Tộc họ và những biến đổi trong sinh hoạt tộc họ của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận (Phần 1)

THE FAMILY AND CHANGES IN THE ACTIVITIES OF THE CHAM
FAMILY IN NINH THUAN AND BINH THUAN

Tác giả bài viết: LÝ HOÀNG NAM
(Ban Dân vận Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh)

TÓM TẮT

     Người Chăm là một trong 53 cộng đồng dân tộc thiểu số ở nước ta, định cư lâu đời ở khu vực duyên hải Nam Trung Bộ, trong đó Ninh Thuận và Bình Thuận là địa bàn có đồng bào Chăm sinh sống nhiều nhất. Chúng tôi muốn tìm hiểu về tộc họ và những biến đổi tộc học của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa để đánh giá xem cấu trúc xã hội của người Chăm hiện nay có thay đổi gì không và thay đổi như thế nào. Kết quả cho thấy tộc họ của người Chăm ở vùng Ninh Thuận và Bình Thuận gắn kết nhau trên cơ sở huyết thống theo mẫu hệ. Tộc họ ảnh hưởng, ràng buộc đến các thành viên thông qua cơ sở kinh tế, cơ sở tín ngưỡng, niềm tin, thông qua lễ cúng, hôn nhân, tang chế và mối quan hệ xã hội trong tộc họ. Các mối quan hệ này trong tộc họ có sự biến đổi nhất định, tạo nên một diện mạo mới trong cấu trúc của xã hội Chăm vùng Ninh Thuận và Bình Thuận.

Từ khóa: cấu trúc xã hội, người Chăm, xã hội Chăm, tộc họ.

ABSTRACT

     Cham people are one of 53 ethnic minority communities in our country, with a long process of setting in the South Central Coast region, in which Ninh Thuan and Binh Thuan are the areas where Cham people live the most. We would like to learn about the ethnic group and the ethnographic changes of the Cham people in Ninh Thuận and Bình Thuận in the context of industrialization and modernization to assess whether the current social structure of the Cham has changed and how it has changed. Research results show that the Cham family in Ninh Thuan and Binh Thuan regions have a connection on a matriarchy blood – relations basis. The family influences and binds members through their economic base, beliefs base, through rituals, marriage, funeral rituals and social relations among their families. Since the renovation until now, these relationships in their families have had certain changes, creating a new look in the structure of Cham society in Ninh Thuan and Binh Thuan regions.

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Nghiên cứu biến đổi là bước ngoặt thu hút mạnh mẽ sự chú ý của các nhà nhân học, dân tộc học và xã hội học đối với một số lĩnh vực cụ thể của khoa học xã hội như: đô thị, nông thôn hay đối với một cộng đồng dân tộc cụ thể. Ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX các nhà Nhân học thế giới đã rất quan tâm nghiên cứu trong sự gắn kết với quá trình chuyển đổi kinh tế – xã hội, gắn với bối cảnh công nghiệp hóa, đô thị hóa và hiện nay nghiên cứu biến đổi văn hóa đặt trong sự ảnh hưởng toàn cầu hóa, trong sự biến chuyển xã hội đang diễn ra mạnh mẽ. Ở nước ta, xu hướng nghiên cứu biến đổi về kinh tế, văn hóa xã hội được các nhà khoa học xã hội chú ý để đánh giá quá trình phát triển của một cộng đồng hay quá trình tộc người của một dân tộc. Dân tộc Chăm là đối tượng được các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu một cách toàn diện trên nhiều phương diện.

2. Tổng quan tài liệu và phương pháp nghiên cứu

     Nghiên cứu về người Chăm, đầu tiên phải kể đến là nghững học giả người Pháp, vì có điều kiện đến vùng này. Đối với người Việt, đã có một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về xã hội Chăm, như: Người Chăm ở Thuận Hải (1989) quy tụ 10 nhà khoa học thực hiện đã nêu lên một số vấn đề cơ bản về kinh tế nông nghiệp, ngành nghề thủ công, dân số, tổ chức xã hội truyền thống, hôn nhân gia đình, tín ngưỡng tôn giáo và những bước hòa nhập của người Chăm trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa. Đây là công trình khảo sát có tính chất tổng hợp về đời sống vật chất lẫn tinh thần của người Chăm. Công trình Văn hóa Chăm (1991) nghiên cứu toàn diện hơn về hoạt động của người Chăm ở Việt Nam. Các tác giả chưa phân tích sâu và làm nổi bật về ý nghĩa các giá trị văn hóa. Đồng thời, giới thiệu các lĩnh vực thuộc đời sống xã hội và văn hóa Chăm.

