Tín ngưỡng của người H’mông ở Việt Nam (Phần 2)
NGUYỄN THỊ SONG HÀ1 , VÕ THỊ MAI PHƯƠNG2
(1 Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
2 Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam)
5. Tín ngưỡng liên quan đến chu kỳ đời người
Người H’mông theo văn hóa truyền thống có quan niệm rằng, các gia đình có nhiều con cái, có con trai hay con gái, đều do ông bà, tổ tiên phù hộ ban cho. Chính vì vậy, trong cuộc sống hàng ngày, họ có nhiều tín ngưỡng liên quan đến điều đó. Chẳng hạn như, trường hợp trong gia đình có phụ nữ mang thai mà có người thân trong gia đình mất, người mang thai muốn chịu tang phải nín hơi cài một đôi đũa cả ở sau lưng để cho không bị sẩy thai (bởi theo quan niệm của đồng bào, đôi đũa là xương sống của con người…). Người H’mông rất tin vào các hệ thống thần linh, đặc biệt vào các loại ma, do đó khi người phụ nữ trong quá trình mang thai, nếu bị ốm, thường làm nghi thức cúng ma nhà. Nếu đứa trẻ được sinh ra là con trai thì gia đình lấy cuống rốn của đứa trẻ quấn vào giấy bản và đem chôn vào cột ma chính trong nhà (người H’mông quan niệm đứa trẻ sinh ra là con trai thì được coi là trụ cột trong gia đình, sau này sẽ được giữ lại toàn bộ tài sản của gia đình). Nếu đứa trẻ sinh ra là con gái, thì cuống rốn được chôn ở gầm giường của người mẹ (người H’mông quan niệm con gái là người nuôi dạy con cái và nội trợ trong gia đình). Người H’mông quy định, nơi đẻ của phụ nữ là bên cạnh bếp lửa của gia đình, không được phép sinh con ở nơi khác, đặc biệt là ở nhà người khác. Bởi như vậy, ma nhà, ma buồng và tổ tiên sẽ phật lòng và không phù hộ cho thai phụ và đứa trẻ. Khi trong gia đình có người đang sinh nở, người chồng phải đi chặt một số cành cây treo vào tất cả các cửa ra vào của ngôi nhà để báo hiệu cho những người lạ, người ngoài dòng họ không vào nhà lúc này (họ quan niệm sẽ không tốt cho sản phụ và đứa trẻ, ma làm hại sẽ rất có thể theo người lạ vào bắt linh hồn của đứa trẻ) [3].
Người H’mông quan niệm rằng, khi sinh ra, đứa trẻ chưa có linh hồn và linh hồn sẽ được tồn tại trong cơ thể của đứa trẻ sau khi gia đình làm lễ gọi hồn về. Vì thế người H’mông quy định sau 3 ngày, gia đình phải tổ chức làm lễ gọi hồn (hu plì) cho trẻ, nghi lễ này chính thức thông báo sự ra đời của một thành viên mới trong xã hội. Từ sáng sớm, khi mặt trời chưa mọc, gia đình tổ chức lễ gọi hồn cho đứa trẻ. Việc gọi hồn cho đứa trẻ có ý khẳng định từ nay trở đi, đứa bé là thành viên trong gia đình. Trong buổi lễ, ông bà đeo chiếc vòng cổ bạc trắng và mặc chiếc áo sơ sinh với ý nghĩa làm khoá giữ hồn đứa trẻ ở lại với bố mẹ, anh chị, ông bà, không cho hồn đi lang thang, sẽ gây ốm đau bệnh tật.
Phong tục, tập quán của người H’mông trong hôn nhân chứa đựng nhiều đặc điểm văn hóa đặc trưng của tộc người, bên cạnh các đặc điểm tương đồng thì có sự khác biệt giữa các nhóm H’mông khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản trong đám cưới có các nghi lễ sau.
