Tranh tết vùng đồng bằng Bắc bộ

TET PAINTINGS IN THE NORTHERN DELTA

Tác giả bài viết: LÊ HOÀI ĐỨC
(Khoa Giáo dục Tiểu học và Mầm non)

TÓM TẮT

     Trong kho tàng mĩ thuật cổ Việt Nam có một mảng tranh rất quý giá còn lưu truyền đến ngày nay. Đó là dòng tranh chơi tết, tranh tết là nét đẹp không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt xưa mỗi dịp xuân về. Tranh dân gian Việt Nam nói chung và tranh tết nói riêng có thể coi là một bách khoa thư về đời sống của người Việt, từ những quan niệm vũ trụ cho đến các tư tưởng khai phóng, đề cao giá trị nhân văn bên trong mỗi con người đều được hiện diện. Tranh tết vùng đồng bằng Bắc bộ xưa nổi tiếng với những làng tranh như Đông Hồ, Hàng Trống và Kim Hoàng. Các dòng tranh này chủ yếu thuộc thể loại tranh khắc gỗ, tùy theo từng dòng tranh mà người xưa vận dụng các hình thức khắc, in, vẽ thế nào cho phù hợp. Các quy trình kỹ thuật khắc, in, vẽ này đều đem đến một hiệu quả thẩm mĩ khác nhau, làm nên sự phong phú đa dạng của nghệ thuật đồ họa dân gian Việt Nam.

Từ khóa: Đồ họa, tranh dân gian, tranh tết, tạo hình, khắc gỗ, Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng.

ABSTRACT

     In the treasure of Vietnamese ancient art, there is a very valuable painting still circulating to this day. That is the line of Tet paintings, which are an indispensable beauty in the cultural and spiritual life of the ancient Vietnamese when spring comes. Vietnamese folk paintings in general and Tet paintings in particular can be considered an encyclopedia about Vietnamese life, from cosmic conceptions to liberal ideas, promoting human values within each man. Tet paintings in the old Northern Delta were well-known with painting villages such as Dong Ho, Hang Trong and Kim Hoang. These lines of paintings were mainly in the wood-carving genre. Depending on each line of paintings, the ancient people applied the appropriate forms of carving, printing and drawing. These technical processes of engraving, printing and drawing all bring about a different aesthetic effect, making up the diverse richness of Vietnamese folk graphic art.

Key words: graphics, folk paintings, Tet paintings, shaping, wood-carving, Dong Ho, Hang Trong, Kim Hoang.

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Tranh dân gian là một thể loại tranh ra đời từ rất lâu, được truyền từ đời này qua đời khác và đến tận ngày nay. Tranh được sáng tạo nhờ trí tuệ của tập thể, của nhân dân và gồm nhiều thể loại, trong đó có thể kể đến hai thể loại chính là tranh tết và tranh thờ, một số tranh thờ lại chủ yếu được dùng vào dịp tết. Để tìm nguồn gốc và thời điểm ra đời của tranh dân gian, nhiều nhà nghiên cứu mĩ thuật đã đưa ra nhiều sự phóng đoán khác nhau.

     Trong thư tịch cổ ta đã biết ở thời Lý vua Lý đã cho vẽ tranh “Thất thập nhị hiền” để thờ ở Văn miếu. Đến đầu thời Trần có bộ tranh chân dung những người có công trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Trần Nghệ Tông cho vẽ tranh “tứ trụ” để ban tặng cho một số đại thần. Một dữ liệu vô cùng quan trọng có liên quan mật thiết đến tranh dân gian là việc Hồ Quý Ly cho ban hành tiền giấy năm 1397. Với việc triều đình ban hành tiền giấy cho thấy kĩ thuật in ấn đã rất phát triển vào cuối thế kỷ XIX, đó là tiền đề cho tranh dân gian, tranh tết sau này. Mặc dù chưa xác định được niên đại chính xác nhưng chúng ta đều biết rằng một trong những mảng tranh dân gian là tranh tết. Vậy thì tranh tết phải được sáng tác để phục vụ nhu cầu tranh trong ngày tết cho mọi tầng lớp xã hội. Đó là một cơ sở giúp ta tìm hiểu sự ra đời của tranh dân gian [1, tr.69].

