VAI TRÒ của SÀI GÒN – CHỢ LỚN trong nền KINH TẾ NAM KỲ giai đoạn Đầu Thế Kỷ XX đến 1945 (Phần 1)

SUMMARY THE ROLE OF SAIGON – CHOLON
IN THE SOUTHERN ECONOMY
IN THE FIRST PERIOD OF THE 20TH CENTURY TO 1945

Huỳnh Đức Thiện *
Đào Anh Thư **
(* Tiến sĩ, Trường  Đại học KHXH&NV – ĐHQG-HCM
** Thạc sĩ, Trường  Đại học KHXH&NV – ĐHQG-HCM
)

ĐẶT VẤN ĐỀ

     Vùng đất Nam Kỳ (Nam Bộ ngày nay), trong đó có Sài Gòn – Chợ Lớn (Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay), là vùng đất mới khai phá và có lịch sử phát triển khoảng hơn 300 năm. Trên vùng lãnh thổ này, những lưu dân người Việt từng bước di cư vào khai khẩn vùng đất hoang vu này và đã thấy tiềm năng lớn về nông nghiệp với điều kiện tự nhiên thuận lợi nên đã định cư và phát triển. Sài Gòn – Chợ Lớn, miền Đông và miền Tây Nam Kỳ đã từng bước hình thành và phát triển gắn bó với nhau.

     Từ rất sớm, vùng Nam Kỳ đã có nền sản xuất hàng hóa mà nơi diễn ra sự trao đổi mua bán mạnh mẽ nhất là Sài Gòn – Chợ Lớn. Đến nửa đầu thế kỷ XIX, Sài Gòn – Chợ Lớn đã là một thành phố vừa sản xuất vừa hoạt động thương mại, một đầu mối buôn bán không chỉ quan trọng đối với thị trường trong nước mà còn có khả năng giao thương với bên ngoài. Đến khi thực dân Pháp đánh chiếm Nam Kỳ và biến Nam Kỳ thành thuộc địa thì Sài Gòn – Chợ Lớn trở thành trung tâm kinh tế của chủ nghĩa tư bản thực dân. Pháp ra sức đô thị hóa,xây dựng cơ sở hạ tầng thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn, đặc biệt là lập cảng Sài Gòn và ngân hàng Đông Dương, để phục vụ cho công cuộc khai thác, vơ vét tài nguyên ở thuộc địa Nam Kỳ. Từ đó thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn ngày càng phát triển và tạo cơ sở cho sự phát triển vùng kinh tế Nam Kỳ, hình thành mối quan hệ kinh tế không thể tách rời giữa miền Đông Nam Kỳ và miền Tây Nam Kỳ với Sài Gòn – Chợ Lớn.

     Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh tế, chính trị, khoa học – kỹ thuật của cả nước nói chung và Nam Bộ nói riêng. Đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, Thành phố Hồ Chí Minh là đầu tàu kinh tế của cả nước, là nơi kinh tế phát triển năng động với nhiều tiềm năng lớn. Thành phố Hồ Chí Minh đang góp phần rất lớn vào sự phát triển của vùng trọng điểm kinh tế phía Nam và vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Để có được vị trí và vai trò đó, Thành phố Hồ Chí Minh phải có một quá trình phát triển, kế thừa và phát huy những ưu thế của mình trong lịch sử. Cho nên, việc tìm hiểu vai trò của nó đối với nền kinh tế thực dân ở Nam Kỳ là rất cần thiết. Từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm để phát triển kinh tế Thành phố cũng như khu vực Nam Bộ hiện nay.

I. BỐI CẢNH TỰ NHIÊN VÀ SỰ PHÁT TRIỂN DÂN SỐ SÀI GÒN – CHỢ LỚN

1. Bối cảnh tự nhiên vùng Sài Gòn – Chợ Lớn

     Thành phố Sài Gòn – Chợ Lớn nằm trên thềm phù sa cổ, nơi tiếp giáp giữa vùng đất cao ở phía Đông và phía Bắc với vùng phù sa mới của đồng bằng Nam Bộ, trong phạm vi chi phối của thủy hệ sông Đồng Nai – Vàm Cỏ.

