Tín ngưỡng thờ cá Voi của ngư dân Thanh Hoá thời Nguyễn

Tác giả bài viết: Thạc sĩ HOÀNG MINH TƯỜNG
(Sở Thông tin – Truyền thông Thanh Hóa)

     Xứ Thanh, Tống Sơn là đất quý hương của vương triều nhà Nguyễn, miền đất ấy là nơi phát tích đồng thời cũng lưu lại nhiều dấu ấn sâu sắc về triều đại này, một trong những dấu ấn đó là tín ngưỡng thờ cá Voi – cá Ông của ngư dân các làng chài ven biển tỉnh Thanh.

     Cũng như cư dân Việt cổ tỉnh Thanh, Gia Miêu ngoại trang nằm trong không gian địa – lịch sử – văn hóa của văn hóa Đa Bút (Vĩnh Lộc), Cồn Cổ Ngựa (Hà Trung), Hoa Lộc, Gò Trũng (Hậu Lộc). Từ xa x-a những người tối cổ đã cư trú ở vùng núi rồi theo dòng sông Mã tiến xuống đồng bằng và tràn xống biển chiếm lĩnh biển khơi, vì vậy, trong tâm thức của họ, yếu tố sông nước và sau này là biển luôn tác động và ảnh hưởng lớn trong đời sống vật chất và tinh thần của cư dân sinh sống trên đôi bờ của Mã Giang lắm thác nhiều ghềnh.

     Tục thờ cá trên đất tỉnh Thanh không hiếm gặp. Vào thời Lý, Lý Thái Tổ (1010 – 1028) thân chinh đem quân đi đánh dẹp ở Ái Châu. Thần tích đền Ngu Giang ở làng Yên Vực, Hoằng Long cho biết: “ Thuyền từ cửa bể vào sông Ngu qua sông Mã thì bị mắc cạn. Vua đứng ở đầu mũi thuyền cầu thủy thần giúp đỡ. Chợt thấy một con cá lớn quẫy qua mũi thuyền, nước dềnh lên, thuyền thoát nạn. Vua cho là sự lạ, sai lập đền thờ”. Đối diện với làng Yên Vực là làng Tào Xuyên cũng có ngôi đền thờ vị thủy thần này. Ở làng Nhân Cao, xã Thiệu Quang, huyện Thiệu Hóa cũng có nghè thờ Chàng Vược Đại Vương. Chàng Vược Đại Vương chính là Thần Cá Vược đã giúp thuyền rồng vua Lê Hiển Tông (1740) vượt qua sông Mã trong khi nước sông cuồn cuộn, sấm ran chớp giật lênh đênh chiếc thuyền nhỏ giữa dòng sóng xô, nước xoáy. Vùng Nông Cống, ở xã Trung Chính, Trung Thành và cư dân bên bờ sông Lãng x-a có lệ đánh cá thờ thần sau ba tháng tết.

     Tục thờ cá rồi sau đó là thờ cá Voi có từ lâu đời gắn với cư dân sông nước làm nghề chài lưới ở Bắc bộ nói chung, xứ Thanh nói riêng. Theo cố GS Trần Quốc Vượng “trong thế giới tâm linh Đông Hải Đại Vương với hàng trăm đền thờ Nguyên lai đấy là đền thờ cá ông voi của ngư dân và cư dân ven biển, sau đời Lý sang nhà Trần thì thần Đông Hải Hải Đông đã được nhân cách hóa và hóa thân vào một nhân vật lịch sử có thật đó là tướng quân Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng”. Theo sách Thanh Hóa chư thần lục, tỉnh Thanh Hóa có tới 8 làng thờ Đông Hải Đại Vương Đoàn Thượng với khởi nguyên là thờ cá Voi.

     Gia Miêu ngoại trang cư trú bên bờ bắc sông Mã. Dấu ấn sông nước và tín ngưỡng thờ cá chắc chắn đã có ảnh hưởng nhất định đối với dòng họ này nói riêng cũng như cư dân Tống Sơn xưa nói chung. Năm 1558 giong buồm “ mang gươm đi mở cõi ở xứ Đàng Trong”, Nguyễn Hoàng và hậu duệ của ông luôn mang theo trong tâm thức của mình về dòng sông tâm linh và tín ngưỡng thờ cá này.

     Chính con sông Mã lắm thác ghềnh hùng vĩ đã nuôi lớn vóc dáng tâm hồn và khí phách của biết bao thế hệ người xứ Thanh nên đã được các vị vua triều Nguyễn cho khắc hình dòng sông thiêng liêng lên một trong số cửu đỉnh và đặt trang trọng ở Đại nội Huế.