     Nguyễn Văn Tỷ với các tác phẩm Đời sống văn hóa và xã hội người Chăm Việt Nam (2010). Tác giả đã đặt ra nhiều vấn đề về xã hội Chăm, bộc lộ nhiều tình cảm, sự trăn trở làm sao để người Chăm có thể dứt bỏ những tập tục xa xưa không phù hợp với hoàn cảnh sống mới, làm thế nào để sớm đưa người Chăm hòa nhập vào nhịp sống của xã hội văn minh. Tác giả Lý Hành Sơn có bài thiết chế xã hội phi quan phương ở người Chăm hiện nay. Đây là bài viết có giá trị thực tiễn cao, tác giả đã nêu bật được thực trạng các thiết chế xã hội phi quan phương của người Chăm và những biến đổi của các tổ chức cộng đồng này trong mối quan hệ giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại. Đồng thời tác giả cũng nêu lên vị trí, vai trò của các thiết chế xã hội này đối với đời sống của người Chăm, nhất là các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa người dân Chăm với các thiết chế xã hội phi quan phương. Gần đây nhất, có công trình 40 năm nghiên cứu văn hóa Chăm, của nhóm tác giả là những người có nhiều kinh nghiệm trong nghiên cứu về dân tộc Chăm.

     Kế thừa những kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, trong bài báo này, chúng tôi cố gắng phản ánh các khía cạnh liên quan đến xã hội Chăm qua sinh hoạt của tộc họ và những biến đổi của tộc họ Chăm trong quá trình hội nhập với sự phát triển chung của xã hội Việt Nam hiện nay.

     Bài báo này sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử. Từ góc độ lịch sử, bài báo trình bày tiến trình phát triển của tộc họ Chăm trong sự vận hành chung của xã hội. Vận dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành, nhất là phương pháp và kỹ thuật của ngành Nhân học: phương pháp sưu tầm và phân tích tư liệu, phương pháp quan sát – tham dự, hòa nhập cộng đồng, thu thập và xử lý thông tin định tính, kỹ thuật phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm tập trung, phỏng vấn hồi cố… để nghiên cứu các hoạt động, cách thức tham gia các hoạt động trong đời sống xã hội, đặc biệt là các sinh hoạt tộc họ của người Chăm.