     Sài Gòn – Chợ Lớn có độ cao trung bình 11 m, nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa với hai mùa mưa nắng riêng biệt, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 11, mùa nắng từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Đặc điểm khí hậu Sài Gòn – Chợ Lớn là nóng ẩm với nhiệt độ trung bình hàng năm là 270 C, độ ẩm trung bình hàng năm là 82%, lượng mưa hàng năm trên 1300 mm. Thời tiết tương đối điều hòa, ít giông bão. Do địa hình tương đối cao, Sài Gòn – Chợ Lớn hầu như không bị ảnh hưởng lũ lụt hàng năm thường xảy ra ở đồng bằng Nam Bộ.

     Sài Gòn – Chợ Lớn nằm trên khúc uốn thuộc hữu ngạn sông Sài Gòn, một phụ lưu của sông Đồng Nai, cách biển khoảng 80 km. Từ Sài Gòn – Chợ Lớn có thể thông thương với các vùng phía Nam với 2000 km luồng lạch chảy qua các đồng bằng lớn. Sông Sài Gòn bắt nguồn từ vùng đất cao Đông Nam Bộ, độ dốc sông nhỏ, sức xâm thực kém, nước sông chứa ít phù sa. Vùng cửa sông có rừng sác giữ vai trò siết dòng, hạn chế việc lắng tụ phù sa ở cửa sông. Lòng sông sâu 8 m lúc triều cường, cho phép các tàu trọng tải lớn ra vào Sài Gòn – Chợ Lớn dễ dàng. Hơn nữa, vùng biển Nam Bộ thuộc chế độ bán nhật triều nên các tàu lớn có mực nước lòng tàu sâu chỉ mất tối đa 12 giờ để có thể vào cảng. Nghĩa là không mất nhiều thời gian để neo đậu ở tiền cảng Vũng Tàu.

     Sinh thái Sài Gòn – Chợ Lớn là sinh thái đặc trưng của vùng Đông Nam Bộ. Đến thế kỷ XIX, nhiều khu vực Sài Gòn – Chợ Lớn được rừng che phủ, thuộc hệ thống rừng nhiệt đới miền Đông. Vùng duyên hải có rừng ngập mặn với nhiều loại cá, tôm, cua rất đa dạng. Sài Gòn – Chợ Lớn xưa có đủ giới động vật của rừng miền Đông hiện nay.

     Về điều kiện tự nhiên, Sài Gòn – Chợ Lớn có nhiều thuận lợi để tổ chức khai thác nông nghiệp, thủ công nghiệp, nghề cá,… Đó là yếu tố cần thiết ban đầu để hình thành tại đây một trung tâm dân cư từ nhiều thế kỷ trước, vì đảm bảo được cuộc sống ổn định cho lưu dân người Việt trong điều kiện kinh tế tự cấp tự túc.

     Triển vọng của Sài Gòn – Chợ Lớn thấy được từ những điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên phong phú, các vùng hậu phương đầy hứa hẹn với nguồn nhân lực dồi dào, tiềm năng nông nghiệp to lớn đa dạng ở cả miền Đông lẫn miền Tây Nam Kỳ. Biết khơi dậy tiềm năng sẵn có, Sài Gòn – Chợ Lớn sẽ nhanh chóng trở thành trung tâm kinh tế, một đầu mối giao thông không chỉ riêng ở Nam Kỳ mà cho cả khu vực (Trịnh Tri Tấn – Nguyễn Minh Nhật – Phạm Tuấn, 1998, tr.7).

      2. Sự phát triển dân số Sài Gòn – Chợ Lớn

     Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Định, Sài Gòn – Bến Nghé chỉ vỏn vẹn có 5.000 dân. Đến đầu thế kỷ XIX, Sài Gòn bấy giờ thuộc trấn Phiên An, đã có dân số lên đến 150.000 người, nghĩa là tăng gấp 30 lần (Trịnh Tri Tấn – Nguyễn Minh Nhật – Phạm Tuấn, 1998, tr.8).

     Khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn và ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ, phần lớn cư dân Sài Gòn rời bỏ thành phố di chuyển ra các tỉnh lân cận để chống Pháp. Do vậy, năm 1864 ở trung tâm Sài Gòn – Chợ Lớn chỉ còn khoảng 18.000 dân. Đến 1881, dân số Sài Gòn – Chợ Lớn tăng lên khoảng 53.000 người (Trịnh Tri Tấn – Nguyễn Minh Nhật – Phạm Tuấn, 1998, tr.9).

     Năm 1909, thực dân Pháp ở Nam Kỳ tiến hành cuộc tổng điều tra dân số, dân số Nam Kỳ lúc bấy giờ trên 3.000.000 người, trong đó số dân tập trung ở các đô thị lớn nhỏ là 334.000 người. Riêng thành phố Sài Gòn có 53.000 dân và thành phố Chợ Lớn có 180.000 dân tính chung Sài Gòn – Chợ Lớn là hơn 223.000 người (Nguyễn Phan Quang, 1998, tr.42).

     Trải qua hai lần khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, Sài Gòn – Chợ Lớn trở thành trung tâm kinh tế thương mại quan trọng của khu vực. Cư dân Sài Gòn – Chợ Lớn có những biến đổi lớn, các tầng lớp lao động ngày một đông đảo, tỉ lệ công nhân tăng nhanh. Cùng với quá trình đô thị hóa, dân số Sài Gòn – Chợ Lớn tăng lên rất nhanh từ khoảng 248.000 người (1913) lên 347.000 người (1926), lên 540.000 người (1938) vượt quá dự kiến của đồ án phát triển thành phố Sài Gòn của Pháp. Chỉ trong 10 năm dân số Sài Gòn đã tăng gấp ba lần: năm 1943 là 498.100 người chiếm 9% dân số Nam Kỳ (Võ Văn Sen, 2005, tr.45).

     Trong thành phần cư dân Sài Gòn – Chợ Lớn đáng chú ý là người Hoa. Họ di cư đến vùng đất này từ thế kỷ XVII đến thời Pháp thuộc; số lượng người Hoa tăng rất nhanh. Năm 1864 Sài Gòn – Chợ Lớn có 6.000 người Hoa, năm 1881 tăng lên 25.000 người, năm 1909 lên khoảng 100.000 người, 1926 lên 170.000 người (Nguyễn Phan Quang, 1998, tr. 57). Người Hoa sống tập trung chủ yếu ở Chợ Lớn và nghề chính là buôn bán. Họ có vai trò rất lớn trong các hoạt động kinh tế của Sài Gòn – Chợ Lớn cũng như Nam Kỳ thời kỳ này.

     Sự phát triển dân số Sài Gòn – Chợ Lớn đã cung cấp nguồn nhân lực dồi dào cho sự phát triển kinh tế của thành phố, làm cho nơi đây trở thành trung tâm kinh tế quan trọng của Nam Kỳ và cả nước.

II. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ SÀI GÒN – CHỢ LỚN TỪ 1698 ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XIX

      1. Giai đoạn 1698 – 1859

     Năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh lập phủ Gia Định, thủ phủ Gia Định và huyện lỵ Tân Bình đều đặt ở trung tâm Sài Gòn – Bến Nghé. Trung tâm này đứng đầu về chính trị và thương nghiệp. Hầu hết thổ sản toàn miền Nam đều đưa về Sài Gòn – Bến Nghé để tiêu thụ và xuất khẩu. Thuyền buôn người Hoa mua rồi đưa sang Campuchia hay Singapore bán lại.

     Đến thế kỷ XVIII, kinh tế Sài Gòn – Chợ Lớn và cả Nam Kỳ có bước phát triển mới về nghề trồng nông sản, đánh bắt cá, tiểu thủ công nghiệp. Sự xuất hiện nhiều chợ trong thời kỳ này như chợ Bến Nghé, chợ Cây Da Còm, chợ Bến Thành, chợ Điều Khiển, chợ Thị Nghè, chợ Sài Gòn (Chợ Lớn ngày nay),… chứng tỏ Sài Gòn là một trung tâm giao lưu hàng hóa của nhiều vùng phụ cận.