     Cá voi là loại cá cứu người lâm nạn trên biển. Theo Quốc sử quán triều Nguyễn thì: “Cá voi có tục danh là cá Ông Voi, đầu tròn, nơi trán có lỗ phun nước ra, sắc đen trơn láng, không có vảy, đuôi có hai chĩa như đuôi tôm, có tánh từ thiện, hay giải cứu cho người khi qua biển mắc nạn. Đầu niên hiệu Minh Mạng, vua đặt tên là Nhân Ngư, đầu niên hiệu Tự Đức đổi lại Đức Ngư. Loại cá này ở trong Nam Hải thì linh, còn ở biển khác thì không linh”.

     Về sự kiện liên quan tới Cá Ông và sinh mệnh của Chúa Nguyễn theo ngư dân vùng biển Bắc Miền Trung và tỉnh Thanh kể lại như sau: Khi Nguyễn Huệ đánh vào thành Gia Định lần thứ ba, Nguyễn Ánh phải bỏ chạy ra biển để sang Xiêm. Khi thuyền đã ra ngoài khơi thì hết nước ngọt. Trước tính mạng khó tồn tại vì chết khát thì bỗng nhiên xuất hiện một con cá khổng lồ từ biển trồi lên áp sát mạn thuyền phun dòng nước ngọt đầy thuyền cho Chúa Nguyễn và quan quân, giúp họ thoát khỏi cái chết khát đến cháy họng. Sau đó trên đường đi thuyền lại gặp bão lớn, một lần nữa chính cá Ông lại cứu vớt đưa thuyền cập vào đảo Côn Sơn.

     Cũng về Cá Ông được lịch sử triều Nguyễn ghi lại: Khi bôn tẩu ra ngoài đảo Phú Quốc bị bão lớn, thuyền sắp đắm, chúa Nguyễn Ánh đã cầu nguyện và được cứu thoát nạn. Sau khi phục quốc lên ngôi, vua Gia Long (vị vua đầu tiên triều Nguyễn – tức Chúa Nguyễn Ánh) phong cho cá Voi là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần”. Ngoài ra, nơi đây còn lưu lại những dấu tích của Vua Gia Long khi ghé mũi Ông Đội xem Giếng Ngự, điểm đặt mũi kiếm trên đảo ngọc vào những năm trôi dạt tránh sự truy đuổi của nghĩa quân Tây Sơn.

     Thanh Hóa có 102 km bờ biển, đi qua các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, thị xã Sầm Sơn, Quảng Xương và Tĩnh Gia, đã dem đến cho cư dân nơi đây đời sống vật chất, tinh thần mang đậm sắc thái văn hóa biển. Văn hóa vùng này có một hệ thống tín ngưỡng đặc thù, phản ánh nhu cầu tâm linh của cư dân làm nghề đánh bắt cá biển, mà thờ cá voi là nghi lễ đặc trưng.

     Cá voi là loại cá sống ở biển, có thân dài 15 đến 25 mét, chiều cao 1,50 đến 2,50 mét, tính nết hiền lành, hay làm điều thiện. Ngư dân hoạt động trên mặt biển, hễ thấy có dòng nước phun lên cao từ lỗ ở trán cá voi, là họ nhớ ngay câu “Ông lên hiệu, liệu mà trốn”, tức là sẽ có bão tố. Khi bão tố xảy ra, thuyền, gõ gặp nạn lập tức cá voi lao tới, dùng thân mình che đỡ, đương đầu với sóng to gió lớn, dìu thuyền và người vào bờ.

     Ở tỉnh Thanh, Cá Ông được ngư dân lập đền nghè phụng thờ đó là: Nghè Hậu làng Bạch Câu, xã Nga Bạch, đền thờ thôn Văn Phú, huyện Nga Sơn, Đền thờ Cá Ông ở Diêm Phố (Ngư Lộc), Hùng Thanh (Đa Lộc), đền thờ Cá Ông xã Hưng Lộc, huyện Hậu Lộc, Đền thờ Cá Ông xã Hoằng Trường, Hoằng Thanh, huyện Hoằng Hóa, Đền thờ Ông Nam Hải ở xã Quảng Cư, thị xã Sầm Sơn, Đền thờ Cá Ông ở làng Đồn Điền, xã Quảng Thái, kẻ Mom xã Quảng Nham, huyện Quảng Xương, Miếu thờ Cá Ông ở Ba Làng, thôn Thanh Đình xã Hải Thanh, huyện Tĩnh Gia.