      Tranh tết là một phần quan trọng trong toàn bộ nền văn hóa dân tộc, ở đó thể hiện những nét độc đáo trong sinh hoạt, vui chơi, lễ hội và truyền thống dân tộc. Tranh có cội nguồn từ xa xưa và ra đời phục vụ cho nhu cầu chơi tranh nhân dịp tết đến xuân về và nhu cầu thờ cúng của đông đảo quần chúng nhân dân trước kia cũng như hiện nay. Khi những nhu cầu đó không được thỏa mãn trong dòng nghệ thuật chính thống cũng chính là lúc đòi hỏi phải có một dòng nghệ thuật dân gian ra đời. Dòng nghệ thuật dân gian do chính những người dân sáng tạo ra, mang theo những nội dung người dân yêu thích và được thể hiện bằng một ngôn ngữ dễ hiểu, đơn giản. Tranh dân gian chơi tết được sản xuất ở nhiều vùng khác nhau như Đông Hồ (Bắc Ninh), Hàng Trống (Hà Nội), Kim Hoàng (Hà Tây cũ) ngoài ra trên các vùng núi còn có tranh vẽ tay của đồng bào dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Cao Lan… phục vụ mục đích tôn giáo tín ngưỡng là chủ yếu. Tuy vậy trong số các dòng, các vùng làm tranh nêu trên thì tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống là hai dòng tranh khắc có truyền thống lâu đời hơn cả. Ngoài ra các thể loại tranh của tranh tết Đông Hồ, Hàng Trống cũng đầy đủ hơn, do đó bài viết sẽ đi sâu vào hai dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống.

2. Nội dung

     2.1. Tranh tết Đông Hồ

     2.1.1. Làng tranh Đông Hồ

     Làng Đông Hồ xưa có tên chữ là làng Đông Mại, tên nôm là làng Mái thuộc tổng Hồ, huyện Siêu Loại, trấn Kinh Bắc, người ta thường gọi tắt là làng Hồ. Làng Hồ nằm bên cạnh sông Thiên Đức (sông Đuống) nay thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, cách Hà Nội 40km. Sông Đuống thuộc vào huyết mạch giao thông của đồng bằng châu thổ sông Hồng, nên nó cũng là dòng thủy lưu để các nhà buôn xưa cất tranh đi bán khắp các thôn cùng ngõ hẻm.

     Đông Hồ từ lâu đã nổi tiếng khắp vùng Kinh Bắc với các sản phẩm thủ công độc đáo như vàng mã và tranh khắc gỗ dân gian. Từ vàng mã cho đến tranh, người ta làm, in, vẽ, quẩy đi bán ở khắp các làng quê Bắc bộ. Tranh Đông Hồ xưa hầu hết là phục vụ cho nhu cầu tân trang nhà cửa, sửa sang lại các không gian tâm linh thờ cúng vào mỗi dịp xuân về tết đến của người dân khắp các vùng thôn quê, để nhà nhà người người mong đón một năm mới tràn đầy sinh khí.

     2.1.2. Ván in và giấy in tranh

     Tranh tết Đông Hồ là thể loại tranh khắc gỗ màu, có nhiều ván in. Kỹ thuật khắc in gỗ cũng là một kỹ thuật chiếm vị trí quan trọng trong đời sống người Việt xưa. Người xưa sử dụng kỹ thuật này để in kinh sách Phật giáo nhằm hoằng dương giáo lý đạo Phật. Người dân thôn quê xa xưa phần nhiều là dân nghèo, chỉ biết việc đồng áng nhưng sùng tín Phật pháp nên rất nhiều cuốn kinh sử dụng tranh minh họa là chính, chữ để tụng, để nhớ là phụ, thông qua việc truyền miệng mà thuộc lòng. Bởi vậy nên việc khắc in tranh cũng hết sức phổ biến. Qua sự bồi đắp của quá trình lịch sử lâu đời, cho đến nay, tranh tết Đông Hồ đã có đến ngàn vạn bản in, hàng trăm mẫu khắc, thấm đượm tinh hoa hồn cốt Việt.