     Các chúa Nguyễn thi hành chính sách khuyến nông, khuyến khích lưu dân khai khẩn đất hoang, mở rộng diện tích canh tác nông nghiệp. Năm 1757, Nguyễn Cư Trinh hoàn thành cuộc bình định và xếp đặt nền hành chính trên toàn Nam Kỳ. Đất đai màu mỡ và mở rộng mênh mông, lúa gạo sản xuất rất nhiều. Việc sản xuất lúa gạo hàng hóa là tình hình đột biến của vùng đất mới Nam Kỳ. Trước kia sản xuất lúa gạo chỉ để tự cung tự cấp, ít khi có thừa để bán. Nay lúa gạo dư thừa phải đem bán trong và ngoài nước. Thóc gạo từ Nam Kỳ chuyển ra miền Trung, miền Bắc, gạo còn là mặt hàng xuất cảng số một của Sài Gòn và khu vực phía Nam. Gạo được xuất qua Trung Quốc, Thái Lan và một số nước khác trong khu vực Đông Nam Á. Lúa gạo được sản xuất khắp nơi nhưng thu gom cả về Sài Gòn để xuất khẩu. Sài Gòn trở thành thị trường mua bán phồn thịnh nhất đương thời và mãi tới nay (Lâm Quang Huyên, 1998, tr.210).

     Trước khi thực dân Pháp đánh chiếm Sài Gòn (1859), Sài Gòn đã là trung tâm kinh tế của lục tỉnh Nam Kỳ. Cảng Bến Nghé nằm sâu trong đất liền, thuận lợi cho nội thương và ngoại thương. Hàng hóa của cả lục tỉnh, Tây Nguyên, Nam Lào và phần lớn Campuchia đều tập trung về Sài Gòn để tiêu thụ. Đứng đầu hàng hóa là gạo và hạt cau. Mỗi năm xuất hàng trăm nghìn tấn gạo, mấy chục tấn hạt cau. Sau gạo và hạt cau là bông, thuốc lá, đường, hạt tiêu,…

     2. Giai đoạn 1859 đến cuối thế kỷ XIX

     Sau khi chiếm Sài Gòn, Pháp xúc tiến quy hoạch xây dựng Sài Gòn thành một đô thị lớn nhiều chức năng (hành chính, quân sự, kinh tế, cảng,…), dân số dự kiến nửa triệu người (Trịnh Tri Tấn – Nguyễn Minh Nhật – Phạm Tuấn, 1998, tr.9). Mục đích biến Sài Gòn thành một thành phố sầm uất, ngoài yêu cầu lãnh thổ, yêu cầu cạnh tranh với các nước đế quốc, người Pháp muốn khai thác Nam Kỳ vì người Pháp thấy ở đó tiềm lực kinh tế to lớn.

     Năm 1860, Pháp quyết định lập cảng Sài Gòn. Pháp kêu gọi Hoa kiều làm một cầu dài 1.800 m cho tàu biển có độ sâu 4,2 m dưới nước có thể cập bến. Sở thương cảng cũng được thành lập để điều hành công việc của cảng. Cảng Sài Gòn có nhiều thuận lợi: cảng không bị phủ bùn, dòng chảy của sông Đồng Nai và sông Sài Gòn không mạnh, luồng lạch vào cảng sâu và rộng, tàu trọng tải lớn có thể vào tận cảng. Cảng Sài Gòn có vị trí chiến lược nằm trên các tuyến hàng hải nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương. Thương cảng Sài Gòn còn có thuận lợi là liên thông với giang cảng Chợ Lớn, tạo thành một hệ thống đường thủy và cửa khẩu hoàn chỉnh, nhằm đẩy mạnh việc xuất khẩu gạo được quy tụ từ các tỉnh Nam Kỳ về Chợ Lớn.

