Việc truyền bá đạo Kitô và quá trình xâm nhập của người Pháp ở Việt Nam

THE PROPAGANDA CHRISTIANITY AND THE INTRUSION PROCESS
OF FRENCH INTO VIETNAM

Tác giả bài viết: Tiến sĩ  LÊ THANH THỦY
(Giảng viên khoa Khoa học Xã hội, Trường Đại học Hồng Đức)

TÓM TẮT

     Để chuẩn bị cho việc xâm lược và biến Việt Nam thành thuộc địa, thực dân Pháp đã sử dụng đạo Thiên Chúa làm công cụ mở đường vào Việt Nam. Từ giữa thế kỉ XVII, thông qua các giáo sĩ Thừa sai Paris, ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, đạo Kitô đã được gieo hạt và bén rễ nhanh chóng, nhiều công đồng giáo dân đã được hình thành. Đó là những cơ sở quan trọng mà Pháp đã xây dựng được ở Việt Nam trước khi nổ súng xâm lược Việt Nam. Mặc dù có lúc thăng trầm, đặc biệt là phải đối mặt với chính sách cấm đạo khắc nghiệt của chính quyền phong kiến Việt Nam, nhưng việc truyền bá và phát triển đạo Kitô của các giáo sĩ Pháp ở Việt Nam về cơ bản đã thành công cả trên hai phương diện: chính trị và tôn giáo. Bài viết này sẽ đề cập đến vai trò của các giáo sĩ và hoạt động truyền bá đạo Kitô đối với quá trình xâm chiếm Việt Nam của Pháp.

Từ khóa: Giáo sĩ Thừa sai, Đàng Trong, Đàng Ngoài, truyền bá đạo Kitô.

ABSTRACT

     To arrange for the invasion into Vietnam and lead it become a colony, the French colonialism used Christianity as a tool to pave the way into Vietnam. From the middle of the 17th century, through the missionaries from Paris, Christianity had been quickly sown and rooted, in both Cochin China and Tonkin, many parish communities had been formed. That was the important attainment that French had achieved in Vietnam before they launched the official invasion into Vietnam. In spite of vicissitude, especially when they had to face with harsh persecution policy of Vietnam feudal regime, the propagation and expansion of Christianity by French missionaries in Vietnam basically succeeded on two aspects: politics and religion. This article will mention the role of Christian missionaries and the propaganda activity towards the invasion process of French colonialism in Vietnam.

Key words: Missionary, Cochin China, Tokin , Christianity propaganda.

x
x x

1. Mở đầu

     Việc truyền bá đức tin, mở mang những vùng đất mới để nuôi cấy lòng tin của một đạo là hoạt động thường xuyên của các tổ chức tôn giáo. Đó là hoạt động truyền giáo. Tuy nhiên, trong lịch sử truyền giáo, không ít những thời điểm tôn giáo trở thành công cụ cho hoạt động chính trị. Pháp xâm lược Việt Nam là một trường hợp cụ thể. Chính quyền Pháp đã dùng việc truyền bá đạo Kitô (Công giáo) để thâm nhập vào Việt Nam sau đó mới sử dụng vũ lực để xâm chiếm. Từ giữa thế kỉ XVII, thông qua các giáo sĩ Thừa sai Paris, ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài, đạo Kitô đã được gieo hạt và bén rễ nhanh chóng, nhiều công đồng giáo dân đã được hình thành. Đó là những cơ sở quan trọng mà Pháp đã xây dựng được ở Việt Nam trước khi chính thức biến Việt Nam thành thuộc địa của họ. Mặc dù có lúc thăng trầm, đặc biệt là phải đối mặt với chính sách cấm đạo khắc nghiệt của chính quyền phong kiến Việt Nam, nhưng việc truyền bá và phát triển đạo Kitô của các giáo sĩ Pháp ở Việt Nam về cơ bản đã thành công cả trên hai phương diện: chính trị và tôn giáo. Bài viết này sẽ đề cập đến vai trò của các giáo sĩ và hoạt động truyền bá đạo Kitô đối với quá trình xâm chiếm Việt Nam của Pháp.