     Ván gỗ khắc tranh Đông Hồ được chia làm hai loại: ván in màu và ván in nét. Ván in màu thường được làm bằng gỗ dổi hay gỗ vàng tâm – loại gỗ nhẹ, thớ mềm xốp, dễ thấm hút nên dùng in mảng màu thì rất đượm. Tranh có bao nhiêu màu thì sẽ có bấy nhiêu ván in màu [1, tr.268].

     Ván in nét thường được làm bằng gỗ thị – loại gỗ có thớ đa chiều, khiến nghệ nhân khi khắc có thể tạo tác một cách tinh vi với các nét mảnh và nhỏ. Khi tạo hình, các nét trong tranh phải đủ thoáng để vận dụng kỹ thuật khắc chân đê – tức nét trên về mặt thì mảnh, nhỏ, nhưng hai thành gỗ thoải xuống mặt ván khắc lõm lại choãi. Kỹ thuật này giúp cho nét khắc vừa tinh tế nhưng vẫn bền trong quá trình in nhân bản nhiều lần. Một bức tranh dân gian Đông Hồ chỉ có một ván in nét.

     Cách thức in của hai loại ván cũng khác nhau. Ván nét thường do các nghệ nhân có tay nghề thực hiện vì yêu cầu kĩ thuật cao. Mẫu tranh thường được vẽ trên một tờ giấy mỏng bằng bút lông với nét đậm nhạt khác nhau. Sau đó họ dán, áp ngược bức tranh này lên ván gỗ để khắc. Cách làm này khiến bản khắc khi được hoàn thiện sẽ thành tranh xuôi chiều, thuận đúng như nét vẽ ban đầu. Khắc ván in màu cũng cần có sự tính toán. Thông thường tranh Đông Hồ có bốn ván màu gồm : đỏ, vàng, xanh, lục, trắng. Để khắc cho chuẩn xác, các nghệ nhân sẽ in ván nét ra làm nhiều bản, rồi quy định mảng màu và dán lên ván để khắc [4, tr.113].

     Giấy in tranh Đông Hồ thường là giấy dó quét điệp. Giấy dó thường được cất về từ các làng lân cận như làng Đống Cao cách làng Hồ khoảng 12km. Điệp là vỏ con sò điệp, được lấy về từ vùng biển theo sông Đuống trở về làng và được các nghệ nhân tự chế tác để làm nền cho tranh. Kỹ thuật này khá cầu kỳ. Vỏ điệp được nướng lên, loại bỏ lớp vỏ ngoài, chỉ lấy lớp vỏ xà cừ óng ánh, đem giã nhỏ, tán mịn. Sau đó, bột điệp này được trộn với hồ nếp theo tỷ lệ công thức gia truyền rồi dùng chổi tết bằng lá thông quét đều lên trên giấy dó mỏng. Lớp hồ điệp này khi khô sẽ khiến tờ giấy dó trở lên vừa cứng, lại vừa sang quý. Ánh điệp như ẩn vào nền giấy lấp lánh mà giản dị. Những vệt chổi thông tạo ra những ganh ngang, ganh dọc trên nền tranh cũng làm nên nét đặc sắc riêng cho tranh Đông Hồ.

     Tranh dân gian Đông Hồ đáp ứng nhu cầu thẩm mĩ xưa ở các làng quê Bắc bộ (chủ yếu là nhà tranh, vách đất), nên khuôn khổ tranh phổ biến nhất vẫn là dạng “lá mít” khoảng 18 x 23cm.