Kéo vợ (háy pù) là một tập quán mang tính đặc trưng của văn hóa trong hôn nhân của người H’mông. Thông thường, khi đôi trai gái đã tìm hiểu và yêu nhau được một thời gian, sẽ hẹn ngày cũng như địa điểm để nhà trai tổ chức kéo về làm vợ. Việc kéo vợ được thực hiện khi có sự thống nhất từ cả hai bên gia đình. Chàng trai trước khi đi kéo vợ phải thưa chuyện với bố mẹ, nếu bố mẹ nhất trí với cô gái mà chàng trai chọn thì sẽ cho phép chàng trai kéo về. Trường hợp hai người thích nhau thì việc tổ chức kéo vợ sẽ chỉ là thủ tục, khi nhà trai tổ chức kéo vợ, cô gái thích chàng trai nhưng phải giả bộ không thích, bằng cách làm động tác giằng co với đoàn kéo vợ bên nhà trai.
Về việc thông báo (thông su), sau khi kéo dâu về, nhà trai cử người đến báo cho nhà gái về việc bắt dâu. Theo phong tục, tập quán, buổi sáng sau hôm kéo vợ, nhà trai mổ gà làm bữa cơm mời anh em trong họ để thông báo gia đình đã kéo được vợ về nhà cho con trai.
Về lễ dạm hỏi (mủ mua), sau 3 ngày từ khi kéo vợ về nhà, gia đình nhà trai phải sang nhà gái làm lễ hỏi dâu. Trong văn hóa truyền thống của người H’mông thường có một ông mối đi cùng gia đình nhà trai và thực hiện các nghi thức cần thiết và trong nghi thức này bắt buộc phải có cặp bánh dày.
Về lễ cưới (nò chông), ở các tỉnh miền núi phía Bắc, người H’mông thường tổ chức đám cưới vào các tháng 10, 11,12 và tháng 1, 2 âm lịch hàng năm, khi mùa màng đã thu hoạch xong, thóc, ngô đã đầy nhà. Đám cưới truyền thống của người H’mông thường được tổ chức trong 3 ngày, hai ngày ở nhà trai và một ngày ở nhà gái. Theo quan niệm người H’mông, ngày đẹp được chọn để làm lễ cưới là “đi mồng 1 về mồng 2” âm lịch, hay “đi ngày con chuột về ngày con trâu”. Có nghĩa là, đi ngày lẻ về ngày chẵn hay đi một về hai, đi nhỏ về to. Điều đó thể hiện mong muốn một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, đầy đủ và phát triển.
Có lẽ, đối với bất cứ một tộc người nào cũng vậy, tang ma thể hiện rõ nhất đặc trưng văn hóa của tộc người, nó thể hiện được các giá trị văn hóa, lịch sử, giáo dục, tâm linh và có nhiều nghi thức phức tạp nhất. Trong nghi thức tang ma của người H’mông, các giá trị nhân sinh quan, vũ trụ quan và văn hóa truyền thống được bộc lộ một cách sâu sắc thông qua cách ứng xử của người sống đối với người chết. Nghi lễ tang ma của người H’mông có một số nghi thức mang tính đặc trưng văn hóa và liên quan đến tín ngưỡng của cộng đồng như:
Nghi lễ đuổi giặc ma được tiến hành mỗi ngày 3 lần (sáng, trưa, chiều). Để thực hiện nghi lễ này phải có từ 5 đến 7 người, chạy xung quanh nhà 7 vòng đi và 7 vòng về (nếu người chết là nam), 9 vòng đi và 9 vòng về (nếu người chết là nữ). Mỗi lần đội chạy đến cửa chính, cửa phụ, người ta thổi lên 3 hồi tù và, đâm mác, chém đai đao, phang phạt kiếm; thầy đánh trống đánh từng hồi; thầy khèn trong nhà cũng vừa thổi, vừa nhảy, vừa chạy. Điều đó gây không khí náo động tượng trưng cho việc chiến đấu, đuổi giặc ma đến quấy rối hồn người chết; đồng thời cũng là sự mô phỏng việc tổ tiên, cha ông người H’mông xưa kia khi còn sống luôn bị giặc đánh phá cướp nước, cướp đất, bị giết chóc,…
Trong đám ma người H’mông bắt buộc phải có nghi thức thổi kèn, nếu không thì linh hồn người chết không về được với tổ tiên. Một nghi lễ thổi khèn đầy đủ gồm: bài khèn tắt thở (kễnh tu sía); bài khèn dỡ chỗ ngủ (kềnh dờ lán – zơưk lar) dành cho những người đau ốm lâu ngày; bài khèn lên ngựa (tra nềnh); bài khèn tra trò; bài khèn hu gầu; bài khèn bữa sáng, trưa, tối (kềnh yail, kềnh xu, kềnh hmo); bài khèn lỏ xá lỏ hmo (nống txư); bài khèn chào đón (to khùa) những người đến phúng viếng; bài khèn đến thăm người chết (kênh sùa sâu – shuôs sâu); bài khèn đốt giấy (kềnh lớ tớ – hlơưr ntơưr); bài khèn đưa người chết ra ngoài (yưv yar); bài khèn lên đường (sớ cế).