2. Hội thừa sai Paris và hoạt động truyền bá đạo Kitô của các giáo sĩ Pháp

     Hội Thừa sai Paris được thành lập năm 1659, là một tổ chức của các giáo sĩ chuyên trách việc truyền bá đạo Kitô ở châu Á. Hội được thành lập sau khi linh mục Alexandre de Rhodes (A Lịch Sơn Đắc Lộ) giới thiệu đất nước Việt Nam với châu Âu thông qua các tác phẩm của ông [1]. Hội Thừa sai phụ trách việc đào tạo các giáo sĩ tại Paris và cử họ đến châu Á mà cụ thể là Trung Hoa và các vùng lân cận để truyền bá đạo Kitô2. Hội cũng đồng thời là tổ chức quản lí những công đồng giáo dân và hàng giáo phẩm ở những nơi mới được thành lập. Mặc dù có phạm vi hoạt động rộng khắp khu vực Viễn Đông nhưng thực chất nơi mà các giáo sĩ Thừa sai hoạt động chủ yếu và hiệu quả nhất là ở Việt Nam. Để bảo đảm an toàn cho các giáo sĩ cũng như kết quả truyền bá đạo Kitô, Hội Thừa sai đã chủ trương hợp tác với nhà nước hòng khuếch trương ảnh hưởng của Pháp tại Viễn Đông3.

     Hoạt động truyền bá đạo Kitô của Pháp ở Việt Nam trước tiên phải nói đến Alexandre de Rhodes. Mặc dù không phải là người sáng lập ra Hội Thừa sai Paris nhưng ông có vai trò rất đặc biệt đối với sự ra đời của Hội. Năm 1625, ông đến Việt Nam để truyền bá đạo Kitô. Sau một thời gian dài ở châu Á về châu Âu, Alexandre de Rhodes đã công bố cho châu Âu và nước Pháp biết về đất nước Việt Nam thông qua một số công trình được xuất bản vào giữa thế kỉ XVII, trong đó đáng chú ý nhất là cuốn Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài xuất bản bằng tiếng Pháp năm 1651 và tiếng La-tin năm 1652. Alexandre de Rhodes cũng là người tích cực vận động Giáo hoàng và giới chức Kitô giáo ở Paris thành lập một tổ chức truyền giáo ở Viễn Đông. Ít năm sau đó, Hội Thừa sai Paris được thành lập sau những nỗ lực của Alexandre de Rhodes4.

     Từ khi Hội Thừa sai Paris được thành lập, vai trò truyền bá Phúc âm5 của các giáo sĩ Pháp ở Viễn Đông được khẳng định. Nhân lúc Tòa thánh Vatican mở một cuộc vận động tìm quốc gia khác thay thế quyền bảo trợ (về Kitô giáo) của Bồ Đào Nha ở Viễn Đông6, mặc dù bị Bồ Đào Nha phản đối nhưng do những nỗ lực của các giáo sĩ Pháp, nên năm 1658 Giáo hoàng Alexandre VII đã đồng ý cử 2 giáo sĩ Pháp là Francois Pallu và Pierre de la Motte Lambert làm đại diện tông tòa cho các xứ truyền giáo ở Trung Hoa và các vùng lân cận [2; tr58]. Năm 1662, Pallu cùng 9 giáo sĩ khác thực hiện nhiệm vụ sang Viễn Đông, năm 1664 họ đến Ayutthaya (Thái Lan), Lambert đã đến đây từ trước đó. Việc đầu tiên các giáo sĩ Pháp làm là tích cực hoạt động ở Thái Lan, Đàng Ngoài và Đàng Trong nhằm tổ chức lại các cơ sở tôn giáo và hình thành hàng giáo phẩm để nhân rộng ảnh hưởng của Kitô giáo. Song song với các hoạt động tôn giáo, các giáo sĩ Pháp mà tích cực nhất là Pallu còn rất quan tâm đến việc thành lập một công ty thương mại buôn bán với phương Đông như Công ty Đông Ấn Anh (English East India Company, EIC) và công ty Đông Ấn Hà Lan (Verenigde Oostindische Compagnie, VOC). Pallu hi vọng việc nước Pháp có một công ty thương mại ở Viễn Đông trước hết là để bảo vệ quyền lợi của người Pháp trước những người châu Âu khác ở đó và thứ hai là nhằm hỗ trợ và bảo vệ cho hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ. Niềm hi vọng của Pallu ngay lập tức được hiện thực hóa, công ty Đông Ấn Pháp (La Compagnie Francaise des Indes Orientales, CIO) được thành lập ngay trong năm 1664. Pallu đặc biệt khuyến cáo với lãnh đạo công ty là nên thành lập một cơ sở ở Việt Nam. Theo đề nghị của Pallu, năm 1671, CIO đã cử một tàu ra Đàng Ngoài. Tại đây, CIO được phép dựng một căn nhà và được hưởng đặc quyền như người Hà Lan [3; tr54]. Song, vào thời điểm này, hoạt động truyền bá đạo Kitô của các giáo sĩ Pháp đã bị chính quyền coi là phạm pháp (từ năm 1630) ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài. Do đó, cho dù rất muốn kết hợp hoạt động truyền giáo với lợi ích thương mại và chính trị của Pháp ở Việt Nam, nhưng trong thế kỉ XVII Pallu và Hội Thừa sai chưa thể thực hiện được. Trong bối cảnh đó, các giáo sĩ Thừa sai hoạt động ở Việt Nam thường được ngụy trang là thương nhân hoặc nhà khoa học. Hoạt động của họ gặp rất nhiều khó khăn và nguy hiểm do chính sách cấm đạo gắt gao của chính quyền. Tuy nhiên, đối với nhiệm vụ truyền giáo, trong thời gian hoạt động ở Việt Nam, Pallu và các giáo sĩ người Pháp đã thành lập được ba giáo khu Đại diện Tông tòa là: Đàng Trong, Đông Đàng Ngoài và Tây Đàng Ngoài [2; tr58]. Đây là những cơ sở Công giáo quan trọng cho hoạt động truyền giáo và thâm nhập Việt Nam của các giáo sĩ Thừa sai ở các giai đoạn sau.