     Trong số những đền miếu thờ Cá Ông thì đền thờ Đức Ông Nam Hải ở làng Diêm Phố, xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc là nổi tiếng hơn cả. Đền này được xây dựng năm 1739 có tiền đường, trung đường hậu cung gồm 10 gian, đền tuy không lớn nhưng có kiến trúc vững chãi để chống lại thời tiết khắc nghiệt của vùng nắng gió và bão tố này. Trong đền còn l-u giữ sắc phong của triều đình nhà Nguyễn vào năm Khải Định thứ 9 (1924) ghi: Sắc cho “xã Diêm Phố, tổng Trường Xuân trước kia phụng sự Trừng Kham Dực Bảo Trung Hưng, Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần. Tôn thần có công giúp nước hộ dân, luôn luôn hiển ứng đã được ban cấp cho phép nhân dân thờ phụng. Nay Trẫm ăn mừng tuổi 40 (tứ tuần Đại Khánh), ban bảo Chiếu đàm ân lễ cho đăng trật gia tặng Uông Nhuận Trung đẳng thần. Đặc biệt cho dân tiếp tục dùng theo điển lễ của nhà nước để tiếp tục phụng sự. Ngày 25 tháng 7 năm Khải Định thứ 9 (1924)” (TS Đinh Công Vỹ dịch). Đồ thờ có một kiệu, một ngai bằng đá, một thuyền rồng bằng đá, các bát hương, bộ ngũ sự. Đặc biệt có bộ xương cá Voi rất lớn được đặt trong hòm kính để thờ. Ở tiền đường có bức đại tượng cổ chạm khắc công phu ghi 3 chữ “vạn cổ hương” với tứ linh, tứ quy chạm chìm.

     Theo bà con trong vùng kể lại, vào năm 1739, có một người đánh cá làng Diêm Phố trong một cơn bão tố bị lật thuyền giữa biển khơi, người dân chài xấu số đó ra sức bơi với hi vọng vào được tới bờ. Trong lúc sức cùng, lực kiệt ông chỉ còn biết phó mặc cho số phận, thì bỗng đâu chân ông chạm vào một cồn đất. Ông cho rằng mình đã đặt chân vào tới bờ, thế rồi do quá mệt mỏi ông thiếp đi. Bỗng khi tỉnh lại ông thấy cồn đất rùng rùng chuyển động rồi hất tung ông lên bãi cát làng Diêm Phố. Thì ra đó là một con cá Voi khổng lồ đã đưa ông từ biển khơi vào bờ. Sau khi đưa ông lên bãi cát, con cá lớn đó bị mắc cạn không ra được khơi xa nữa và vĩnh viền nằm lại đất liền. Ngay sau khi cá ông luỵ, biết rằng đó là điềm may mắn của dân chài được cá ông giúp đỡ, dân làng không ai bảo ai mỗi người ai về nhà nấy kiếm đủ một trăm lá chiếu đắp cho cá ông rồi sau đó làm lễ chôn cất. Chính người ngư dân được cá Voi cứu thoát chết đã đứng ra chịu tang và có trách nhiệm thờ cúng Cá Ông. Ba năm sau, dân làng làm lễ bốc hài cốt Cá Ông, xương cốt được rửa bằng rượu, phơi khô gọi là “Thượng ngọc cốt”. Bộ xương cá voi được chia làm ba phần, rước vào thờ ở các đền thuộc các làng biển : Diêm Phố (Ngư lộc), Phú Lương (Hưng Lộc) huyện Hậu Lộc và đền thờ ở xã Hoàng Thanh huyện Hoàng Hoá. Đến nay, riêng bộ xương cá Voi ở đền Ngư Ông, Diêm Phố là còn giữ được nguyên vẹn. Bộ xương cá Voi ở đền này có một đầu và 21 đốt xương sống, đốt lớn nhất có đường kính tới 0,45m, ngoài ra còn có nhiều xương sườn khác. Theo ông Thủ đền kể lại thì trong số 21 đốt xương sống có 10 đốt mới đây trong các năm 2002 – 2004 được ngư dân trong vùng khi kéo lưới thu được rồi rước vào đền Diêm Phố để thờ. Chứng tỏ vùng biển Diêm Phố – Ngư Lộc có rất nhiều cá Voi luỵ. Tháng 6 năm 2004, cách đền cá Ông làng Diêm Phố không xa về phía bắc, tại bãi sú vẹt, thôn Hùng Thanh, xã Đa Lộc có một con cá voi xám đã trôi dạt vào bờ biển nơi này. Bộ xương cá voi có chiều dài 9,5m gồm 39 đốt, khoang xương rộng gần 2m cũng được rước vào đền làng Hùng Thanh để thờ phụng.