3. Kết quả và thảo luận

     3.1. Tộc họ người Chăm

     Tộc họ và sự hình thành tộc họ người Chăm: Họ, tộc họ hay dòng họ của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận là một thuật ngữ dùng để chỉ một cộng đồng bao gồm những người có quan hệ huyết thống với nhau tính theo hệ mẹ, thường sống tập trung theo một khu vực nhất định ở trong làng có sự thống nhất với nhau về kinh tế xã hội và tư tưởng biểu hiện trong ý thức và thực tế đời sống. Đối với người Chăm vì theo chế độ mẫu hệ, tức là chế độ quan hệ theo mẹ, cho nên tộc họ người Chăm là nhóm các gia đình mà những người phụ nữ chính của các gia đình đó (bà mẹ, bà vợ) có cùng quan hệ huyết thống theo dòng mẹ. Để dễ hình dung chúng ta đơn cử với nhóm các gia đình 2 thế hệ: cha mẹ – con cái. Nếu những gia đình mà các người mẹ (hoặc vợ) trong những gia đình đó do một bà sinh ra thì những gia đình đó thuộc về một tộc họ của người bà đó. Từ đó tính ngược lên hoặc xuôi xuống đối với các gia đình hiện hữu, sẽ có được số gia đình thành viên của một dòng họ. Trong tiếng Chăm, thường dùng từ “gơp” để chỉ chung cho khái niệm “bà con, tộc họ”. Còn khi muốn tách bạch cho rõ ràng, người Chăm gọi bà con cùng tộc họ là “gơp sa kut” (bà con một kut), “gơp sa chiet atuv” (bà con cùng một chiết atâu) và “gơp gah amaik” (bà con bên mẹ, bên nội). Cả 3 khái niệm về mối quan hệ này cũng đều chỉ là “bà con cùng tộc họ” nhưng có điều khác nhau ở mức độ phạm vi rộng, hẹp mà thôi, trong đó quan hệ trước là cao, rộng nhất và bao trùm quan hệ sau. Còn “gơp gah amư” là bà con bên cha người Chăm xem như bên ngoại và “gơp gơn” hoặc “gơp palei” là hàng xóm láng giềng, người cùng làng thì không thể là cùng tộc họ. Vì vậy, từ đây trở đi, khi nói “gơp” mà không phân biệt thì nên hiểu đó là bà con cùng tộc họ, theo cách hiểu của dân gian.

     Cơ chế tổ chức và mối quan hệ xã hội trong tộc họ người Chăm: Vì theo chế độ mẫu hệ, mỗi tộc họ có một bà tổ họ. Do người Chăm không có tập tục lập và lưu truyền gia phả nên trải qua bao đời từ thế hệ này sang thế hệ khác ít có tộc họ nào có thể biết được lai lịch bà tổ của họ, người lớn tuổi nhất còn sống trong tộc họ của họ chỉ có thể biết đến lai lịch khoảng 3 đời trước mình. Tại một thời điểm cụ thể, người phụ nữ thuộc lớp cao nhất còn sống trong tộc họ, đương nhiên giữ nhiệm vụ chủ họ, tiếng Chăm gọi là “akaok gơp”. Nếu trong lớp đó, hiện có nhiều phụ nữ, thì người phụ nữ có vai vế cao hơn làm chủ họ, là bà chủ lễ múa của tộc họ, tiếng Chăm gọi là “muk rija, giữ và trông coi “chiêt atuv” của tộc họ. Có tộc họ, người chủ họ là trưởng họ, giữ vai trò điều hành, chủ trì việc tổ chức các lễ tục và một số công việc khác của tộc họ. Nhưng cũng có tộc họ, vừa có chủ họ, vừa có thêm một vị trưởng họ, được cả họ tộc thống nhất cử ra. Đối với những tộc họ này, chủ họ chỉ mang tính biểu trưng tinh thần và trực tiếp trong một số lễ thức của dòng họ, còn vị trưởng họ thường là người đàn ông của tộc họ (chứ không phải rể họ) có vai vế cao, là nhân sĩ, trí thức hoặc chức sắc có uy tín và khả năng điều hành, tổ chức trong tộc họ.

     Trong tộc họ Chăm theo chế độ mẫu hệ và hôn nhân ngoại tộc họ, những đàn ông thuộc họ này khi trưởng thành lấy vợ, phải về ở với vợ, trở thành một thành viên của gia đình tách lập mới, mà gia đình đó là thành viên của tộc họ vợ. Tuy nhiên, người đàn ông này không phải là thành viên của tộc họ bên vợ. Trong những hoạt động tinh thần tín ngưỡng của tộc họ bên vợ, các ông rể này được người Chăm gọi là “urang parat” (người ngoại hệ tộc, kẻ xa lạ, người dưng khác họ), không được tham gia bàn bạc và quyết định. Những sinh hoạt tín ngưỡng tinh thần của người đàn ông này do tộc họ của người đàn ông (tộc họ mẹ hoặc chị, em gái) đó lo liệu, phụng tự theo quan hệ huyết thống. Vì vậy mà người đàn ông có nghĩa vụ, trách nhiệm tham gia các công việc của tộc họ mình; nếu có khả năng và uy tín, những người đàn ông này có thể được tín nhiệm cử làm tộc trưởng, cùng với chủ tộc họ điều hành tổ chức các hoạt động công việc của tộc họ mình. Với quan hệ tộc họ như vậy thì 3 người đàn ông thuộc 3 thế hệ của một gia đình người Chăm (cha, ông, con trai) không thể cùng là thành viên của một tộc họ được.