3. Pigneau de Beshaine và con đường đưa Kitô giáo tiếp cận với nền chính trị Việt Nam

     Nhân vật có tầm ảnh hưởng cao hơn, giúp cho người Pháp có những cơ hội thâm nhập sâu hơn ở Việt Nam là Giám mục Pigneau de Béhaine (Bá Đa Lộc). Hoạt động trong vai trò là người kế tục sự nghiệp phát triển đạo Kitô ở Việt Nam từ nửa sau thế kỉ XVIII, giáo sĩ Pigneau de Béhaine là người đã tạo ra cơ hội cho Pháp chen chân vào nền chính trị Việt Nam.

     Trong nửa đầu thế kỉ XVIII, những nhà truyền giáo của Pháp đã phải trải qua một thời kì hết sức khó khăn với chính sách cấm đạo gắt gao của chính quyền Việt Nam, đặc biệt là chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài. Lí do cấm đoán của chính quyền Đàng Ngoài và sau đó là chính quyền Đàng Trong đối với công cuộc truyền giáo của người Pháp ở Việt Nam là khá rõ ràng và nó đã xuất hiện ngay từ khi linh mục Alexandre de Rhodes đang còn hoạt động ở Việt Nam. Đó là do việc truyền giáo của người Pháp đã đe dọa đến đời sống chính trị của Việt Nam được phản ánh qua sự thay đổi về mặt tư tưởng của những thần dân đã được cải đạo, sự thay đổi này sẽ ảnh hưởng đến sự phục tùng của dân chúng đối với chính quyền. Âm mưu vượt trên sự nghiệp truyền bá tôn giáo của các giáo sĩ Pháp ở Việt Nam là mối đe dọa lớn hơn đối với chủ quyền của chính quyền chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Chính vì thế hoạt động truyền bá và phát triển Kitô giáo ở Việt Nam của các giáo sĩ Pháp gặp rất nhiều khó khăn.