Trước khi đem đi chôn, người chết được đặt nằm trên chiếc sàn làm sẵn ngoài bãi trống. Xung quanh chỗ đặt người chết, người ta cắm lá xanh, phía trên có giàn che sương che nắng. Tại đây, nghi lễ chính là dâng hiến các lễ vật cho người chết. Đây là các lễ vật do con cái trong gia đình mua để dành cho người chết. Ông trưởng tang chủ làm lễ dâng hiến từng con vật. Ông buộc một sợi dây từ quan tài nối với con vật được dâng tế6, đọc bài tế, rồi cứ thế lần lượt mổ từng con vật; đồng thời, con cháu, người thân khóc lóc, trống được gõ liên hồi, người thổi khèn vừa thổi, vừa nhảy vòng quanh người chết. Trong văn hóa truyền thống, lễ vật dành cho người chết mà con cháu phải chuẩn bị có giá trị tài sản rất lớn (thường là bò, lợn, dê…). Vì thế, người chết gây không ít khó khăn, tốn kém và vất
vả cho người sống.
Lễ cúng ma bò (nhùx đá) hay là lễ ma khô. Khi nào các con của người chết có điều kiện nuôi được bò hoặc có tiền mua bò thì bắt đầu làm lễ ma bò cho bố mẹ. Cách thức làm cũng tương tự như làm lễ thả hồn và lễ cúng ma buồng, nhưng con cháu thường không khóc, lễ vật là 1 con bò to hay nhỏ tuỳ ý. Lễ này có thể còn được tổ chức do bố hoặc mẹ đã chết về đòi con cháu cho bò (thông qua việc con cháu trong gia đình có người ốm yếu, hoặc nằm mơ, hoặc do thầy mo, thầy cúng xem trúng thì cũng phải làm ma bò).
6. Tín ngưỡng thờ cúng nông nghiệp
Lễ cơm mới (nào mó dầy tra) thường được tiến hành sau khi đã thu hoạch lúa, để tỏ lòng biết ơn tổ tiên đã phù hộ có được một vụ mùa bội thu, và để mời tổ tiên thưởng thức bát cơm mới, cầu mong tổ tiên phù hộ mùa màng năm sau được tươi tốt. Lễ cơm mới được thực hiện trong phạm vi gia đình. Trong lễ cơm mới, các gia đình phải nấu cơm bằng gạo mới và thịt gà. Ông chủ gia đình đặt đồ lễ lên bàn thờ tổ tiên, mời tổ tiên và các loại ma nhà ăn trước. Sau đó, các thành viên trong gia đình mới được hưởng.
Lễ ngô mới (ngó pak cù tra) được tổ chức đơn giản hơn lễ cơm mới, trước khi ăn đến loạt ngô mới thu hoạch. Ở đó, người H’mông luộc ngô chín, đặt lên nơi thờ tổ tiên để mời tổ tiên ăn trước. Đồng thời, đây cũng là hình thức tạ ơn tổ tiên đã phù trợ cho một mùa màng bội thu và cầu khấn tổ tiên tiếp tục phù hộ cho mùa sau được nhiều và không bị sâu bệnh phá hoại.
Lễ cúng nương (pảu tê) (hay còn gọi là lễ cúng “trả nương”) là một hình thức cúng cho thổ công, thổ địa, thần nương, thần rừng. Khi nương lúa, nương ngô hay những cây trồng của gia đình có hiện tượng sâu bệnh, mọc không đều, hay trong một nương có cây sống, cây chết, người H’mông thường thực hiện nghi lễ thương lượng với các vị thần ở nương. Sau khi thu hoạch, gia đình đó chuẩn bị lễ vật đúng như đã hứa để trả công cho thần nương.