     Trong khi đó, đối với người đàn bà trong gia đình Chăm thì quan hệ giữa mình với người đàn bà đã sinh ra mình và với tất cả những người do mình trực tiếp sinh ra (cả trai và gái) đều là thành viên của tộc họ. Chẳng những theo chiều dọc mà sự liên kết tộc đó còn theo chiều ngang với các anh, chị, em cùng mẹ với mình. Tất nhiên sự quan hệ sẽ tiếp tục liên kết qua đời kế tiếp của người chị gái hoặc em gái của người đàn bà đó nữa, nhưng đối với anh, em trai thì chỉ tới bản thân anh ta thôi, còn vợ con anh ta đã thuộc tộc họ khác. So sánh theo người Việt, những người quan hệ theo mẹ là bên nội, còn các mối quan hệ theo cha là bên ngoại.

     Mỗi tộc họ thường có nhiều dòng họ “talei gơp” trong đó có dòng gốc và các dòng nhánh tách ra từ dòng gốc. Ban đầu sơ khai dòng của người mẹ tổ là dòng gốc. Bà mẹ là chủ tộc giữ “chiet atuv” và giữ các ché, người Chăm gọi là “chaih” (từ 2 – 3 cái). Khi bà qua đời, người con gái thừa tự bà (thường là con gái út, nếu bà có nhiều con gái) sẽ tiếp tục vai trò của bà. Trong lúc các con gái lớn của bà lấy chồng lập gia đình ra ở riêng, sinh sôi nảy nở, sinh con đẻ cháu và đương nhiên hình thành các chi nhánh phụ bên cạnh dòng chính gốc của người em út. Trường hợp phụ nữ dòng gốc, chủ tộc họ không có con gái thì khi bà qua đời, vai trò chủ tộc họ, giữ chiet atuv, giữ ché sẽ được chuyển sang cho người phụ nữ có vai vế cao và lớn tuổi trong tộc họ.

     Tùy theo đặc điểm lịch sử, các dòng họ có tên gọi khác nhau. Thường thì tên của một dòng họ đặt theo tên nghĩa địa của dòng họ đó. Đối với người Chăm Bàlamôn gọi là Kút làng Hữu Đức, Kút họ Ninh Pui, làng Mỹ Nghiệp Kút họ Kadak, Kut ôn. Đối với người Chăm Bàni thì nghĩa địa gọi là Ghur Răk. Tên nghĩa địa của dòng họ thường đặt theo đặc điểm lịch sử vị thần được thờ phụng của tộc họ trong thời gian lập nghĩa địa, hay địa hình lập nghĩa địa. Ví dụ làng Chăm Bàlamôn ở Hiếu Lễ – xã Phước Thuận – huyện Ninh Phước có 2 dòng họ lớn là dòng “Chỏng” và dòng họ “Đăk”. Đây là tên gọi theo địa hình lập Kút. Kút của hai dòng họ này có tên gọi là Kút Chỏng và Kút Đăk. Ngoài ra còn một số dòng nhỏ như dòng họ gia đình vì một lý do nào đó tách ra khỏi dòng họ lớn. Ở thôn Phước Nhơn, An Nhơn – xã Xuân Hải, huyện Ninh Hải có 36 dòng họ, có tên gọi như Pô Rômê, Pô Dam…

