Tiếp nhận VĂN HOÁ ĐẠI CHÚNG của SINH VIÊN VIỆT NAM hiện nay: Phương thức và giải pháp (Phần 2)
ĐẶNG THỊ TUYẾT
(Viện Văn hoá và Phát triển, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)
3. Giải pháp nâng cao khả năng tiếp nhận văn hóa đại chúng của sinh viên
3.1. Giáo dục gia đình
Hãy bắt đầu từ sự giáo dục trong gia đình, cái nôi văn hoá đầu tiên của SV. Gia đình có tác dụng giáo dục văn hoá, bảo lưu các giá trị văn hoá truyền thống. Vì thế, người ta thường ví gia đình là trường học đầu tiên và người mẹ là người thầy đầu tiên của đời người. Sự hình thành những chuẩn mực giá trị văn hoá tốt đẹp của gia đình không chỉ củng cố các mối quan hệ gia đình, mà còn tạo tiền đề quan trọng để mỗi cá nhân tiếp tục hoàn thiện giá trị nhân cách khi hoà nhập vào môi trường xã hội.
Văn hoá gia đình chính là cái nôi, nơi tạo lập và tiếp thu văn hoá. “…mối liên kết giữa các thành viên trong gia đình giữ vai trò quan trọng đối với việc tiếp thu và sử dụng các thông điệp từ hệ thống truyền thông đại chúng vì những nhu cầu và lợi ích của họ. Họ có thái độ phê phán, nhiều khi gay gắt đối với việc quảng bá bạo lực và việc lạm dụng hình ảnh phụ nữ, trẻ em trong các chương trình phim, quảng cáo… vì mục đích thương mại. Điều ấy có nghĩa rằng, truyền thống văn hoá gia đình, nền tảng của gia phong rất có ý nghĩa trong tương tác giữa VHĐC và văn hoá gia đình” [6].
Có thể coi truyền thống văn hoá gia đình là một bộ phận hợp thành nền văn hoá dân tộc, với hệ thống những giá trị, chuẩn mực điều chỉnh hành vi và điều tiết mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Do đó, ông bà, cha mẹ phải làm gương cho con cháu về văn hoá, về đạo đức. Người Việt đã đúc kết “giỏ nhà ai, quai nhà nấy”, “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, như một quy luật, một triết lý giáo dục văn hoá, đạo đức trong gia đình.
Có thể nói, xã hội hiện đại với sự phân hoá lao động cao đã dẫn đến tình trạng nhiều phụ huynh phó mặc giáo dục con cái cho nhà trường. Kinh tế thị trường và sự tự do cạnh tranh lợi nhuận đã có thể đưa con người vượt ra ngoài những sự kìm toả của gia đình để tìm thấy một thứ hạnh phúc khác gắn liền với các điều kiện vật chất, sự sang giàu về tiền bạc, sự xoá bỏ các ràng buộc về huyết thống, thế hệ và giới tính…
Do đó, cần phát huy sức mạnh của gia đình bởi chỉ khi được nuôi dưỡng trong một bầu không khí được tiếp nhận sức sống mãnh liệt của các giá trị truyền thống thì khi lớn lên, đến lượt mình, chính SV mới có đủ năng lực để tiếp tục lưu giữ và phát huy những giá trị đó cho thế hệ mai sau. Đồng thời, các bậc phụ huynh cũng cần cố gắng cập nhật về công nghệ, những xu hướng mới trong xã hội để có sự định hướng tốt hoặc đồng hành cùng con em, hướng họ đến những yếu tố tích cực, hiện đại, lên án phê phán những yếu tố tiêu cực. Tương lai không xa, việc SV xa lạ, đứt gãy với các giá trị truyền thống dân tộc không còn là nguy cơ. Do đó, xây dựng văn hoá gia đình trở nên vô cùng cần thiết để nâng cao hiệu quả giáo dục cho giới trẻ.
3.2. Xây dựng môi trường văn hóa trong các trường đại học
Nhà trường là nơi con người với con người (thầy và trò) cùng hoạt động chiếm lĩnh các mục tiêu văn hóa, theo những cách thức văn hóa, dựa trên những phương tiện văn hóa trong những môi trường văn hóa đặc thù. Nhà trường là nơi bảo tồn và lưu truyền các giá trị văn hóa nhân loại. Nhà trường cũng là nơi đào tạo, rèn luyện những lớp người mới – chủ nhân gìn giữ, sáng tạo văn hóa cho tương lai.
