TÍNH HAI MẶT của KINH TẾ THỊ TRƯỜNG, của SỨC MẠNH TRUYỀN THỐNG đối với sự phát triển của thế hệ trẻ hiện nay
Tính từ thời điểm đất nước chính thức bước vào công cuộc đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực đến nay đã ngót ba mươi năm. Trong thời gian ấy, Việt Nam ngày càng gia nhập sâu vào tiến trình vận động của nhân loại và các thế hệ con người đang ở giữa một thời đại có những đổi thay chóng mặt. Trong thời đại toàn cầu hoá, kinh tế tri thức hiện nay, mỗi quốc gia đều đứng trước những cơ hội lớn đồng thời cũng ở giữa những thử thách lớn. Điều này càng đúng khi soi nhìn cụ thể vào thế hệ trẻ bởi họ đang học tập, phấn đấu tích cực và thường xuyên để gánh vác tương lai của đất nước. Hầu như bản chất của bất cứ sự phát triển nào cũng bao gồm hai mặt nhìn theo chiều lịch đại. Nền kinh tế thị trường, sức mạnh truyền thống tạo những cơ hội gì đồng thời có những cản trở nào đối với sự phát triển của thế hệ trẻ hiện nay? Đó là câu chuyện lớn, là vấn đề phức tạp mà ở đây chúng tôi xin chỉ bàn vài điều chính yếu.
1.
Mấy chục năm nay (từ sau năm 1986) công cuộc đổi mới toàn diện đất nước ngày càng gắn liền với chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Mục đích của kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ xã hội, phát triển văn hoá và giáo dục, nâng cao dân trí, phát triển nguồn lực của đất nước.
Phương hướng, cơ cấu phát triển nền kinh tế như trên là sự chuyển đổi cần thiết bởi tuân theo sự vận động tất yếu của xã hội, quy luật của thời đại. Mục đích của sự chuyển đổi này không có gì khác là giải phóng cá nhân, phát huy mọi năng lực và trí tuệ, phát triển khoa học và công nghệ, văn hoá và giáo dục, phát triển nguồn nhân lực, mở cửa và hội nhập kinh tế thế giới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đưa Việt Nam thành một nước công nông nghiệp giàu mạnh.
1.1. Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa không ngừng phát triển khiến mức sống xã hội nâng cao, điều kiện học tập được cải thiện một cách đáng kể. Nếu xem kinh tế là nền tảng của sự phát triển xã hội thì đây là thuận lợi cơ bản nhất đối với thế hệ trẻ. Dù còn những vùng khó khăn, còn nhiều hộ đói nghèo nhưng miếng cơm manh áo, sinh hoạt hàng ngày không còn là câu chuyện bức xúc đối với số đông người. Không khó nhận ra rằng khoảng gần hai mươi năm nay bộ mặt xã hội đổi thay ngày càng nhanh chóng. Trong đó không ít vùng, không ít địa phương sự thay đổi hiện lên rõ rệt theo hàng tháng, hàng quý. Bình quân thu nhập, mức sống của đa số người dân được cải thiện. Mọi phương tiện sinh hoạt ngày càng tiện lợi, tân tiến, đáp ứng những mức độ hưởng thụ khác nhau.
Đời sống kinh tế, mặt bằng dân trí xã hội được nâng cao, sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước đối với giáo dục, chủ trương xã hội hoá giáo dục nhằm phát huy mọi nguồn lực… tất cả những điều ấy đã làm cho điều kiện học tập, phấn đấu của thế hệ trẻ được cải thiện đáng kể. Thuận lợi này có thể quan sát rõ trên một số mặt cụ thể sau:
– Cơ sở vật chất của trường học ngày một đầy đủ, khang trang hơn: Ở hầu hết các địa phương, trường học được xây dựng, bổ sung bằng nhiều nguồn lực. Trong không gian nhà trường, sân chơi, bãi tập, thư viện, phòng máy,… được cải thiện, nâng cấp, phòng học (bảng, bàn ghế, ánh sáng,…) trang bị hiện đại hơn. Sự phát triển với tốc độ nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, của công nghệ thông tin khiến quá trình hiện đại hoá giáo dục được đẩy mạnh.