     Hàng năm, trừ những ngày lễ hội lớn được tổ chức định kỳ vào dịp mùa xuân, thường thì trong những đợt đi biển dài ngày, hoặc lâu không đánh bắt được tôm cá ngư dân thường biện lễ trầu rượu, hương vàng tới đền để cúng tế, cầu mong đánh bắt được nhiều tôm cá, mưa thuận gió hòa, cuộc sống bình an. Trong quan niệm của ngư dân, Đức Ông là biểu tượng của sức mạnh chống bão tố trên biển, là biểu tượng của lòng nhân ái bao la. Ngài là vị thần hộ mệnh, đem ấm no hạnh phúc cho ngư dân.

     Tín ngưỡng thờ cúng Cá Ông của ngư dân làng Diêm Phố ngày xưa được tổ chức tế lễ vào ngày 23 tháng chạp, cũng là ngày cá Ông luỵ dạt vào bờ biển làng Diêm Phố. Tín ngưỡng này gắn liền với lễ hội Cầu Ngư, từ năm 1945 trở lại đây lễ hội được tổ chức trong 3 ngày, bắt đầu từ ngày 22 và kết thúc ngày 24 tháng 2 âm lịch. Lễ trọng là ngày 24 ( xưa còn gọi là Cầu Mát ) thờ các vị thần biển và đám rước Hội đồng thần linh của làng, đó là một trong những lễ hội lớn nhất của ngư dân không chỉ ở Hậu Lộc mà còn có sức thu hút cả những ngư dân miền biển tỉnh Thanh về dự. Lễ hội cầu ngư và tục thờ Cá Ông là dịp cho ngư dân cầu mong bình yên khi đi biển, đánh bắt được nhiều tôm cá, cuộc sống được no ấm thịnh vượng, hạnh phúc trường tồn. Lễ hội còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.

     Cùng với tục thờ Cá Ông ở Diêm Phố, tục thờ Ông Nam Hải ở thôn Quang, xã Quảng Cư, thị xã Sầm Sơn cũng thể hiện sự tri ân và tôn vinh cá Voi. Trong đền còn đôi câu đối cổ với nội dung ca ngợi công đức của thần:

Vạn đại thần từ tồn tại bản
Thiên niên phụng sự phúc phương dân.

     Tạm dịch:

Vạn đời đền miếu vẫn còn đây
Nghìn năm thờ phụng để phúc cho muôn dân.

     Triều đình phong đạo sắc cho Ông Nam Hải có niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710) với mỹ tự “ Nam Hải Đại tướng quân”.

     Những người dân vùng ven biển tôn vinh cá Ông (cá Voi) thành một vị thần rất đỗi thiêng liêng, là chỗ dựa tinh thần mỗi khi gặp sóng to gió lớn, thuyền bị đắm, con ng-ời bị hiểm nguy đe dọa.

     Qua tín ngưỡng thờ Cá Ông của cư dân biển tỉnh Thanh thời Nguyễn bước đầu rút ra một số nhận xét:

     1. Tục thờ cá là lệ tục cổ đã in sâu vào đời sống tâm linh của c- dân xứ Thanh. Tục thờ cá cũng ảnh hưởng và lưu lại dấu ấn sâu đậm trong tâm thức Chúa Nguyễn (xuất xứ từ Gia Miêu), khi gặp hoàn cảnh mới (Cá Ông cứu giúp) thì tâm thức ấy bấy lâu tiềm ẩn bỗng nhiên được thức dậy. Từ tín ngưỡng thờ cá (cá sông) bắt gặp cá biển (cá Voi) đã đem đến cho tín ngưỡng thờ cá một hình thức phụng thờ vừa quen (thờ cá) của tín ngưỡng dân gian, lại vừa mới lạ (thờ cá Voi) mang đậm yếu tố cung đình không chỉ đối với Chúa Nguyễn mà với cả cư dân biển xứ Thanh.