     Hoạt động kinh tế của Sài Gòn – Chợ Lớn thời kỳ này chủ yếu là hoạt động xuất nhập khẩu mà chủ yếu là qua cảng Sài Gòn. Cảng Sài Gòn được mở với chế độ mậu dịch tự do, tạo điều kiện lưu thông hàng hóa dễ dàng. Trong năm 1860 đã có 257 tàu buôn đến Sài Gòn, trong đó có 111 tàu của châu Âu, trọng tải 81.595 tôn-nô (Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh 300 năm hình thành và phát triển 1698 – 1998, 1999, tr. 42). Trong những thập niên cuối thế kỷ XIX, hoạt động của cảng Sài Gòn càng được đẩy mạnh số lượng và trọng tải của tàu ra vào cảng Sài Gòn ngày càng tăng nhanh: 1870 có 486 tàu (trọng tải 276.363 tấn), 1880 có 333 tàu (322.918 tấn), 1890 có 1.060 tàu (1.132.222 tấn) (Nguyễn Phan Quang, 2004, tr.71).

     Từ khi mở cảng Sài Gòn, lúa gạo là mặt hàng xuất khẩu hàng đầu. Từ Sài Gòn, thực dân Pháp xuất khẩu gạo Nam Kỳ ra thị trường khu vực và châu Âu với số lượng mỗi năm một nhiều hơn. Năm 1860, chưa đầy một năm sau khi chiếm thành Gia Định, cảng Sài Gòn đã xuất đi 57.000 tấn gạo, đến 1870 xuất 128.894 tấn gạo, 1880 xuất 293.207 tấn gạo, 1890 xuất 540.998 tấn gạo (Nguyễn Phan Quang, 2004, tr.146).

     Để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu gạo, năm 1869 Pháp lập ra nhà máy xay lúa đầu tiên bằng máy hơi nước ở Khánh Hội, sát cảng Sài Gòn. Sau đó, ở Chợ Lớn nhiều tư sản mại bản người Hoa đua nhau bỏ vốn lập nhà máy xay lúa. Đến 1896, kỹ nghệ xay xát lúa gạo phát triển mạnh, bắt đầu xuất hiện nhiều nhà máy lớn. Sài Gòn – Chợ Lớn bấy giờ có 9 nhà máy (trong đó 4 nhà máy của người Hoa được trang bị kỹ thuật tiên tiến). Công suất các nhà máy này khoảng hơn 400.000 tấn/năm. Tuy hoạt động mạnh nhưng vẫn không tiêu thụ hết lượng lúa thu hoạch ngày một tăng. Cho nên cũng có thể kể thêm một số lượng lớn những cơ sở xay xát của người bản xứ sử dụng cối xay tay.

     Như vậy, hoạt động kinh tế nổi bật của Nam Kỳ ở giai đoạn đầu thời Pháp thuộc là hoạt động xuất khẩu lúa gạo của Sài Gòn – Chợ Lớn thông qua thương cảng Sài Gòn. Chính hoạt động xuất khẩu lúa gạo ngày càng được đẩy mạnh đã kéo theo ngành công nghiệp xay xát lúa gạo ra đời và ngày càng tăng về số lượng và trang bị kỹ thuật. Từ đó đưa Nam Kỳ vận hành trong guồng máy khai thác và xuất khẩu lúa gạo mà Sài Gòn – Chợ Lớn là tâm điểm của nó.

 Nguồn: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với chủ đề Những vấn đề giảng dạy tiếng Việt và nghiên cứu Việt Nam trong thế giới ngày nay. ISBN: 978-604-73-7135-8. NXB: Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh – 2019 (từ  trang 1137 đến trang 1146)
Ban Tu thư (thanhdiavietnamhoc.com)

     Mời xem tiếp:

VAI TRÒ của SÀI GÒN – CHỢ LỚN trong nền KINH TẾ NAM KỲ giai đoạn Đầu Thế Kỷ XX đến 1945 (Phần 2)