– Sách vở, tài liệu học tập phong phú: Với điều kiện vật chất, với công nghệ in ấn như hiện nay, trừ một số vùng miền khó khăn, đa số học sinh được đáp ứng đầy đủ tài liệu, sách vở phục vụ học tập. Hầu như không còn tình trạng nhiều người chờ đọc một cuốn sách giấy vàng đen, chữ in mờ, tình trạng thiếu thốn giấy vở như mấy chục năm trước. Giờ đây, cánh cửa tri thức được mở rộng về mọi phía, thậm chí các loại tài liệu tham khảo đa dạng khiến người học khó lòng tiếp xúc được hết.
– Phương tiện học tập đa dạng, hiện đại “một trời một vực” so với trước: Một xã hội phát triển với công nghệ hiện đại như hiện nay đã tạo cơ hội cho mọi người có thể học tập, nâng cao trình độ học vấn bằng nhiều cách. Thế hệ trẻ lại rất nhanh nhạy trong việc tiếp thu, sử dụng công nghệ mới. Ở đây, chúng tôi thấy cần nhấn mạnh vai trò vô cùng quan trọng của công nghệ thông tin.
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại bùng nổ thông tin. Trong đó, Việt Nam là một quốc gia có tốc độ phát triển nhanh đáng kể trên lĩnh vực này. Cùng với công cuộc đổi mới trên đất nước, cuộc cách mạng công nghệ thông tin đạt được những thành tựu to lớn. Về số lượng điện thoại di động thuê bao, tính từ năm 2002 đến cuối năm 2008, tốc độ tăng trưởng hàng năm của Việt Nam cao nhất thế giới. Theo công bố của Bộ Thông tin và Truyền thông ngày 31/12/2008, tổng số điện thoại thuê bao (cả di động và cố định của Việt Nam đã lên đến 79,1 triệu máy, đạt mật độ 92,6 máy/100 dân). Về số người dùng internet, cũng theo số liệu công bố của bộ này, cuối năm 2008, nước ta đạt 20.670.000 người. Tính đến ngày 26/12/2013, tổng số điện thoại thuê bao toàn quốc là 105 triệu máy, trong đó thuê bao di động chiếm khoảng 93%, số người dùng internet là hơn 31 triệu. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin như thế đã tác động mạnh mẽ tới mọi mặt của đời sống xã hội. Tivi, máy tính, internet, điện thoại di động, máy quay phim, máy ảnh kĩ thuật số,… giúp con người mở rộng mọi chiều kích không gian sống, có thể giao lưu, hội nhập quốc gia và quốc tế một cách nhanh chóng, rộng rãi. Làng xã Việt Nam vốn nhịp nhàng, đơn điệu trong guồng quay của sản xuất, sinh hoạt tiểu nông giờ đây bỗng sôi động hẳn. Cuộc cách mạng công nghệ thông tin đã đem tới cho xã hội, cho đời sống con người những lợi ích vô cùng to lớn. Trong thời đại ngày nay, chỉ ngồi một chỗ qua tivi, qua mạng, chỉ qua những cái nhấp chuột, con người ta có thể thu nhận rất nhiều điều Đông, Tây, kim, cổ. “Cả thế giới trong ngôi nhà của bạn” không hề là một sáo ngữ. Từ đây, tri thức được mở rộng, tầm văn hoá được nâng cao, quan niệm thẩm mĩ sẽ cởi mở, đa dạng hơn.
Trong thời đại ngày nay, công nghệ thông tin đã tạo nên một “thế giới phẳng”. Các phương tiện thông tin giúp con người mở rộng không gian sống, cảm nhận rõ mình là một thành viên của cộng đồng xã hội, của quốc gia và thế giới rộng lớn. Đó thực sự là một bước tiến lớn lao của ý thức làm người, của chất lượng cuộc sống.