Văn hóa học đường là môi trường để giáo dục và rèn luyện nhân cách con người, đặc biệt là thế hệ trẻ. Nếu môi trường học đường bị xuống cấp thì nhà trường không thực hiện được chức năng truyền tải tri thức, các giá trị, chuNn mực văn hóa đến thế hệ trẻ. Thực tế, nhiều trường đại học chưa quan tâm xây dựng văn hóa học đường, vì vậy những hành vi lệch chuẩn trong trường học có cơ hội phát sinh, nảy nở, trong đó có bạo lực học đường đang là vấn đề quan tâm của ngành giáo dục và của toàn xã hội.
Không chỉ hướng SV đến các giá trị đạo đức, nhà trường, bên cạnh việc đào tạo nghề, còn cần có các kế hoạch cụ thể trang bị các kiến thức nền tảng về văn hoá nghệ thuật cho SV. Phải chăng sự thờ ơ hôm nay của một bộ phận không nhỏ giới trẻ đối với nghệ thuật dân tộc chính là sự phản chiếu thờ ơ của hệ thống giáo dục đối với việc bồi đắp, định hướng giá trị thẩm mỹ; giáo dục đạo đức; chăm lo đời sống văn hóa, tinh thần cho giới trẻ?
Điều quan trọng hơn cả, hãy để tình yêu văn hoá dân tộc tự nó thấm vào hồn các thế hệ, đặc biệt là giới trẻ. Hãy để SV yêu nó theo cách của mình bởi đâu phải cứ luôn ồn ào, luôn nói yêu mới thực là yêu. Trách nhiệm của nhà trường là phải quảng bá, truyền đạt làm sao để họ cũng yêu mến âm nhạc dân tộc như thế và hơn thế; để âm nhạc dân tộc sống và chảy trong huyết quản của họ như tình yêu với tổ tiên, quê hương, nguồn cội; để sau tất cả những cái mới, những ồn ào, họ luôn muốn tìm về sự bình yên, sâu lắng nhất của tâm hồn. Nên tạo sân chơi cho SV có nhiều sự tiếp xúc với nghệ thuật truyền thống. Khi khán giả đến với một loại hình nghệ thuật phải bắt nguồn từ sự yêu mến, luyến nhớ và có thể tìm về ký ức của mình. Hãy làm cho họ chú ý dần dần để họ đến một lúc nào đó, đủ độ trải nghiệm, họ sẽ thích thay vì bằng các biện pháp tuyên truyền, thuyết giảng giáo điều.
Văn hóa nhà trường phải bắt đầu từ các cấp quản lý, lãnh đạo các trường học; sau đó đội ngũ nhà giáo cần coi giáo dục văn hóa là nhân tố quan trọng, từ đó chú trọng hình thành và phát triển nhân cách văn hóa cho học sinh, góp phần thực hiện phong trào “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”.
Vai trò của các đoàn, hội cần được phát huy mạnh mẽ hơn nữa không chỉ mang tính phong trào mà cần đi vào chiều sâu, bài bản, lớp lang bởi văn hoá là thứ thNm thấu, chuyển hoá dần chứ không thể hô hào cổ động là xong. Bên cạnh việc tổ chức các sân chơi văn hoá văn nghệ lành mạnh để SV được sáng tạo, cần có các sinh hoạt chuyên đề về văn hoá như việc mời các diễn giả, các nhà phê bình văn hoá nghệ thuật để tăng vốn hiểu biết về mỹ học cho SV.
3.3. Quản lý văn hóa
Có thể nói, SV ngày nay có nhiều cơ hội tiếp cận, hưởng thụ VHĐC nhưng cũng nảy sinh nhiều hệ luỵ từ việc VHĐC ồ ạt xuất hiện trên mọi diễn đàn, mọi phương diện sống. Người ta cố gắng lí giải điều đó, nhưng có thể quy về 3 nguyên nhân: (1) sự xuất hiện xã hội tiêu dùng dẫn đến cuộc đua về tiêu dùng; (2) sự ra đời xã hội giải trí dẫn đến cuộc đua thoả mãn cảm xúc vui vẻ, giải trí; (3) sự phát triển nhanh của xã hội truyền thông với cuộc chạy đua về kết nối bạn bè, cộng đồng cùng sở thích, cùng đam mê.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, xã hội hiện đại đem đến những lo âu và bấp bênh khi những đổi thay ồ ạt đang diễn ra trên toàn thế giới, bao gồm trong nó cả sự mơ hồ do không hề có những chuNn mực nhất định nào cho những thay đổi này. Đây là những khó khăn mà thế hệ trẻ phải đối mặt trong quá trình xây dựng bản sắc cho riêng mình, những bản sắc đang trong giai đoạn định hình, vụn vặt, rời rạc, thậm chí chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Quá trình này đòi hỏi SV phải luôn tỉnh táo, độc lập, làm chủ được những mối quan hệ cũng như tương lai của bản thân. SV ngày nay dường như phải đối mặt với rất nhiều khó khăn. Những định kiến dựa vào văn hoá truyền thống do vậy sẽ chỉ làm tăng thêm nơi họ sự mơ hồ vốn có. Văn hoá giới trẻ là một thực tế xã hội cần được công nhận. SV rất năng động và luôn nỗ lực hết sức để khẳng định mình. Xã hội cần khuyến khích điều đó cũng như đồng hành, chấp nhận những thách thức cùng họ. Sự cởi mở, tôn trọng, khách quan là rất cần thiết trong việc hỗ trợ thế hệ trẻ chọn lựa hướng đi trong tương lai.