     2. Từ tín ngưỡng thờ cá trong dân gian, triều Nguyễn đã lịch sử hóa gắn với sự việc cá Voi cứu mạng Chúa Nguyễn. Năm 1802, Nguyễn Ánh Gia Long chính thức lên ngôi. Năm 1803, ông đã sai bộ Lễ nghị tâu việc tế lễ bách thần, tháng 8 năm 1810, chuẩn tấu ban sắc phong cho các thần Thượng, Trung, Hạ đẳng. Tháng 10 năm 1814, vua và bầy tôi bàn về điển thờ bách thần, sai Nguyễn Văn Nhàn, Bùi Đức Mân xem xét sắc thần. Vị nào có công đức với dân thì phong. Từ đó về sau, nhất là dưới triều vua Minh Mệnh và Tự Đức, quy định của triều Nguyễn khiến các nhà Nho đã lịch sử hóa Cá Ông gắn với việc cứu giúp vị vua sáng lập ra vương triều này. Cách làm này đã được triều Nguyễn chấp nhận và nhà vua đã theo lệ ban sắc cho thần Cá Ông phụng thờ ở các làng biển. Cá Ông – vị thần Ngư xuất phát từ tín ngưỡng dân gian đã có chân trong hệ thống bách thần, bước lên vị trí là thần của quốc gia, được thần thánh hóa như là anh hùng văn hóa và đi vào lịch sử nhà Nguyễn như là sự thiêng liêng của đất trời ứng nghiệm vào vị vua đứng đầu vương triều này. Thông qua việc phong sắc, triều đình nhà Nguyễn đã gửi vào đó thông điệp đối với dân chài nói riêng, bách tính nói chung rằng: Một khi người dân đã tin Cá Ông là vị thần có công giúp Nguyễn Ánh tức là Chúa Nguyễn và sự nghiệp của ông thuận với đạo trời và lẽ đời. Nguyễn Ánh lên ngôi vua là thiên tử phụng mệnh trời xuống trị dân. Nên nhớ rằng dẫu Chúa Nguyễn vừa dẹp yên được nhà Tây Sơn, nhưng ảnh hưởng của Tây Sơn không phải đã hết, bởi vậy việc phong thần cho Cá Ông như một lời khẳng định của vua Gia Long: Không giúp vua, ủng hộ vua cũng chính là chống lại thần bảo hộ, xóa bỏ lòng tin với vua là không có niềm tin tín ngưỡng, điều đó trái với lẽ trời và đạo vua tôi. Như để minh chứng cho tư tưởng “Thuận Thiên”, năm Minh Mệnh thứ 17, triều Nguyễn đã khắc hình cá Voi vào Nhân đỉnh. Bằng những việc làm đó đối với cá Voi, nhà Nguyễn đã “pháp lý hóa” và bảo hộ cho việc thực hành tín ngưỡng này – thờ thần Biển nước Nam.

     3. Xứ Thanh là đất quý hương của vương triều Nguyễn, vì vậy không có lý do gì mà tín ngưỡng thờ cá Voi – Đức Ông Nam Hải lại không thịnh hành và phổ biến tại các làng biển, cửa sông của tỉnh này. Thực tế tại 6 cửa lạch, nơi những con sông gặp biển ở tỉnh Thanh từ x-a cho đến thời Nguyễn và hiện nay có nhiều cá Voi lụy và đã được ngư dân lập nghè miếu thờ cúng trang trọng. Trải các đời vua Nguyễn, triều đình đều ban sắc phong cho Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần, rất tiếc trải thời gian và do gió bão tàn phá những đền miếu thờ Ông Nam Hải cùng với sắc phong phần nhiều đã mất hoặc thất lạc, số còn lại rất ít, vì vậy khó cho việc hình dung được đầy đủ sự tôn vinh của triều Nguyễn đối với thần Nam Hải. Tuy vậy, với những đền miếu, di vật, cổ vật còn hiện hữu trong các di tích thờ thần và quan trọng hơn, qua di sản văn hóa phi vật thể như truyền thuyết, tục thờ, lễ hội… lưu giữ trong tâm thức dân gian, tín ngưỡng thờ cá Voi – Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Tôn Thần vẫn luôn là mảng mầu tươi đậm trong đời sống tâm linh của cư dân biển đối với cá Voi, vị thần của biển khơi giàu ân nghĩa.

     Tín ngưỡng đó khởi nguồn từ tín ngưỡng dân dã và được triều đình nhà Nguyễn lịch sử
hóa làm cho tín ngưỡng thờ cá Voi mang đậm thần tích và dấu ấn của nghi thức tế lễ cung đình.

     Tín ngưỡng thờ cá Voi gắn với vương triều Nguyễn trên đất tỉnh Thanh nói riêng và cả nước nói chung hàm chứa nhiều giá trị lịch sử, văn hóa đặc sắc cần phải tiếp tục nghiên cứu, giải mã góp phần ngày càng làm sáng rõ hơn vai trò và sự nghiệp của vương triều Nguyễn trong diễn trình lịch sử dân tộc Việt Nam.

Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn
trong lịch sử Việt Nam từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XIX,
Tại Thanh Hóa, ngày 18-19/10/2008

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Tín ngưỡng thờ cá Voi của ngư dân Thanh Hoá thời Nguyễn (Tác giả: ThS. Hoàng Minh Tường)