Công nghệ thông tin cũng làm thay đổi nội dung, cách thức hoạt động văn hoá, nhất là văn hoá giải trí. Những hình thức mới như đọc báo, nghe đài, xem tivi rồi các trò chơi điện tử sẽ thay thế cho các hình thức văn nghệ dân gian, trò chơi dân gian. Trong sinh hoạt gia đình, trong đời sống cộng đồng, trong lễ hội và tôn giáo tín ngưỡng, đâu cũng có sự “tham dự” tích cực của các phương tiện thông tin. Từ đây, tất yếu tâm lí và nhu cầu văn hoá của con người đổi thay đáng kể. Điều này thể hiện đặc biệt rõ ở giới trẻ, nhất là ở các đô thị.
1.2. Kinh tế thị trường phát triển cũng tạo điều kiện cho con người hiện đại mở rộng các chiều quan hệ, giao lưu, hình thành nếp sống công nghiệp năng động và phát huy tinh thần dân chủ.
Quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường đã kích thích tiềm năng sáng tạo, tính tích cực của con người, phát huy năng lực, sở trường của từng cá nhân. Nó tạo môi trường cho sự hình thành, củng cố tính tự chủ của cá nhân, của các nhân cách độc lập, tạo môi trường cho “trăm hoa đua nở”. Nhìn chung, tốc độ sống của con người hiện đại nhanh hơn trước, mạnh hơn trước. Đa số người trẻ tuổi hiện nay có ý thức về bản ngã và cá tính, về quyền năng và quyền lợi của bản thân, từ đó có khát vọng được thể hiện, tự khẳng định.
Cùng với việc phát huy năng lực, tính tự chủ của cá nhân, nền kinh tế thị trường tạo không gian giao tiếp rộng lớn và phong phú cho mỗi con người đổi mới tư duy, phát triển đời sống tinh thần. Thời trước, cuộc đời một con người từ lúc được sinh ra cho đến khi từ giã cõi trần phần lớn khép kín trong luỹ tre xanh bao bọc làng xóm quê hương. Khi xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá, khi làng quê dần trở thành đô thị, thành phần cư dân ngày càng đa dạng, phức tạp, việc làm ăn, trao đổi vượt khỏi phạm vi hạn hẹp lâu nay. Cơ chế kinh tế mới, phương thức làm ăn đa dạng, cởi mở dần dần tạo cho con người làng xã tính năng động xã hội cao, có khả năng thích ứng trước những thay đổi của cuộc sống. Điều đó cũng có nghĩa sợi dây văn hoá được kéo dài về nhiều phía, cách sinh hoạt, lối ứng xử không thể như trước nữa. Sự giao lưu, tiếp nhận văn hoá từ đây được mở rộng ra tầm quốc gia và quốc tế theo bước chân làm ăn, đi lại của con người. Nền kinh tế toàn cầu hoá đi liền với nền văn hoá cũng đang toàn cầu hoá. Chúng ta đang ngày càng ý thức rõ rằng không thể nhân danh bảo vệ truyền thống mà đóng kín mọi cánh cửa của ngôi nhà văn hoá dân tộc bởi làm thế là cưỡng lại quy luật khách quan. Bản sắc văn hoá dân tộc cũng có cái phải đổi thay, cũng phải được củng cố, được làm giàu thêm trong quá trình tiếp biến, giao lưu với mọi nền văn hoá khác và phải góp phần làm phong phú thêm cho văn hoá toàn cầu. Môi trường giao lưu rộng lớn, đa dạng trong xã hội hiện đại tạo điều kiện và kích thích con người mở mang tri thức, phát triển năng lực. Ở trong môi trường như thế, tất yếu con người thay đổi cả tư tưởng lẫn tình cảm, cả nếp sống lẫn tác phong.