      Ngoài ra, tên của tộc họ cũng được đặt theo họ của bà tổ họ. Trong xã Phan Hiệp, thôn Bình Đức có các tộc họ Đơn, tộc họ Nguyễn… Thôn Bình Tiến có họ Diên, họ Lâm, họ Táo, Ức, Huỳnh, Lư, Khê…, thôn Bình Hiếu có tộc họ Đàng, tộc họ Đặng, tộc họ Kim,… Các tên họ này không phải phiên âm từ tên họ Chăm mà do người Việt đặt cho theo tiếng Việt khi làm các giấy tờ hộ tịch trước đây, được lưu giữ mãi cho đến ngày nay. Theo chế độ mẫu hệ cổ truyền, những đứa con sinh ra, nhất là con gái, đều phải lấy theo họ mẹ. Do đó cả tộc họ, dòng gốc cũng như các chi nhánh, từ đời này qua đời khác, các thành viên đều giữ được cùng một họ, dễ nhận biết là bà con của nhau, dễ tránh quan hệ hôn nhân cùng tộc họ. Nhưng kể từ sau năm 1945, đối với những gia đình có người cha là công chức hoặc đi lính, phải làm giấy khai sinh cho con mang họ cha để được hưởng chế độ lương, phụ cấp. Xu hướng này ngày càng lan truyền rộng.

     Trải qua nhiều thế hệ chưa thấy có quy ước, quy chế, điều lệ thành văn hay truyền khẩu để xác định nghĩa vụ, quyền hạn, trách nhiệm và các biện pháp chế tài đối với các thành viên trong tộc họ mà tất cả các vấn đề này đều hoàn toàn có tính mặc định, hiểu ngầm, tự nguyện, tự giác tham gia và tuân thủ.

     Cơ sở biểu hiện và ảnh hưởng của quan hệ tộc họ

     Trong một số lễ cúng: Cũng như các tộc người khác, người Chăm cũng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, một dạng giá trị tinh thần, thông qua tập tục thờ cúng tổ tiên ông bà. Nhưng đối với người Chăm, dưới ảnh hưởng của các tôn giáo, việc thờ cúng tổ tiên biểu hiện thông qua nhiều hình thức, nội dung và các mối quan hệ khác nhau, trong đó có các hình thức thờ cúng tổ tiên thuộc về quan hệ tộc họ.

     Mỗi tộc họ đều thờ chung một loại “atuv” có thể tạm gọi là linh hồn tổ tiên ông bà của tộc họ, cho dù là người Chăm Bàlamôn hay Chăm Bàni “atuv” là bao trùm, bao quát, không cụ thể là linh hồn của cá nhân hoặc nhóm nào trong tộc họ cả. Tùy theo tộc họ, có tộc họ theo “Atuv Chơk” (núi), có tộc họ theo Atơu Tathik (biển). Biểu trưng của tín ngưỡng gia đình tộc họ thờ cúng tổ tiên “atuv” là mỗi tộc họ có một “chiêt atuv” và một số cái “Chaih” (ché).

     “Chiêt” là một loại đồ chứa đựng giống như một cái hộp vuông vức cao khoảng 35 – 40 cm, rộng khoảng 50 – 60 cm, đan bằng tre, có 2 phần giống nhau, làm thân và làm nắp úp chụp vào với nhau, có dóng bằng sợi mây đan ở 4 góc dùng để xách hoặc treo cho dễ. Trong “chiêt atuv” của mỗi tộc họ, thông thường có áo, chăn, khăn và một số vật dụng khác, tùy theo loại atơu và tộc họ. Đây là trang phục cho người đàn bà chủ tộc họ (muk rija, muk janhơng) và các lễ phục để các thầy bóng mặc tượng trưng khi hành lễ “rija” ngoài ra còn có trang phục thờ tượng trưng của các cậu nhỏ (đều là cháu trai) chết do trụy thai chưa thành người được đưa vào “chiêt atuv” để thờ được dùng trong khi thực hiện các nghi lễ liên quan đến cúng “atuv”. “Chiêt atuv”được treo giữ sát trần nhà của gia đình chủ dòng tộc họ và chỉ được đem xuống mở ra khi thực hiện các nghi thức cúng lễ liên quan. Đó là nghi lễ cúng nhập tộc họ “êv atuv praok” và nghi lễ múa “rija” bao gồm “rija harei” (ban ngày), “rija dayơp” (ban đêm), “rija praong” (lớn).