     2.1.3. Màu sắc và cách thức in tranh

     Kỹ thuật chế thuốc cái – tức màu in cho tranh Đông Hồ cũng là một ngón nghề. Các màu chủ yếu được tạo từ vật liệu và thảo mộc có sẵn trong tự nhiên. Màu trắng điệp được lấy từ vỏ con điệp, tán nhỏ mịn. Màu vàng lấy từ hoa hòe hay hạt dành dành, đun lên rồi cô đặc lại. Màu đỏ vàng lấy từ gỗ cây vang trên rừng, chẻ nhỏ, đun kỹ, cô đặc thành màu đỏ sẫm. Màu đỏ son lấy từ bột sỏi son, tán nhỏ mịn. Màu đỏ còn có đỏ điều, đỏ hoa hiên, đỏ cánh quế, đỏ cánh sen, đỏ hoa đào là các màu được pha chế gia giảm. Màu xanh lục lấy từ lá chàm ngâm cho đến khi nát rữa, đánh tơi nổi bọt, vớt lấy bọt chàm nổi ở giữa và gạn lọc kỹ cho hết chất vôi, cô đặc thành màu. Màu đen được chế từ than lá tre, than rơm. Than càng được ngâm kỹ thì màu đen càng đậm. Do màu in tranh là màu tự nhiên nên khi in có chất chắc đanh, nhưng lại mềm xốp, ít bị phai màu. Màu in tranh được in trên giấy điệp óng ánh cũng góp phần làm cho tờ tranh có màu trong và sâu hơn.

     Tranh Đông Hồ được in theo phương thức sấp ván, nghĩa là cầm ván in mà dập xuống bố màu (lớp vải có thấm màu) sao cho màu thấm đều, rồi ấn ván in đó lên chồng giấy như cách đóng dấu. Sau đó nghệ nhân lật ván và tờ tranh lên sao cho tranh không bị xê dịch, rồi dùng xơ mướp xoa đều để màu in thấm đủ lên tờ tranh. Nhấc tờ tranh ra khỏi ván, phơi khô rồi mới in màu tiếp theo.

     Tranh Đông Hồ bao giờ cũng in các ván màu trước. Quy trình in màu được diễn ra theo thứ tự : đỏ – xanh – vàng – trắng… mỗi lần in chỉ in được một màu. Sau khi in đủ màu, người ta mới in đến ván nét đen (hay còn gọi là kỹ thuật cắt nét), đây là công đoạn khó nhất, đòi hỏi người thợ phải thật khéo léo sao cho nét đen được đều đặn. Tranh in xong sẽ được phơi để tránh ẩm mốc. In tranh dân gian phụ thuộc khá nhiều vào thời tiết, người ta hay làm vào những ngày nắng, sẽ tiện cho việc phơi tranh và nghỉ vào những ngày ẩm thấp vì tranh khó khô. Có thể nói, sáng tạo nên một tờ tranh từ những mẫu hình cho đến kỹ thuật in ấn là cả một quá trình tích lũy kinh nghiệm và tri thức dân gian của nhiều thế hệ.

     2.1.4. Đề tài và đặc trưng thẩm mĩ của tranh

     Đề tài tranh dân gian Đông Hồ được chia làm tám loại: tranh chúc tụng, cầu phúc (Vinh hoa, Phú Quý, Thiên hạ thái bình…), tranh Tôn giáo, thờ cúng, tranh bùa chú trấn trạch, tranh mã (Tử Vi, Vũ Đinh, Thiên Ất,, Ngũ hổ, Phật Bà….), tranh cảnh vật, tranh lịch sử (Bà Triệu, Ngô Quyền…), tranh truyện (Thạch Sanh, Trê Cóc…), tranh sinh hoạt xã hội (Chợ quê, Hứng dừa, Đấu vật…), tranh châm biếm (Đánh ghen, Đám cưới chuột…), tranh tuyên truyền cổ động.