Tinh thần phấn đấu đua tranh trong nền kinh tế thị trường cùng sự hình thành, phát triển xã hội là môi trường thuận lợi nuôi dưỡng, phát huy tinh thần dân chủ. Thế hệ trẻ ngày nay có cơ hội để phát triển, để khẳng định bởi được thở hít một bầu không khí khá cởi mở, thoáng đãng. Rõ ràng, sự “bao cấp” hay o ép về tư tưởng, sự “chỉ đạo” của thế hệ trước không còn (và cũng không thể) như thời trước nữa. Từ Hiến pháp ban hành năm 1992 đến nay, qua các điều luật, các văn kiện,… có thể thấy quá trình xây dựng, củng cố Nhà nước pháp quyền luôn được đi đôi với quá trình xác định rõ quyền và trách nhiệm của công dân. Từ đó, quy chế thực hiện dân chủ cơ sở ngày càng được hoàn thiện, hành lang pháp lí để tăng cường sự tham gia của nhân dân vào quản lí nhà nước và xã hội ngày càng được mở rộng. Không chỉ nhìn chung toàn xã hội mà ngay trong không gian nhà trường tính chất dân chủ này cũng thể hiện rõ. Quan hệ thầy – trò trong quá trình giáo dục đâu còn kiểu mệnh lệnh, “chăn dắt” như thời bao cấp và học sinh có nhiều điều kiện để nói lên tiếng nói, nguyện vọng của mình, để thể hiện mình hơn. Với quan điểm giáo dục mới, chúng ta không nhằm tạo ra các thế hệ học trò ngoan ngoãn phục tùng tuyệt đối mà luôn khuyến khích ở các em sự chủ động, tinh thần tích cực, ý thức sáng tạo.
1.3. Được sống trong môi trường cởi mở, dân chủ, đồng thời thế hệ trẻ hiện nay được sống trong truyền thống trọng đạo, yêu chữ đáng quý của dân tộc
Được sống trong môi trường hiện đại, trong không khí cởi mở, sôi động của thời đại kinh tế toàn cầu, thế hệ trẻ hiện nay đồng thời được kế thừa nhiều truyền thống đáng quý của ông cha.
Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998) xác định rõ: “Bản sắc dân tộc bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của các cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân – gia đình – làng xã – Tổ quốc, lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lí, đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động, sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống,… Bản sắc văn hoá dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo”.
Trong lĩnh vực giáo dục, bản sắc dân tộc được thể hiện qua những vẻ đẹp đáng tự hào. Dân tộc Việt Nam có truyền thống cần cù, hiếu học. Truyền thống ấy được tạo nên bởi một đất nước có hàng ngàn năm văn hiến. Truyền thống ấy cũng được tạo nên trong đặc điểm của chế độ phong kiến phương Đông. Nhà nước phong kiến dựa vào học hành, thi cử, dựa vào việc đỗ đạt mà ban thưởng, mà bổ nhiệm các chức quan trong tổ chức bộ máy của mình. Phải miệt mài kinh sử, phải đỗ đạt mới có chức vị mới đổi thay được danh phận. Vì thế, tầm sư học đạo, dùi mài bút nghiên đã trở thành nguyện ước, tình cảm của bao thế hệ người Việt. “Anh đỗ quan trạng mới mơ động phòng”, vợ chăm lo cho chồng đèn sách, giấc mơ quan trạng khiến không ít người nén lòng chịu đựng vất vả khó khăn. Sử sách, văn chương nghệ thuật từng ngợi ca nhiều tấm gương học hành, hi sinh như thế.
Truyền thống cần cù, hiếu học đi liền với truyền thống tôn sư trọng đạo. “Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy”, “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” – đạo nghĩa thầy trò thiêng liêng, thuỷ chung trở thành một thước đo quan trọng đánh giá nhân cách một con người. Những người thầy tài giỏi, thanh liêm luôn được quý trọng, những học trò trọng nghĩa, biết nhớ ơn thầy luôn được ngợi ca – đó là đạo lí của dân tộc, là đạo đức của mỗi con người. Đền thờ Chu Văn An không bao giờ tàn lạnh khói hương, Văn Miếu luôn tấp nập người lui tới… là những minh chứng hùng hồn cho đạo học tốt đẹp ngàn đời của dân tộc Việt.
Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, những truyền thống quý báu trên được phát huy trong chế độ mới. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, trong công cuộc lao động xây dựng cuộc sống mới từng có bao hình ảnh đẹp về nền giáo dục cách mạng: phong trào diệt giặc đói, giặc dốt, bình dân học vụ, lớp học dưới hầm, trường nơi sơ tán, “mang mũ rơm đi học đường dài”, ngọn đèn dầu chong suốt canh khuya… Nhiều thế hệ học sinh ra đi từ những mái trường, làm nên những kì tích lớn lao trên mọi lĩnh vực. Gian khổ, thiếu thốn, lửa khói chiến tranh là vậy mà nền giáo dục cách mạng vẫn thu được những thành quả đáng tự hào. Truyền thống đó mãi mãi thành nguồn cổ vũ, lời nhắc nhở các thế hệ tương lai.
Nhiều người phàn nàn rằng truyền thống tôn sư trọng đạo của dân tộc đang bị mai một trong xã hội phát triển theo nền kinh tế thị trường hiện nay. Đó quả là một sự thực. Mỗi thời, mỗi giai đoạn đều có thuận lợi, khó khăn của nó. Hãy nhìn vào tổng thể, nhìn vào cái lớn. Hiện tại, dù đứng trước không ít khó khăn của thời mở cửa, mặt trái của nền kinh tế thị trường, dù thực trạng giáo dục có những điểm bất cập song đa số giáo viên vẫn yêu nghề, bám nghề. Chúng ta đã và đang có không ít tấm gương thầy cô giáo tận tuỵ, say mê nghề nghiệp, đầy trách nhiệm và lòng yêu thương học sinh thuộc nhiều lứa tuổi, ở nhiều cấp nhà trường, nhiều địa phương. Đặc biệt, chúng ta đã chứng kiến rất nhiều tấm gương học sinh nghèo vượt khó, khổ luyện thành tài. Cũng có nhiều học sinh, sinh viên vừa gánh vác việc nhà, thậm chí nuôi bố mẹ bệnh tật, vừa nỗ lực học hành, nhiều học sinh nghèo đỗ thủ khoa trong các kì thi tuyển sinh đại học… Thế hệ trẻ hiện nay có nhiều điều kiện để thể hiện mình, để tự phát hiện và bồi đắp, củng cố năng lực, nhân cách. Nếu biết phát huy điều này, nếu được định hướng đúng, chắc chắn nền giáo dục sẽ phát triển vượt bậc… Trong mọi lĩnh vực của đời sống đất nước hiện nay đều có không ít người ở lứa tuổi thanh niên mà thành đạt, sớm khẳng định vai trò, vị trí của người công dân tiên tiến trong xã hội hiện đại.
2.
Đứng trước những cơ hội, thuận lợi vô cùng to lớn so với ông cha song thế hệ trẻ hiện nay cũng gặp phải các thách thức, khó khăn không nhỏ trên con đường học tập, phát triển.