7. Tín ngưỡng liên quan đến lễ hội
Tết truyền thống của người H’mông có thời gian trùng vào Tết dương lịch. Tết là dịp để cảm tạ tổ tiên, thần linh và đón chào năm mới. Trong những ngày Tết, các gia đình đốt củi, giữ bếp đỏ lửa liên tục để vừa giữ ấm, vừa xua đuổi tà ma và cầu mong bình an, may mắn. Các đồ vật trong nhà (như cuốc, thuổng, dao, rựa…) được dán giấy để xua đuổi tà ma và cầu mong may mắn, tốt lành. Trong ngày này, các gia đình người H’mông soạn sửa, trang trí lại nhà cửa, bàn thờ tổ tiên. Đây cũng là dịp các chàng trai, cô gái người H’mông được tham gia các lễ hội của cộng đồng như ném pao, bắn nỏ, kéo co, múa khèn, đẩy gậy…
Lễ nào sồng là một trong những lễ hội quan trọng của người H’mông. Lễ này được tổ chức đầu năm trong cộng đồng để cúng thần rừng và thống nhất những quy định của làng bản để thực hiện trong năm, thường được người H’mông tổ chức vào tháng giêng hoặc tháng 10 âm. Trong lễ đó, trước thần linh, các thành viên nam trong cộng đồng người H’mông sẽ cam kết với nhau về việc bảo vệ mùa màng, gia súc, rừng cấm trên cơ sở của tình đoàn kết.
Lễ hội gầu tào được coi là một trong những lễ hội tiêu biểu nhất của người H’mông. Lễ hội này được tổ chức vào mùa xuân, vừa mang ý nghĩa mừng một năm lao động, cầu sức khỏe, cầu sinh sôi nảy nở, vừa là sinh hoạt văn hóa của cộng đồng. Hội gầu tào gồm hai phần chính: phần lễ và phần hội. Phần nghi lễ bắt đầu bằng lễ dựng cây nêu nhằm thông báo nơi mở hội. Khi cây nêu đã dựng xong, dân bản dâng cúng một mâm lễ để báo cáo với cúng thần linh và tổ tiên, trời đất mở hội gầu tào. Lễ vật gồm có thủ lợn, xôi, rượu… Tại lễ hội này, dân làng xin dâng hiến các vị thần một con vật bốn chân, cơm xôi, rượu ngô và tiền vàng, tiền bạc; mời các vị đến nhận rồi phù hộ cho dân làng (có con cái khoẻ mạnh, học giỏi, làm ăn khấm khá, mùa màng tốt tươi, con cái trong gia đình thuận hòa…). Sau phần “lễ” là phần “hội” với các trò chơi dân gian, đàn hát “gầu plềnh”. Từ ý nghĩa ban đầu (là lễ tạ ơn chúc cho nhiều con nhiều cháu, mang màu sắc tôn giáo), gầu tào trở thành lễ hội trổ tài và giao duyên của nam nữ H’mông [5, tr.155].