     Năm 1777, chúa Nguyễn Phúc Thuần bị phong trào Tây Sơn lật đổ, dòng dõi của chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Ánh (Nguyễn Ánh) chạy vào phía Nam và âm mưu cậy nhờ lực lượng phương Tây để khôi phục lại chính quyền. Sau khi đã lần lượt xin cầu cứu Bồ Đào Nha ở Macao, Tây Ban Nha ở Philippines, Hà Lan ở Batavia và Anh ở Calcutta đều không có kết quả thì Nguyễn Ánh đã gặp Pigneau de Béhaine, Giám mục hiệu tòa Adrian, đại diện Tông tòa của giáo phận Đàng Trong [2; tr 60]. Cuộc gặp giữa Nguyễn Ánh và Giám mục Pigneau de Béhaine là một bước ngoặt trong quan hệ chính thức giữa Pháp và Việt Nam. Năm 1787, Giám mục Pigneau de Béhaine đã đem Hoàng tử Cảnh, con cả của Nguyễn Ánh sang Paris thay mặt Nguyễn Ánh kí Hiệp ước Versailles. Theo Hiệp ước này Pháp sẽ đưa quân đội sang giúp Nguyễn Ánh để được nhượng lại các đảo ở Đà Nẵng và Côn Lôn cùng với độc quyền buôn bán ở Đàng Trong. Mặc dù thỏa thuận này không thực hiện được do cách mạng tư sản Pháp bùng nổ nhưng đó chính là cái cớ để Pháp can thiệp vào Việt Nam sau khi triều đại nhà Nguyễn được thiết lập.

     Giám mục Pigneau de Béhaine đã tự thân vận động giúp đỡ tích cực cho Nguyễn Ánh sau khi Chính phủ Pháp không thể thực hiện nội dung các điều khoản của Hiệp ước Versailles. Hành động của Pigneau de Béhaine lúc đầu gây ra sự nghi kị của Hội Thừa sai nhưng sau này họ nhận thấy rằng sự nghiệp của Giám mục Pigneau de Béhaine đã để lại là cả một sản nghiệp lớn của công cuộc truyền giáo của người Pháp ở Việt Nam cần lấy lại và phát triển thêm [2; tr 64]. Nửa đầu thế kỉ XIX, hoạt động truyền giáo ở Việt Nam của các giáo sĩ Pháp đạt được nhiều thành tựu hơn so với các thế kỉ trước. Tính đến năm 1850, Việt Nam đã có 8 giáo khu trong đó có 6 giáo khu do Hội Thừa sai Paris quản lí7 . Cũng trong thời kì này, nhất là từ khi vua Gia Long mất, các vua triều Nguyễn đều thực hiện chính sách cấm đạo gắt gao, đe dọa trực tiếp đến tính mạng cũng như ảnh hưởng tiêu cực đến sự nghiệp truyền giáo của các giáo sĩ Pháp. Do đó, để đảm bảo an toàn cho các giáo sĩ và công cuộc truyền giáo, các giáo sĩ Pháp tích cực tư vấn cho Chính phủ can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Tháng 5 năm 1857, hơn 1 năm trước khi Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, Giám mục Pellerin, đại diện Tông tòa giáo khu Bắc Đàng Trong đã về Pháp dâng lên vua Napoleon III một bản trần tình trong đó yêu cầu Chính phủ hỗ trợ để loại bỏ vua Tự Đức để thay vào đó là một ông vua theo đạo Kitô; ngoài ra còn đề nghị Chính phủ can thiệp bằng quân sự để đảm bảo tự do hành đạo cho Kitô giáo ở Việt Nam. Như vậy, đến lúc này Hội Thừa sai Paris ở Việt Nam không chỉ hoạt động đơn thuần trong lĩnh vực tôn giáo nữa mà đã công khai can thiệp vào nền chính trị và đe dọa đến chủ quyền của Việt Nam. Sự kiện Pháp đánh chiếm nước ta bằng vũ lực năm 1858 là kết quả của một quá trình thâm nhập lâu dài mà vai trò đi đầu là các giáo sĩ Pháp thông qua hoạt động truyền giáo.

4. Kết luận

     Trong một công trình nghiên cứu nổi tiếng về Việt Nam, Giáo sư Yoshiharu Tsuboi, đại học Waseda – Tokyo, Nhật Bản đã nhận xét vai trò của các giáo sĩ Thừa sai đối với quá trình xâm nhập Việt Nam của Pháp như sau:

     “… Với cái giá phải trả biết bao gian khổ và hi sinh, các giáo sĩ đã đặt được chân vào một xứ sở chưa Kitô hóa, đã đào tạo được các tân tòng rồi dần dần đứng vững tại đây. Sau giai đoạn khởi thủy đó hoàn thành, thủy quân Pháp xuất hiện: lợi dụng tối đa những người mới theo đạo, nắm lấy cơ hội để hoặc, chiếm lấy xứ đó làm thuộc địa bằng giải pháp quân sự, hoặc làm áp lực lên chính quyền bản xứ nhằm thiết lập một căn cứ quân sự hay buộc phải mở cửa cho nước ngoài vào buôn bán, hoặc nữa là phải kí kết một hiệp định đảm bảo cho tự do tín ngưỡng của đạo Kitô…” [2; tr 53].