2.1. Mặt trái của nền kinh tế thị trường, sức dội của những tiêu cực xã hội
Bên cạnh nhiều điểm tích cực không thể phủ định, nền kinh tế thị trường cũng có các tác động tiêu cực tới lối sống, nhân cách của con người nói chung, của thế hệ trẻ nói riêng. Về cơ bản, đó là gia tăng sự phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội, là sự hình thành, phát triển của lối sống thực dụng, vị kỉ trái với tình làng nghĩa xóm mộc mạc, mặn nồng thuở trước, là sự đua đòi, tiếp nhận những sinh hoạt thiếu lành mạnh, các tệ nạn xã hội. Kinh tế thị trường khuyến khích sự năng động, đua tranh cá nhân nhưng dễ thôi thúc con người ta sẵn sàng làm tất cả vì quyền lợi bản thân, sẵn sàng chèn ép lạnh lùng chứ chẳng mấy bận tâm đến đồng nghiệp, đồng loại. Kinh tế thị trường nhiều khi như một chỗ dựa, một cái phao để người ta tự biện minh, tự an ủi khi mình phải làm điều gì đó không phải. Cả xã hội cứ thế mà trượt, mà theo không mấy ai dám dừng lại, chịu dừng lại. Nhiều điều biết không đúng nhưng vẫn cứ phải làm, làm mãi rồi thành quen. Quen rồi mất khả năng phản biện, mất năng lực tự điều chỉnh. Đó là một thực trạng của xã hội ta lâu nay. Thật ra, bản thân kinh tế thị trường không có tội. Cái tội chính là ở con người hiểu, vận dụng nó.
Khi kinh tế thị trường bị vận dụng sai, những giá trị truyền thống bị lung lay, phá hoại nghiêm trọng. Vì lợi nhuận kinh tế, không ít hoạt động văn hoá đang bị thương mại hoá và mất đi vẻ thiêng liêng, giá trị thanh lọc cao quý. Nhiều khi, các sinh hoạt tâm linh, những lễ hội truyền thống cũng bị biến tướng, cũng trở thành một cơ hội làm ăn của không ít cá nhân và tổ chức khác nhau. Cũng không khó nhìn thấy một sự thực ở các vùng nông thôn đang chuyển mình đô thị hoá nhanh chóng hiện nay: tổng thể kiến trúc lộn xộn, pha tạp, môi trường bị ô nhiễm, hệ sinh thái làng xã đang bị xâm hại khá nghiêm trọng. Không chừng đến một ngày nào đó, cây đa, bến nước, sân đình chỉ còn trong nỗi nhớ của lớp người hiện đại. Đã có không ít công trình, bài báo chỉ ra một sự thực: quá trình đô thị hoá đang làm mất đi bản sắc nông thôn. Các truyền thống lịch sử, các biểu tượng văn hoá như đình, chùa, cổng làng… giờ đang bị thay đổi theo hướng không mong muốn.
Sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật, sự mở rộng giao lưu, tiếp nhận văn hoá có mặt trái của nó. Không ít người đã chỉ ra tỉ lệ nghịch giữa nhân cách, đạo đức, tính nhân văn với sự phát triển chóng mặt, đòi hỏi của lối sống hưởng thụ trong xã hội hiện đại. Nếu không có tính tự chủ, nếu không biết lựa chọn, con người hiện nay rất dễ quay cuồng, hoang mang trước sự vận động, đổi thay phức tạp của đời sống. Thế hệ trẻ, học sinh trong các nhà trường lại ở độ tuổi nhạy cảm nên dễ bị tác động, dễ bị tổn thương. Tác dụng xấu của phim ảnh bạo lực, của internet tới lứa tuổi học trò thế nào đã được nhiều sách báo, tài liệu phân tích kĩ. Những năm gần đây, dư luận xã hội lại rộ lên bức xúc trước hiện tượng bạo lực học đường, nhất là ở các học sinh nữ. Nhiều video clip quay cảnh đánh đập, hạ nhục bạn của các nữ sinh được tung lên mạng quả là một hiện tượng “báo động khẩn” về tình trạng suy thoái của đạo đức học đường trước sóng gió của xã hội.