Để nâng cao khả năng tiếp nhận VHĐC của SV, các cơ quan quản lý văn hoá cần thực sự quan tâm tới việc đề ra các thiết chế cho SV: (1) tạo cho SV các không gian vui chơi giải trí lành mạnh. Hiện nay, không gian phục vụ việc vui chơi, giải trí dành riêng cho SV còn thiếu và yếu, nhất là không gian ngoài trời. Cần có sự nhận thức đầy đủ và kịp thời của các cấp chính quyền về việc định hướng sự tiếp nhận VHĐC cho SV quan các hoạt động tuyên truyền, định hướng, tạo cho SV không gian sáng tạo để SV có bản lĩnh, có năng lực tiếp nhận các sản phẩm VHĐC có chất lượng, loại bỏ những sản phẩm yếu kém, phản văn hoá.
Có thể tổ chức các hoạt động văn hoá văn nghệ tại địa bàn cư trú để tạo sân chơi lành mạnh, tăng cường giao lưu, kết nối thế hệ cho SV, thông qua đó lồng ghép các thông điệp, các giá trị văn hoá; (2) xiết chặt công tác quản lý, xét duyệt các sản phẩm VHĐC từ bên ngoài. Thực tế, nhiều sản phẩm được nhập lậu với nội dung phản văn hoá vẫn tràn lan trên thị trường, vô tư xuất hiện trên giảng đường, cantin, kí túc xá, phòng trọ…
Đặc biệt, vấn đề quản lý các sản phẩm văn hoá trên truyền thông cần phải làm một cách bài bản, mạnh tay bởi đây là môi trường tiềm ẩn nhiều nguy cơ không lành mạnh nhất đến SV. Không nên phó thác việc giáo dục SV cho nhà trường hoặc các hoạt động vui chơi của họ cho các hội, đoàn. SV đã là công dân, họ có quyền lợi và trách nhiệm ngang nhau với các đối tượng khác trong xã hội. Do đó, các cấp, các ngành, các nhà quản lý văn hoá cần quan tâm hơn nữa tới SV thay vì trông cậy vào sự giáo dục của nhà trường và các đoàn, hội; (3) truyền thông cần đưa nhiều gương người tốt việc tốt, cần có những tấm gương SV truyền cảm hứng cho cộng đồng. Bên cạnh đó, các bình luận của các chuyên gia văn hoá, nghệ thuật cần được đưa tới gần hơn với SV bằng những cách dễ tiếp nhận nhất như lồng ghép trong các buổi ngoại khoá, tập huấn hoặc các mà trình diễn của SV.
3.4. Tự giáo dục của sinh viên
Muốn xây dựng con người có tri thức, có văn hoá thì quan trọng nhất là việc chính con người tự giáo dục. Nhà trường hay gia đình chỉ đóng vai trò định hướng, hỗ trợ sự phát triển mỗi cá nhân. Cái gốc của trí tuệ vẫn là do con người tự nhận thức, tự khai sáng và tự lĩnh hội. Khi SV tự nhận thức được suy nghĩ của mình là đúng hay sai thì sẽ dẫn đến hành động và lời nói tuân theo sự đúng – sai của tư duy ấy. Từ đó mới hình thành nên thế hệ SV nhân văn, sống trách nhiệm và sáng tạo.