     Mỗi loại tranh này lại có một vị trí riêng trong đời sống sinh hoạt của người Việt xưa. Trong tranh Đông Hồ xuất hiện đủ tám thể loại trên. Riêng tranh mã thường là các bức tranh được treo và sẽ hóa (đốt) vào những dịp khác nhau của năm. Chẳng hạn, tranh Vũ Đinh, Thiên Ất, Tiến Tài, Tiến Lộc, Tử Vi trấn trạch, Huyền Đàn trấn môn thường được dán ở cửa với chức năng trấn trạch trừ tà, mang lại may mắn cho gia chủ trong năm mới. Ngày 23 tháng Chạp hàng năm, tranh Ông Công Ồng Táo ở gian bếp sẽ được cúng và thay tranh mới. Trong số các loại tranh trên, tranh chúc tụng dịp tết vẫn là những bức tranh được dùng phổ biến nhất [3, tr.649].

     Đặc trưng thẩm mĩ của các tác phẩm tranh dân gian Đông Hồ là thiên về cách diễn tả đơn giản, cô đọng, với những nét, màu chắc khỏe, phù hợp với tình cảm hồn hậu và chất phác của người nông dân Việt Nam. Không gian trong tranh chủ yếu là ước lệ, chú trọng đến thần thái, gửi gắm vào đó các ý tứ, sự hóm hỉnh hay thông điệp ước vọng của người xưa. Các nhân vật được dàn trên mặt tranh, không hình nào bị che khuất.

     Tranh dân gian Đông Hồ có thể được xem là một bộ bách khoa thư về đời sống sinh hoạt, văn hóa, xã hội, tín ngưỡng của người Việt, thể hiện đầy đủ đặc điểm, tư duy của dân tộc Việt qua các giai đoạn lịch sử.

     2.2. Tranh tết Hàng Trống

      2.2.1. Không gian và sắc thái tranh

     Khác với hầu hết các dòng tranh dân gian của người Việt, tranh Hàng Trống xưa được hình thành trong không gian phố thị của đất Thăng Long vào khoảng thế kỷ XVI-XVII. Các gia đình làm tranh, vẽ tranh, mở các cửa hiệu bán tranh cũng tập trung quanh các phố như Hàng Trống, Hàng Gai, Hàng Quạt, Hàng Nón, Hàng Hòm, Hàng Gà… Vào mỗi dịp tết Nguyên đán, họ thường tập trung về đình làng Hàng Trống trưng bày, mua bán tranh, phục vụ cho nhu cầu chơi tranh Tết của cư dân thị thành. Đình Hàng Trống xưa thuộc tổng Tiêu Túc huyện Thọ Xương, nay là quận Hoàn Kiếm/ Hà Nội. Từ tập quán này mà dân phố thị đã lấy luôn tên phố, tên đình đặt tên cho dòng tranh.

     Khác với dòng tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống xuất hiện tại chốn kinh đô, nên mang nét đặc sắc riêng, đặc biệt là khổ tranh. Tranh Hàng Trống có khổ lớn hơn, khắc và in tranh cũng tinh xảo hơn, pha màu, phối sắc cũng cầu kì hơn. Các thợ khắc, in, vẽ tranh Hàng Trống là những nghệ nhân tài hoa lên kinh đô lập nghiệp, hoặc có thể là dân bản địa lâu đời ngụ cư tại đất kinh kì.

     Khác với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống mang một nét thẩm mĩ và bản sắc riêng phục vụ cho thú chơi của dân thị thành. Khuôn khổ của tranh Hàng Trống lớn hơn nhiều so với các dòng tranh dân gian khác. Một số bức có kích thước trên 1 m. Tranh Hàng Trống tồn tại ở kinh thành phục vụ cho đối tượng khách hàng không phải là những người nông dân chân chất nữa do đó cả nội dung và hình thức đều thay đổi.

     Tranh Hàng Trống kết hợp cả in và vẽ tay. Khi làm tranh, các nghệ nhân chỉ in nét, các mảng màu đều vẽ tay. Vì vậy màu sắc trong tranh Hàng Trống có độ vờn nhẹ nhàng.