2.2. Tính bảo thủ của truyền thống, sức ỳ từ những thói quen
Nhìn một cách tổng thể, khi “sống” trong hiện tại, truyền thống có tính hai mặt. Nó là nguồn sức mạnh, nguồn động lực lớn lao khi được vận dụng, phát huy đúng. Mặt khác, nó sẽ là lực cản, là quán tính kìm hãm sự thay đổi, sự cách tân. Nhìn cụ thể hơn bằng con mắt cấu trúc, truyền thống là hệ giá trị bao gồm nhiều thành phần, yếu tố tương tác thường mang tính lịch sử, luôn vận hành trong từng điều kiện lịch sử – văn hoá nhất định.Vì lẽ đó, không thể phủ định sức mạnh của truyền thống nhưng cũng không nên vin chặt huỷ chung một cách máy móc với mọi điều trong quá khứ. Chẳng hạn, thái độ tôn sùng tuyệt đối, thói quen được bao cấp trong suy nghĩ sẽ trói buộc việc tìm tòi, sáng tạo. Chẳng hạn, truyền thống học hành, thi cử phương Đông dễ tạo nên lối học gạo, học cốt để thi, trọng lí thuyết mà ít thực hành, yếu khi vận dụng. Theo chúng tôi, mặt hạn chế của truyền thống đang diễn ra ở các mức độ, với các biểu hiện khác nhau:
– Thế hệ trước (người lớn) có thói quen bảo ban, “chăn dắt”, sợ thế hệ trẻ không đảm đương được công việc hay “phá” mất thành tích. Ở nhà trường có những giáo viên vẫn coi mình là người ban phát kiến thức, chân lí và chỉ thích học sinh ngoan ngoãn phục tùng như thầy đồ xưa có quyền cầm thước đánh vào tay môn sinh, bắt môn sinh quỳ xuống đất. Họ không thật sự quan tâm đến tính cách và nguyện vọng của học sinh, không coi trọng các nhận xét, ý kiến của người học. Những giáo viên này đã làm giảm đi năng lực sáng tạo, đã bào mòn cá tính, thậm chí xúc phạm đến nhân cách của học sinh.
– Thế hệ trẻ có thói quen phụ thuộc, chỉ thích làm theo các mô hình, những cách thức có sẵn mà thiếu tính sáng tạo, không có thói quen và năng lực phản biện. Trong đó, không ít sinh viên, học sinh kém về tinh thần và kĩ năng tự học, thiếu năng lực vận dụng những điều đã học vào thực tiễn, khoảng cách giữa học với hành còn khá xa. Phần lớn học sinh hiện nay thường nghe và tiếp nhận chứ ít trăn trở, ít đặt câu hỏi “Tại sao”, không có chủ kiến và không dám (hoặc không có điều kiện) bộc lộ cá tính, nhất là ở các môn khoa học xã hội. Cái nếp “ngoan ngoãn” ấy của truyền thống là điều cần thay đổi. Tư tưởng tôn sư trọng đạo của phương Đông nhiều khi dẫn đến thái độ thuần phục, tiếp thu thụ động trong khi quan niệm thầy – trò bình đẳng của phương Tây là một trong các động lực làm nảy sinh những quan niệm, lí thuyết mới.
2.3. Sự phát triển của xã hội hiện đại với nền kinh tế thị trường đã làm rạn nứt các chuẩn mực giá trị, làm lung lay những xác tín, niềm tin truyền thống
Không thể không thừa nhận một sự thực rằng trong xã hội đang vận động, đổi thay bộn bề của chúng ta hiện nay, do nhiều nguyên nhân, nhiều chuẩn mực giá trị đang bị lung lay, bị nhoè mờ đáng kể. Không ít giá trị truyền thống, không ít đạo lí tốt đẹp hình thành qua chiều dài thời gian lịch sử, tưởng chừng tồn tại vững bền lại đang bị nghi ngờ, nền tảng đạo đức xã hội nhiều lúc bị xâm thực bởi những đợt triều cường của cuộc sống. Có những nguyên nhân khách quan do thời đại, do xã hội buổi đầu mở rộng cửa giao lưu, hội nhập. Có những nguyên nhân chủ quan do các thế hệ con người, nhất là những người đảm đương trách nhiệm lãnh đạo, quản lí. Cái chủ quan đã làm trầm trọng thêm cái khách quan, nhiều khi vin vào cái khách quan để biện minh, để tự an ủi.