     Lễ cúng nhập tộc họ “êv atuv praok” thực hiện khi con cái mới sinh ra, trẻ nhỏ bị ốm đau, có ý nghĩa thông báo với tổ tiên về sự ra đời của thành viên mới và cầu mong được che chở phù hộ để không bị người cõi âm quấy phá.

     Lễ múa “rija harei” là lễ nghi của tộc họ hoặc gia đình, để cầu xin tổ tiên, thần linh che chở, phù hộ cho thành viên trong gia đình, tộc họ hoặc tâu trình với tổ tiên xin phép để thực hiện một việc quan trọng trong gia đình, tộc họ.

     Lễ múa “rija dayơp” là lễ múa của tộc họ, hoặc của gia đình tổ chức để thực hiện lời hứa trước đó khấn vái “Bbwơn” cầu xin tổ tiên, thần linh cho bớt bệnh tật, tai họa. Có khi đây là lời khấn hứa của người lớp trước trong tộc họ khi qua đời không nói lại, để quên lâu thành nợ khấn vái “thraiy lihik pabah”, người cõi âm quấy phá, phải làm để trả nợ.

     Lễ múa “rija praong” đúng như cái tên của nó, lớn nhất trong các lễ múa “Rija” người Chăm, thường diễn ra trong 7 ngày đêm nên chi phí lớn, phải là cả tộc họ cùng chung đậu mới đủ sức thực hiện cho nên rất ít khi được tổ chức. Lễ múa này tuy cũng để cầu xin với tổ tiên, thần linh được tai qua nạn khỏi nhưng ít khi cho một thành viên nào đó trong tộc họ mà thường là khi trong tộc họ gặp phải nhiều sự bất trắc liên quan đến sinh mạng, sức khỏe, tài lộc, lặp đi lặp lại làm cho người ta nghĩ rằng cõi âm của tộc họ có vấn đề; hoặc có họ thực hiện theo định kỳ. Thông thường lễ múa “rija praong” cũng là dịp để tộc họ kết hợp tổ chức “muk janhơng” cho tộc họ và cũng nhân cơ hội này các thầy lễ phần hành, các nghệ nhân múa như “Ông Mưdwơn”, “Ông taong”, “Ông yuk” được thụ giáo hoặc thăng cấp, bậc.

     Thông thường, mỗi dòng tộc họ chỉ có một “chiêt atuv”. Song có tộc họ, ở những chi nhánh phụ tách ra lại có “chiêt atuv” riêng, để bớt phụ thuộc và cũng có thể phát sinh từ sau một xích mích, bất hòa nhỏ. Khi một gia đình thành viên của tộc họ có nhu cầu lễ cúng “êv atuv praok” hoặc lễ cúng “rija”, thì đến trao đổi với chủ tộc họ, người giữ “chiêt atuv” để thống nhất người múa và việc xin rước “chiêt atuv”, sau đó mới đến ông mưdwơn xin ngày tháng. Trong trường hợp này gia đình thành viên tự lo chi phí thực hiện các lễ cúng. Còn trong trường hợp các lễ cúng thuộc về tộc họ, thì hoặc quỹ của tộc họ chi hoặc các gia đình thành viên đóng góp theo định mức phân bổ thành kinh phí của tộc họ chi.

     “Chaih” là cái ché để ủ làm rượu cần, một vật lễ đặc trưng không thể thiếu trong lễ “pwiss payak” (đây là loại lễ cúng có tính chất lệ tộc họ để trả lễ và thết đãi thần linh, theo định kỳ 7 năm tiến hành một lần, luân phiên giao cho mỗi dòng “talei” trong tộc họ). Chaih để tại nhà của chủ dòng họ (như nhà thờ họ của người Việt), khi đến phiên dòng nào của tộc họ làm thì đến rước; song cũng có khi luân phiên cất giữ: sau lần cúng “pwiss payak”, nếu sắp đến lượt của dòng nào thì chủ của dòng đó có trách nhiệm cất giữ.

     “Chiêt atuv” và “Chaih” là biểu hiện thống nhất về mặt tinh thần, tư tưởng của tộc họ mà bất kỳ người Chăm nào cũng có (dù là Bàlamôn hay Bàni).