8. Kết luận
Tín ngưỡng của cộng đồng người H’mông ở Việt Nam khá đa dạng, chứa đựng nhiều giá trị văn hóa. Tuy nhiên, trong thời gian qua, một bộ phận người H’mông chuyển đổi từ tín ngưỡng truyền thống sang đạo Tin Lành. Đang có sự chuyển biến lớn trong nhận thức của một bộ phận cộng đồng người H’mông về niềm tin, tín ngưỡng; và điều này đã tác động đến và chi phối các sinh hoạt thường ngày của họ. Điểm nhận thấy đầu tiên trong sự biển đổi tín ngưỡng tôn giáo của người H’mông theo Tin Lành là sự thay đổi từ việc tin, việc thờ nhiều ma sang việc chỉ tin, chỉ thờ Chúa Giê-su. Văn hóa H’mông theo Tin Lành có sự đối lập với văn hóa H’mông truyền thống, vì một bên tin vào Chúa, một bên tin vào ma. Việc đặt niềm tin vào Chúa hay ma sẽ tác động đến cách thực hành nghi lễ, cách thức ứng xử khác nhau. Theo đạo Tin Lành, linh hồn khi chết đi là về với Chúa, được Chúa che chở, chính vì vậy, việc thờ cúng tổ tiên đã bị xóa bỏ, thay vào đó là việc cầu nguyện theo nghi thức tôn giáo. Cũng như vậy, quan niệm về các loại ma và các hình thức cúng ma của người H’mông theo Tin Lành đã không còn; tất cả chỉ tập trung vào Chúa, chỉ có Chúa hiện diện trong tâm linh và niềm tin tôn giáo mới; Chúa đã chiếm một vị trí độc tôn với quyền năng vô hạn đối với niềm tin của họ [9]. Mối liên hệ với Chúa được duy trì hàng ngày (cầu nguyện trước bữa ăn), dần thấm sâu vào trong tâm thức người H’mông. Niềm tin tôn giáo của người H’mông đối với đạo Tin Lành còn được thể hiện thông qua hệ thống giáo lý, khuyên răn con người sống lương thiện, thương yêu và có trách nhiệm với bố mẹ và gia đình, từ bỏ những việc làm không tốt như không uống rượu, đánh nhau… Niềm tin đó được hiện thực hóa thông qua các bài kinh. Các nghi thức trong sinh hoạt tâm linh cũng biến đổi sang nghi lễ tôn giáo. Các nghi lễ liên quan tới chu kỳ đời người đều cắt bỏ, hoặc được tổ chức đơn giản bằng việc cầu nguyện với sự chứng giám của Chúa và có sự giúp đỡ của Mục sư hay Trưởng nhóm. Các nghi thức thờ cúng nông nghiệp vẫn có thể tiến hành, song có sự thay đổi về hình thức thực hiện, đối tượng tạ ơn chuyển từ tổ tiên sang Thiên Chúa. Người H’mông theo đạo Tin Lành không lập bàn thờ, không thực hiện các ngày giỗ. Đặc biệt, người H’mông theo Tin Lành rất hào hứng tổ chức và tham gia các ngày lễ quan trọng của tôn giáo như ngày Giáng sinh, Phục sinh.
Cộng đồng người H’mông theo Tin Lành hầu như không còn tham dự những lễ hội truyền thống, mà thay vào đó, họ đến cầu nguyện tập thể tại các nhà nguyện của điểm nhóm và tham dự các ngày lễ quan trọng của tôn giáo. Đây cũng là lý do tạo ra khoảng cách giữa những người theo đạo và người không theo đạo, ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa cộng đồng người H’mông. Đối với những người H’mông không theo đạo Tin Lành, họ khó chấp nhận được việc không tham gia các lễ hội truyền thống của dân tộc mình, cho rằng như thế sẽ làm phai nhạt đi bản sắc văn hóa của dân tộc, không tôn trọng văn hóa truyền thống. Trong các lễ hội truyền thống người H’mông thường sử dụng khèn. Khèn là một trong những phương tiện để người H’mông giao tiếp với ông bà tổ tiên, với các ma. Còn theo Tin Lành là theo Chúa, tin vào Chúa; không tin vào ma nhà, chính vì vậy người H’mông theo tin lành ít hoặc không tham dự các lễ hội truyền thống [9].
Trong lịch sử phát triển của dân tộc, những tín ngưỡng văn hóa của người H’mông cũng đã có nhiều thay đổi về quan niệm, thực hành nghi lễ, các lễ vật để thích ứng với môi trường và điều kiện sống mới. Song nhiều giá trị văn hóa đặc trưng mang tính cốt lõi tạo nên bản sắc văn hóa của tộc người vẫn được bảo lưu, gìn giữ.
Từ thực tiễn nêu trên, có nhiều vấn đề đặt ra cho các cơ quan chức năng từ trung ương tới địa phương trong nghiên cứu, tham mưu với Đảng, Nhà nước (để ban hành những chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với đặc điểm, tình hình dân tộc H’mông). Trong đó, cần có chính sách bảo tồn, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa tốt đẹp, đặc sắc, và loại bỏ dần những phong tục, tập quán không còn phù hợp trong xã hội hiện tại, đáp ứng được nhu cầu văn hóa, tinh thần, tín ngưỡng, tâm linh của đồng bào. Đồng thời, cần tuyên truyền để người H’mông không bị ảnh hưởng tư tưởng của các thế lực thù địch, chống phá công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay.