Lĩnh vực giáo dục, không gian nhà trường làm sao tách bạch hoàn toàn khỏi thực tiễn xã hội. Nhiều vấn đề tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục không phải chỉ lỗi do giáo dục. Cũng thế, nhiều vấn đề trong giáo dục muốn cải cách, muốn thay đổi hay sửa chữa không thể chỉ do những người trong giáo dục thực hiện. Không thể phủ định rằng đang tồn tại sự “lệch pha” đáng kể giữa những điều nhà trường muốn giáo dục với thực tế sinh động, có không ít sự việc đáng buồn xảy ra trong cuộc sống. Nhà trường giáo dục sự ngay thẳng, tính công bằng song các em đang hàng ngày phải chứng kiến trong xã hội xung quanh, ngay trong gia đình mình những điều trái ngược. Làm sao các em có thể yêu bình đẳng, ghét thói luồn cúi, chạy chọt khi mục sở thị nhiều người có tài, ngay thẳng mà không được trọng dụng, nạn chạy chức chạy quyền đang trở thành căn bệnh phổ biến trong xã hội, khi chứng kiến cảnh bố mẹ mình cũng phải quà cáp, phải “phong bao phong bì” để được việc này việc nọ. Làm sao giáo dục các em tính trung thực khi không ít người vì trung thực mà chịu thiệt thòi… Giữa nội dung giáo dục và thực tế xã hội đang tồn tại một khoảng cách đáng buồn đến nỗi nhiều giáo viên tâm sự chính mình không thể tự tin vào những điều mình đang nói. Kể với các em, các cháu về những sự thực, những tiêu cực của cuộc sống thì sợ các em, các cháu mất niềm tin, sớm phải thành người lớn. Song để các em, các cháu cả tin, hoàn toàn ngây thơ thì sợ chúng thành những chú gà công nghiệp vụng về. Đó là tâm trạng khó xử phổ biến của nhiều người làm cha làm mẹ hiện nay.
Chính sự “lệch pha” giữa những điều sách vở dạy dỗ với thực tế xã hội, chính cách hành xử và lời nói của nhiều “người lớn” làm cho thế hệ con cháu mất niềm tin. Phải thừa nhận một sự thực rằng không ít người trẻ tuổi hiện đang mơ hồ về lí tưởng, không biết đặt niềm tin vào đâu. Nếu được khơi gợi đúng, nếu được tổ chức, tập hợp trong những phong trào, hoạt động xã hội thiết thực thì sức mạnh của thế hệ trẻ sẽ vô cùng lớn. Ngược lại, khối năng lượng lớn bị kìm nén trong âm u hoặc bung phá không đúng hướng lại là điều cực kì nguy hiểm.
Như vậy, trong thời đại toàn cầu hoá, trong bối cảnh đất nước đổi mới, hội nhập, thế hệ trẻ có những thuận lợi rất cơ bản để học tập, phát triển. Sự gặp gỡ, cộng hưởng giữa các điều kiện thuận lợi khách quan và trí tuệ, sự năng động chủ quan đã tạo nên động lực lớn cho sự phát triển của thế hệ trẻ, tạo nên thực trạng “hậu sinh khả uý” đáng mừng. Song mặt khác, trong thời đại ngày nay thế hệ trẻ cũng đang gặp phải các thách thức không nhỏ trên con đường rèn luyện năng lực, hoàn thiện nhân cách. Thế hệ trước cần hiểu rõ những thuận lợi và thách thức này để cảm thông, để có các phương pháp, biện pháp giáo dục, bồi dưỡng đúng đắn. Thế hệ trẻ cần nhận thức thấm thía những thuận lợi và thách thức này để tự phấn đấu, để vững tinh thần và niềm tin chuẩn bị đảm trách sứ mệnh tương lai.
LÊ QUANG HƯNG 1
___________
1. PGS TS, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.