     Màu sắc của tranh Hàng Trống cũng có điểm khác biệt. Các màu được sử dụng không hoàn toàn là màu tự nhiên, mà còn có thêm màu phẩm. Chính màu phẩm khiến tranh Hàng Trống trở nên rực rỡ hơn. Đặc biệt là sắc lam, lục, hồng điều tươi rói, khiến dòng tranh này có một thần thái riêng. Các nghệ nhân Hàng Trống còn dùng thêm kim nhũ, ngân nhũ để vẽ, tạo sự óng ánh cho tranh [1, tr.277].

     Một số tranh khổ to và dài, các nghệ nhân phải bồi thêm phần bo trên, bo dưới, sau đó thêm trục gỗ hai đầu để phục vụ cho việc treo chơi của các gia đình. Cách chơi tranh này chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc. Chúng khác hẳn với khổ “lá mít” của tranh Đông Hồ, (tranh Đông Hồ in xong để mộc, dán thẳng lên vách đất của các gia đình nông thôn).

     Các tranh trục cuốn của Hàng Trống ăn nhập với không gian sập gụ, tủ chè tạo nên nét sang quý của cư dân thị thành. Không chỉ vậy, các tranh treo cũng không cố định, họ có thể treo, rồi cuộn lại, thay bằng tranh mới, khiến không gian thay đổi tùy từng dịp: thưởng trà, nghe hát, bình thơ… như một lối chơi tao nhã.

     2.2.2. Kĩ thuật vẽ – in tranh

     Ván khắc tranh Hàng Trống chỉ duy nhất có một ván nét, đường khắc thường tinh tế, thanh mảnh. Kĩ thuật in tranh Hàng Trống xưa thường là lối in ngửa ván. Ván khắc được quét mực đều bằng chổi lá thông, sau này được thay bằng con lăn cao su để lăn mực. Các nghệ nhân căn chỉnh phù hợp và đặt giấy lên mặt ván sao cho thật phẳng rồi dùng miếng xơ mướp tẩm sáp ong cho mềm và trơn để vuốt đều lên mặt sau của tờ giấy. Với đặc trưng khổ lớn, in trên diện rộng nên nghệ nhân Hàng Trống thường sử dụng loại giấy khá mỏng, giấy báo hay giấy xuyến chỉ, cao cấp hơn là nền lụa để mực in có thể thấm đều, không bị mất nét. Sau khi in nét, tranh sẽ được bồi thêm các lớp giấy. Tùy theo từng tranh cụ thể mà có tranh được bồi một lớp, tranh phải bồi đến hai lớp để tạo độ cứng để tô màu, điểm sắc. Sau khi hoàn thiện công đoạn vẽ, còn phải bồi lần nữa mới có được một bức tranh hoàn thiện. Bởi vậy, tranh Hàng Trống hoàn thiện phải mất đến 3, 4 ngày.

     Công đoạn vẽ màu, điểm sắc là công đoạn tinh tế nhất của tranh Hàng Trống. Các nghệ nhân thường dùng bút lông để vẽ màu cho các bức tranh. Đầu bút được cắt bằng. Trên bản rộng của ngọn bút, một nửa được chấm màu, còn nửa kia chấm nước nên khi nét bút đặt xuống mặt giấy sẽ có hai sắc độ đậm nhạt khác nhau và chuyển sắc một cách tự nhiên. Các sắc độ màu do vậy mà chuyển một cách mềm mại, sống động, tự nhiên.

     Việc vẽ màu cho từng bức tranh là nét đặc sắc của tranh Hàng Trống so với các dòng tranh dân gian khác. Việc vẽ tay từng bản khiến tranh dẫu theo một mẫu hình chung, nhưng vẫn có điểm khác nhau nhất định. Ván khắc tạo ra nét viền hay còn gọi là xương cốt cho bức tranh, còn màu sắc hay các chi tiết trong tranh lại là do sự tài hoa và quan điểm thẩm mĩ của nghệ nhân làm nên. Bởi vậy, tranh Hàng Trống có thể xem là loại tranh vẽ nhân bản, mà mỗi bức vẫn mang một giá trị riêng.