    Đối với các thành viên của tộc họ đang sinh sống, làm ăn ở gia đình thành viên tộc họ khác, tức là đối với những đàn ông của tộc họ lấy vợ, theo vợ, nếu bản thân ông ta có nhu cầu khấn vái các lễ cúng trên đây cho bản thân ông ta thì gia đình vợ con ông ta phải đến trao đổi thống nhất với người mẹ (nếu còn sống) hoặc chị, em gái của ông ta để được những người này hoặc trực tiếp hoặc thông qua chủ tộc họ, hoặc có khi là thông qua ông mưdwơn khấn vái và khi thực hiện lễ cúng chỉ do gia đình người mẹ (nếu còn sống) hoặc chị, em gái cùng tộc họ của ông ta tiến hành mà thôi, còn gia đình vợ con phải có trách nhiệm tham gia công sức tiền bạc, chứ không thể bỏ mặc cho tộc họ mẹ, chị, em gái của chồng mình được.

     Hình thức thờ cúng tổ tiên ông bà khác của người Chăm liên quan đến tộc họ là lễ cúng “Katê”, “Chabbur” (Bàlamôn) và “êv mukkei” (Bàni). Tuy nhiên các lễ cúng này hẹp hơn, chỉ trong phạm vi dòng họ “talei gơp”, thông thường là mỗi gia đình thành viên (Chăm Bàlamôn) thực hiện một năm/lần luân phiên hoặc do gia đình chủ “talei” thực hiện có sự chung đậu, tham gia đóng góp của các gia đình thành viên. Trong các lễ cúng này, dù ở gia đình nào, thì bao giờ cũng có một gian riêng để cúng cho chồng (hoặc cha), mặc dù bên tộc họ của chồng, cha đã được mẹ, chị em gái của chồng, cha cúng chung cùng với tổ tiên tộc họ bên đó. Còn đối với Chăm Bàni phải cúng Mukkei một năm 3 lần vào những đầu và cuối tháng Ramưwan và cúng sau 100 ngày tính từ ngày bắt đầu vào tháng Ramưwan. Ngoài ra, có tộc họ còn có lệ cúng giải hạn đầu năm Chăm lịch, luân phiên nhau thực hiện. Lễ cúng này do thầy Chang Bàni làm chủ lễ.

     Hôn nhân của người Chăm: Họ tộc ở người Chăm hàm chứa một số đặc trưng cơ bản, trước hết đó là một tập thể ngoại hôn. Tất cả những người cùng một “gâup gan” được gọi là “pupah” với nhau, cùng thờ cúng một “atâu” dù xa đến mấy đời cũng không được có quan hệ hôn nhân với nhau. Người trong họ lấy nhau bị coi là tội loạn luân (agăm), phải làm lễ tạ tội tại nghĩa địa. Cho đến nay nguyên tắc ngoại hôn dòng họ vẫn được người Chăm luân thủ nghiêm khắc. Cha mẹ thường dạy cho con cái rất kỹ càng về nguyên tắc này, chỉ rõ cho con cái biết ai có thể kết hôn được, ai không thể được.

     Những người cùng chung một dòng họ tính theo huyết thống bên mẹ thì dù cách nhau mấy chục đời cũng không được kết hôn với nhau. Nếu kết hôn với nhau thì bị quy vào tội loạn luân. Nếu như mẹ anh A và mẹ cô B cùng ở một dòng họ, cách nhau mấy chục đời, nhưng anh A và cô B không thể kết hôn được. Tuy nhiên nếu cha anh A và cô B ở chung một dòng họ, nhưng cách nhau ba đời thì anh A và cô B có thể kết hôn với nhau được. Như vậy hôn nhân trong cùng một dòng họ tính theo mẹ là một điều tối kị đối với đồng bào Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận.