SV cần chủ động học cho mình, vì tri thức, kỹ năng và những ứng xử cần thiết trong nghề nghiệp sau này, học để suy nghĩ, tìm tòi và tự xác định những giá trị có thể sống chết vì nó, chứ không thụ động “làm theo thiên hạ” hay theo sắp đặt của mẹ cha với tâm lý ỷ lại… Là thể hiện khí phách tuổi hai mươi, “giữa đường thấy chuyện bất bằng chẳng tha” thay vì đổ thừa thế hệ đi trước về mọi điều mình chưa làm được…
Nếu SV tự chủ, tự giáo dục mình thành người công dân có trách nhiệm, thì việc nâng cao năng lực thẩm mỹ để tiếp nhận VHĐC sẽ mang lại hiệu quả. Giáo dục, như ý nghĩa ngàn đời giản dị của nó, trước hết là tự giáo dục, để nên người.
Ở thời đại trình độ nhận thức đã có bước phát triển cao, tiếp nhận – biến đổi văn hóa cũng không còn ở trong tình trạng tự phát mà đã trở thành hành vi tự ý thức của con người, trở thành xu thế tất yếu đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa của mọi dân tộc. Do vậy, việc xử lý các vấn đề liên quan tiếp nhận – biến đổi văn hóa cũng cần phải được quy chiếu từ nhãn quan của hành vi tự ý thức, phải trở thành bộ phận của một hoạch định văn hóa có ý nghĩa chiến lược và lâu dài. Như vậy, nếu các cơ quan tổ chức, lãnh đạo văn hóa có vai trò quan trọng về mặt xã hội, thì mỗi SV cũng giữ vai trò không kém, bởi con người chính là chủ nhân của văn hóa, là chủ thể của mọi sáng tạo văn hóa và do đó, xây dựng văn hóa phải bắt đầu từ xây dựng con người văn hóa.
Bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, SV đứng trước nhiều lựa chọn để thỏa mãn đời sống tinh thần và xác lập hệ giá trị cho riêng mình. Do đó, bản thân SV phải tích cực, chủ động trau dồi tri thức, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ của mình để thông qua việc tiếp nhận VHĐC, hoàn thiện nhân cách, gìn giữ được vốn văn hóa dân tộc và hội nhập sâu rộng với bạn bè quốc tế.
4. Kết luận
VHĐC đã trở thành nhịp sống quen thuộc, gần gũi của SV trong bối cảnh hội nhập quốc tế. SV đã chủ động tiếp nhận các yếu tố mới lạ, hấp dẫn của VHĐC để khẳng định cái tôi, khẳng định bản ngã. Trong việc định hình phong cách, xác lập giá trị riêng của SV, VHĐC can dự phần lớn vào việc ấy. Nó giúp SV hoàn thiện nhân cách, chuẩn bị hành trang lập nghiệp. Tiếp nhận VHĐC của SV có nhiều thuận lợi bởi mức độ đậm đặc các sản phẩm VHĐC vây quanh cuộc sống của họ, nhưng kèm theo đó cũng có vô số thách thức khi họ bị lạc lối giữa mê cung của chính những sản phẩm tốt – xấu lẫn lộn. Chính vì thế, nhà trường, gia đình, xã hội cần quan tâm, định hướng cho SV để họ nhận thức được ngay cả trong việc giải trí, cũng phải chọn lọc những sản phẩm lành mạnh, phù hợp để nâng cao năng lực thNm mỹ, góp phần lành mạnh hoá lối sống cho SV. Đồng thời, chính bản thân SV cũng phải ý thức tự trau dồi vốn văn hoá để nâng cao khả năng tiếp nhận VHĐC.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Clotaire Rapaille (2017), Mật mã văn hoá, Nxb Lao động, Hà Nội.
[2] Edward Wadie Said (2015) Văn hoá và Chủ nghĩa bá quyền, Nxb Tri thức, Hà Nội.
[3] Đặng Cảnh Khanh (2006), Xã hội học thanh niên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Nguyễn Văn Kim (Chủ biên) (2017), Tiếp biến và hội nhập văn hoá ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[5] Nguyễn Trường Lịch (2012), “Giao lưu và tiếp nhận văn hóa thời hội nhập”, Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (205), 2.
[6] Mai Quỳnh Nam (2000), “Văn hóa đại chúng và văn hóa gia đình”, Tạp chí Khoa học xã hội, số 4 (72).
[7] Hữu Ngọc (2015), Hồ sơ văn hoá Mỹ, Nxb Thông tin và Truyền thông, Hà Nội.
Nguồn: Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 11 – 2019.
Ảnh đại diện: Ứng Dụng Đèn LED Trong Biểu Diễn Nghệ Thuật –
Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com) thiết lập.
Nguồn ảnh: http://hoabinhevents.com/