     Ngoài ra, còn có một số tranh Hàng Trống do người chơi đặt hàng theo khuôn khổ riêng, nên các nghệ nhân vẽ tay hoàn toàn, không có công đoạn in.

     2.2.3. Các thể loại tranh

     So với tranh Đông Hồ thì tranh Hàng Trống không có quá nhiều thể loại. Tranh Hàng Trống chủ yếu là tranh tôn giáo (hay còn gọi là tranh thờ cúng, trấn trạch). Tranh chúc tụng, cảnh vật, tích truyện vẫn là phổ biến nhất. Tranh sinh hoạt ít hơn, các loại tranh như châm biếm, cổ động hầu như không có.

     Tranh thờ Hàng Trống phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng đa dạng của giới thị dân như tranh Phật : Phật bảo, Pháp bảo, Tăng bảo, tranh Quan âm… vẽ bán cho Phật tử. Tranh về Tam Tòa Thánh Mẫu, Đức Thánh Trần, Quan Hoàng Bơ, Quan Hoàng Bảy, Quan Hoàng Mười, Tứ Phủ, Ngũ Hổ… phục vụ các con nhang đệ tử của tín ngưỡng thờ Mẫu. Tranh Trương Thiên Sư, Thái Thanh, Ngọc Thanh, Thượng Thanh… thì gắn liền với việc tôn thờ Đạo giáo. Tranh chúc tụng chơi Tết thì có các loại : Tiến Tài, Tiến Lộc, Tứ quý, Tứ bình, Tố nữ, tranh công, tranh cá… các thể loại tranh này không cứ là người tôn thờ tôn giáo nào đều có thể mua về treo trang trí nhà cửa trong dịp tết. Đặc biệt là giới thị dân có học, thích chữ nghĩa, thích bình phẩm …thì các bức tranh như thế còn là đề tài cho họ trong dịp năm mới để nhàn đàm.

     Trong tranh Hàng Trống, tranh thờ chiếm một số lượng lớn. Tranh thờ được làm bán quanh năm và vào dịp tết cổ truyền, người dân có nhu cầu thay dọn ban thờ thì lại mua tranh để thay hoặc treo thêm vào không gian thờ cúng, kính ngưỡng tổ tiên. Dòng tranh này mặc dù chịu ảnh hưởng không ít từ Niên Họa Trung Quốc, nhưng rõ ràng bên cạnh tuân theo các hình tượng tôn giáo phổ biến, người Việt có những sáng tạo riêng phục vụ cho nhu cầu tín ngưỡng cũng như quan niệm của mình. Có thể lấy ví dụ từ các tác bức tranh thuộc tranh thờ Đạo Mẫu như tranh Thánh Mẫu, tranh Quan Hoàng là hoàn toàn xuất phát từ văn hóa Việt.

     2.2.4. Quan điểm thẩm mĩ của tranh

     So với các dòng tranh dân gian, tranh Hàng Trống có thể xem là dòng tranh mang đậm chất tinh hoa đặc sắc nhất của người Việt. Khác với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống mang một nét thẩm mĩ và bản sắc riêng phục vụ cho thú chơi của dân thị thành. Trong đó triết lý sống được bộc lộ, và kỹ thuật tay nghề cũng như “gu” thẩm mĩ lại rất đặc trưng cho văn minh đô thị vùng Bắc bộ nước ta xưa. Các tranh tôn giáo, tín ngưỡng thường được các nghệ nhân vẽ dựa trên các tích truyện, truyền thuyết về các vị Thần, Phật, Thánh Mẫu. Tính chất cân bằng, đăng đối trong thủ pháp tạo hình tác phẩm cũng bộc lộ sự nghiêm cẩn, tôn kính. Vị thế các nhân vật thể hiện rõ ngôi vị và vai trò của mình. Nhân vật trung tâm, quan trọng bao giờ cũng được mô tả kỹ càng nhất, thậm chí kích thước của những nhân vật này cũng lớn hơn hẳn các nhân vật khác xuất hiện trong tranh. Các bức tranh như mô phỏng lại một điện Mẫu uy nghi, một ban thờ gia tiên đẹp đẽ, tôn quý.