Chú thích
3 Bài báo được sự tài trợ của đề tài cấp nhà nước: Biến đổi văn hóa của các dân tộc thiểu số – những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời gian tới, Mã số: CTDT 11.17/16-20.
4 Họ Vàng tại Ý Linh Hồ (xã San Sả Hồ, thị trấn Sa Pa, Lào Cai) vẫn có bàn thờ tổ tiên. Bàn thờ tổ tiên của họ Vàng ở Sa Pa là 2 tờ giấy đỏ dán ngang hàng và trên 2 tờ giấy bản lớn. Bàn thờ có một bát hương lớn, 3 chiếc chén và một bát gạo. Nếu bàn thờ thờ bao nhiêu người thì khi thắp hương phải để lên bát gạo bấy nhiêu quả trứng.
5 Nếu nhìn vào từng ngôi mộ, có thể biết được người chết thuộc dòng họ nào. Ví dụ, dòng họ Sùng cúng chim, mộ không có cửa, xếp đá ở chân mộ, mộ đàn ông có 4 hoặc 6 viên, mộ đàn bà là 3, 5, hoặc 7 viên. Họ Sùng cúng gà, mộ không có cửa, xếp đa chân mộ, mộ đàn ông là 5 viên, mộ đàn bà có 7 viên theo quy định, hoặc có bia mộ. Đối với họ Vừ mộ không có cửa, xếp 3 hàng đá xung quanh, mộ đàn ông chôn bên phải, mộ đàn bà chôn bên trái và thụt lui sau mộ đàn ông một chút.
6 Trước đây, người chết được đặt trên cáng để khiêng ra huyệt và quan tài được ghép sẵn dưới huyệt, nên người ta buộc sợi dây vào tay người chết nối với con vật dâng tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Bế Viết Đẳng (1984), Dân tộc Mèo trong Các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (các tỉnh miền núi phía Bắc), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[2] Nguyễn Thị Song Hà, Hồ Xuân Định (2014), “Nghi lễ trong chu kỳ đời người của người H’mông”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 2.
[3] Nguyễn Thị Song Hà (2016), “Tập quán, nghi lễ sinh đẻ và chăm sóc trẻ nhỏ hiện nay của người H’mông từ Tây Bắc di cư vào Đắk Lắk”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 4.
[4] Hoàng Xuân Lương (2000), Văn hoá người H’mông ở Nghệ An, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
[5] Võ Thị Mai Phương (2017), Biến đổi văn hóa tinh thần của người H’mông di cư ở Đắk Lắk, Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
[6] Vương Duy Quang (1987), “Quan hệ dòng họ trong xã hội người H’mông”, Tạp chí Dân tộc học, số 2.
[7] Tổng cục Thống kê (1979), Quyết định số 121- TCTK/PPCĐ ngày 2/3/1979, Danh mục thành phần dân tộc Việt Nam, Hà Nội.
[8] Biến đổi văn hóa của các dân tộc thiểu số – những vấn đề đặt ra và giải pháp trong thời gian tới, Tư liệu phỏng vấn sâu của đề tài cấp nhà nước CTDT 11.17/16-20, (2017), Hà Nội.
[9] Nguyễn Quỳnh Trâm (2016), Văn hóa của người H’mông theo Đạo Tin Lành ở Lào Cai, Luận án tiến sĩ Nhân học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
[10] Trần Hữu Sơn (1995), Đời sống văn hoá tinh thần người H’mông ở Lào Cai (Truyền thống và hiện đại), Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Lịch sử, Hà Nội.
[11] Trần Hữu Sơn (1996), Văn hoá H’mông, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
[12] Mua Hồng Sinh (2016), Tang ma dòng họ Giàng người H mông Trắng xã Sủng Trà, huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang, Luận văn thạc sĩ Dân tộc học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội.
[13] Cư Hoà Vần, Hoàng Nam (1994), Dân tộc Mông ở Việt Nam, Nxb Văn hoá dân tộc, Hà Nội.
Nguồn: Khoa học xã hội Việt Nam, số 1 – 2019
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)