơi gặp gỡ, hẹn hò của những mối tình dang dở, những đôi lứa không thành vợ, thành chồng. Đến với chợ là để được thăm hỏi, trao gửi những tình cảm đẹp nhất giữa người con trai và người con gái sau những khoảng thời gian xa cách. Có lẽ sâu xa hơn đó chính là cách để đồng bào các dân tộc duy trì, nối tiếp sự phát triển tình cảm của những con người đã gắn chặt cuộc đời mình với thiên nhiên, với đất đá và cây cỏ nơi đây.

     Chợ phiên: Một nét sinh hoạt văn hóa khá độc đáo và không thể thiếu ở Công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng Văn là các chợ phiên. Chợ phiên không chỉ là nơi trao đổi hàng hóa, phục vụ nhu cầu tiêu dùng, mà quan trọng hơn đây là nơi biểu hiện đậm nét nhất những bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc trong sinh hoạt cộng đồng. Bà con dân tộc đi chợ ngoài việc mua bán còn đơn giản là để được gặp gỡ, giao lưu, trao cho nhau một ánh mắt, nụ cười, uống với nhau một vài chén rượu hoặc quây quần xung quanh chảo thắng cố.

Kết luận

     Công viên địa chất toàn cầu – Cao nguyên đá Đồng Văn là nơi còn chứa đựng nhiều tiềm năng cho phát triển du lịch. Với các di sản địa chất, địa mạo độc đáo, cùng với khí hậu mát mẻ của vùng cao núi đá, với một cộng đồng các dân tộc có bản sắc văn hóa và lễ hội độc đáo, Cao nguyên đá Đồng Văn hứa hẹn trở thành khu du lịch nổi tiếng của Việt Nam. Tuy nhiên, khu vực này cần được quan tâm đầu tư về cơ sở vật chất, quy hoạch theo hướng bền vững, đặc biệt là kết cấu hạ tầng giao thông để đảm bảo thuận lợi cho sự phát triển kinh tế – xã hội. Trong đó cần quan tâm hơn nữa tới phát triển du lịch sinh thái trên cơ sở khai thác hiệu quả các giá trị sẵn có của Công viên địa chất toàn cầu nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, gìn giữ và bảo vệ môi trường, khai thác và sử dụng hợp lý các dạng tài nguyên và quảng bá hình ảnh Công viên địa chất toàn cầu trong khu vực và quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1. Ma Ngọc Giang, Các giải pháp tăng cường hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch Công viên địa chất Cao nguyên đá Đồng văn, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phát triển kinh tế du lịch Hà Giang trong mối liên kết với các tỉnh khu vực Đông bắc, Tây bắc và tỉnh Vân Nam Trung quốc, Hà Giang, tháng 3/2015.

     2. Tạ Hòa Phương và nnk (2010), Nghiên cứu điều kiện tự nhiên vùng cao nguyên đá Đồng Văn – Mèo Vạc phục vụ xây dựng công viên địa chất toàn cầu, Mã số: QG.08.12.

     3. Phạm Trung Lương, Lợi thế so sánh để phát triển du lịch Hà Giang, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phát triển kinh tế du lịch Hà Giang trong mối liên kết với các tỉnh khu vực Đông bắc, Tây bắc và tỉnh Vân Nam Trung quốc, Hà Giang, tháng 3/2015.

     4. Nguyễn Xuân Trường: Đặc điểm địa chất và địa lý tự nhiên Công Viên Địa Chất Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Tạp chí khoa học ĐHSP TP HCM.

    5. Nguyễn Xuân Trường và nnk: Đặc điểm địa lý dân cư, dân tộc vùng Cao nguyên đá Đồng Văn, tỉnh Hà Giang, Tạp chí khoa học và công nghệ ĐHTN.

     6. Sở văn hóa, Thể thao và du lịch tỉnh Lạng Sơn, Phát triển du lịch Hà Giang trong mối liên kết các tỉnh miền núi Đông Bắc, Kỷ yếu hội thảo khoa học: Phát triển kinh tế du lịch Hà Giang trong mối liên kết với các tỉnh khu vực Đông bắc, Tây bắc và tỉnh Vân Nam Trung quốc, Hà Giang, tháng 3/2015.

     7.Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh Hà Giang (2008), Hội thảo du lịch cộng đồng thực trạng và giải pháp phát triển bền vững, Hà Giang.

     8. Cổng thông tin điện tử tỉnh Hà Giang: www.hagiang.gov.vn

    9. Trang thông tin điện tử Ban quản lý Công viên địa chất toàn cầu – Cao nguyên đá Đồng Văn tỉnh Hà Giang: http://dongvangeopark.com.

Nguồn: Tạp chí Khoa học & Công nghệ 133(03)/1: 161 – 166

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Tiềm năng phát triển du lịch cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang (Tác giả: Trần Viết Khanh; Nguyễn Thị Thu Hương)