     Màu sắc trong tranh còn phản ánh quan niệm về vũ trụ quan ngũ hành tương sinh – tương khắc trong triết lý phương Đông của người Việt. Ví dụ như tranh Ngũ Hổ khắc họa hiện thân của chúa sơn lâm, biểu trưng cho sức mạnh tự nhiên: hổ vàng là Hoàng hổ thần tướng, thuộc hành Thổ, ứng với trung ương chính diện. Hổ xanh là Thanh hổ thần tướng, thuộc hành mộc, ứng với phương đông. Hổ đỏ là Xích hổ thần tướng, thuộc hành hỏa, ứng với phương nam. Hổ đen là Hắc hổ thần tướng, thuộc hành thủy, ứng với phương bắc. Sự sắp đặt các ông hổ trong tranh cũng theo vòng tuần hoàn của nguyên lý ngũ hành tương sinh – tương khắc. Do vậy vào dịp tết, các tranh này thường được mua về với quan niệm tạo thêm sinh khí của một năm mới no ấm, sung túc. Ngoài ra các bộ tranh như Tố nữ, Tứ quý, các bức tranh vẽ theo tích Kim Vân Kiều, Nhị Độ Mai hoặc những bức tranh phỏng theo các vở tuồng lại đặc biệt thích hợp với phòng khách cùng với sập gụ, tủ chè, tạo nên một không gian thanh nhã, sang quý. Như vậy, có thể thấy thể loại tranh chơi, tranh chúc phúc đã đáp ứng nhu cầu trang hoàng nhà cửa đón một năm mới thanh bình, lịch lãm.

3. Kết luận

     Tết là một di sản văn hóa quan trọng của người Việt, một thời điểm mạnh để ngưng kết và lan tỏa các giá trị văn hóa, từ nghi lễ đến ẩm thực, từ các phong tục đến thưởng ngoạn, từ âm nhạc đến hội họa. Tranh Tết chính là một phần của ký ức dân tộc như vẫn đồng hành cùng tâm thức Việt hôm nay. Cùng nằm trong dòng chảy của tranh dân gian nhưng tranh Tết gắn với Tết cả trong không gian tháng Chạp, trong giá rét mà rộn ràng phiên chợ Tết, cả trong thời gian của Tất Niên và tháng Giêng, tháng Hai để lưu giữ và truyền tải ước vọng ngàn đời của cha ông. Tô hay vẽ, in hay đồ, mực hay phẩm đều hun đúc ở trong đó cả một khối lượng tri thức. Dẫu vẫn là được tạo ta từ nguyên liệu tự nhiên nhưng mỗi địa phương lại tùy theo các sản vật kiếm được để tạo màu. Qua rất nhiều công đoạn khác nhau, các bức tranh Tết tuy mộc mạc, giản dị nhưng lại là sự kết tinh của tinh hoa nghề Việt. Tranh tết Việt Nam vùng đồng bằng Bắc bộ vừa gần gũi lại vừa có tiếng nói riêng cả về ngữ nghĩa lẫn biểu tượng nghệ thuật, cả về quy trình in khắc, tô vẽ lẫn hiệu quả thẩm mĩ. Tranh Tết là biểu hiện sinh động và sâu sắc của văn hóa Việt, tâm hồn Việt, đó chính là gia tài mà người Việt đã góp vào kho tàng văn hóa nghệ thuật Châu Á và thế giới.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1. Phạm Thị Chỉnh (2009), Lịch sử mĩ thuật Việt Nam, NXB Đại học sư phạm.

     2. Lê Bá Dũng (2009), Đại cương mĩ thuật, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

     3. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mĩ thuật, NXB Mỹ thuật.

     4. Trịnh Quang Vũ (2009), Lược sử mĩ thuật Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa.

Nguồn: Tạp chí Khoa học, số 43, tháng 11, năm 2020

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Tranh tết vùng đồng bằng Bắc bộ (Tác giả: Lê Hoài Đức)