     Theo đó, nam nữ cùng một tộc họ, đặc biệt là quan hệ con dì con dà không được kết hôn với nhau, còn con cô con cậu do không cùng tộc họ có thể lấy nhau nhưng phải cách 3 đời trở lên. Trong hôn nhân, việc tham gia hỗ trợ và chứng nhận của tộc họ mang tính cộng đồng được mọi người quan niệm là rất quan trọng, không thể không có, đôi khi bỏ qua, không cần cơ sở pháp lý của chính quyền. Do vậy, mối quan hệ ràng buộc chi phối của tộc họ đến quan hệ hôn nhân có nhiều ảnh hưởng khá sâu sắc. Khi thành viên trong gia đình của một tộc họ kết hôn, gia đình phải báo cho tộc họ để các vị chủ chốt tộc họ thể hiện chức năng đại diện cho tộc họ trong các bước hôn nhân như dạm hỏi, lễ cưới… Các thành viên trong tộc họ cùng tham gia lo khâu tổ chức và tham dự lễ cưới, chúc tụng biếu quà cho đôi vợ chồng mới. Tộc họ nào lớn, có nhiều thành viên cùng tộc họ đưa rể, tặng quà thì đôi vợ chồng mới vinh dự, hãnh diện và tự hào. Nếu người nào ít tộc họ thì rất tủi thân.

     Trước năm 1975, hôn nhân phải theo môn đăng hộ đối giữa các tộc họ: người quí tộc, tiếng Chăm gọi là “bak baoh”, phải lấy người quí tộc, không cho lấy tộc họ dân thường. Để duy trì và thuần khiết tộc họ, tộc họ cũng có sự ràng buộc hôn nhân cùng dân tộc, cùng tôn giáo, trong đó có điều lưu truyền khá nghiêm ngặt là người Chăm theo đạo Bàlamôn không được lấy người Chăm theo đạo Bàni, mặc dù cả hai đều là người Chăm. Có lẽ đây là lời nguyền thuở xa xưa giữa những người theo hai tôn giáo khác nhau hoặc cũng có thể trong nghi thức tín ngưỡng không dung hòa với nhau được, hiện nay vẫn còn cấm kị. Điều cấm kị đó thể hiện là nếu có đôi nam nữ theo hai tôn giáo trên lấy nhau, vô phúc một trong hai thuộc đạo Bàlamôn qua đời trước thì người còn lại không thể đụng chạm đến thi thể của vợ (chồng) mình được. Ngược lại nếu một trong hai thuộc đạo Bàni qua đời trước thì người theo đạo Bàlamôn không cấm kị điều này. Do vậy mà người Chăm Bàlamôn thường nói nếu phải lấy người ngoại tộc, ngoại đạo thì lấy người Việt, người Nùng, các tộc người miền núi có thể chấp nhận được hơn là lấy người Chăm theo đạo Bàni. Đối với phụ nữ Chăm Bàni gần như cấm kỵ lấy người ngoại đạo nhưng vì một lý do nào đó phải kết hôn với người ngoại đạo thì người đó phải làm lễ vào đạo Bàni và phải được đưa vào gia đình tộc họ. Con trai Bàni cũng rất ít xảy ra việc kết hôn với phụ nữ Bàlamôn vì họ sợ con cái họ khi chết phải làm lễ thiêu là điều mà họ rất kiêng kị.

    Trước đây, trong thời tư hữu ruộng đất, khi về ở làm ăn bên vợ, người đàn ông Chăm thường không mang theo trâu bò, ruộng nương của mình mà tất cả tư liệu sản xuất hoặc có sẵn bên gia đình vợ hoặc được gia đình cha mẹ vợ san xẻ. Tuy nhiên, có một số trường hợp, gia đình tộc họ bên người đàn ông khá giả thì có thể cho con một ít ruộng hoặc đôi trâu làm của hồi môn, nhưng khi người đàn ông này qua đời, tộc họ ông ta sẽ thu hồi lại chứ không cho hẳn.

Còn tiếp. Kính mời Quý độc giả xem tiếp:

Tộc họ và những biến đổi trong sinh hoạt tộc họ của người Chăm ở Ninh Thuận và Bình Thuận (Phần 2)

Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một, số 4 (43)-2019

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)