     Chừng đó là đủ để khái quát lên được cách thức mà người Pháp đã làm để xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế kỉ XVII rồi chính thức xâm lược nước ta sau đó hơn 1 thế kỉ (1858).

     Rõ ràng, đạo Thiên Chúa được du nhập vào Việt Nam thông qua các giáo sĩ Thừa sai Pháp không chỉ có một mục đích duy nhất là truyền bá đức tin ở vùng đất mới mà còn nhắm đến mục tiêu thứ hai là gây dựng cơ sở xã hội để chuẩn bị cho việc xâm lược và xây dựng chế độ thuộc địa sau này. Biến đạo Thiên Chúa thành công cụ để xâm nhập là một cách thức cơ bản mà các nước thực dân phương Tây đã áp dụng bên cạnh các công cụ khác như thương mại, sức mạnh quân sự… để xâm nhập châu Á trong những thế kỉ đầu thời cận đại (XVII, XVIII).

_________
2. Bao gồm Trung Hoa, Nhật Bản, Thái Lan (Ayutthaya), Đông Dương (Indo-china).

3. Việc hợp tác với nhà nước xuất phát từ sự tranh giành quyết liệt giữa các nước châu Âu như Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Anh, Hà Lan, Pháp… ở các nước châu Á xoay quanh quyền lợi trong các lĩnh vực thương mại, ngoại giao, chính trị và tôn giáo. Hội Thừa sai muốn nhà nước Pháp bảo hộ cho hoạt động truyền giáo của họ ở Viễn Đông trước các đối thủ khác đến từ châu Âu, đổi lại họ sẽ thiết lập sự ảnh hưởng cho nước Pháp ở những nơi này.

4. Linh mục Alexandre de Rhodes lần đầu tiên đến Việt Nam năm 1625. Năm 1627, ông được chúa Trịnh Tráng cho phép giảng đạo ở Đàng Ngoài. Năm 1630, nhận thấy nguy cơ từ tôn giáo mới do người châu Âu mang đến, chúa Trịnh liền trục xuất Alexandre de Rhodes khỏi Đàng Ngoài. Năm 1640, sau 10 năm trú ngụ và hoạt động tại Macao, Alexandre de Rhodes đã trở lại Đàng Trong tiếp tục công cuộc truyền giáo ở Việt Nam. Năm 1645 Alexandre de Rhodes phải vĩnh viễn rời khỏi Việt Nam sau khi bị chúa Nguyễn Phúc Lan trục xuất. Từ khi phải rời khỏi Việt Nam, Alexandre de Rhodes rất tích cực đề nghị Giáo hoàn Roma cũng như Chính phủ Pháp có kế hoạch xâm chiếm phương Đông, ông ta đã viết rằng: “Tôi tin rằng Pháp, vì là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều binh sĩ để đi chinh phục toàn thể phương Đông, cũng như ở đó, tôi sẽ có cách để có nhiều Giám mục vốn là các Cha và các Thầy của chúng ta ở trong các nhà thờ”; đối với Việt Nam, ông ta nhấn mạnh rằng: “Đây là một vị trí cần phải chiếm lấy. Chiếm được xứ này thì các lái buôn châu Âu sẽ kiếm được một nguồn lợi nhuận và tài nguyên rất phong phú”.

5. Phúc âm hay Tin mừng là tên gọi chung để chỉ bốn cuốn sách đầu tiên và quan.

6. Đầu thế kỉ XVI, Giáo hoàng Jules II xác nhận quyền bảo trợ truyền bá đạo Kitô bên ngoài châu Âu cho hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha theo Hiệp ước Tordesillas (1694). Hiệp ước này phân chia quyền chiếm những vùng đất “vô chủ” giữa Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, theo đó: lấy điểm mốc là eo biển Gibraltar, Tây Ban Nha có quyền chiếm những vùng đất phía tây, còn Bồ Đào Nha chiếm vùng đất phía đông kèm theo đó là quyền bảo trợ truyền bá đạo Kitô cho 2 nước tương ứng 2 khu vực. Do đó, quyền bảo hộ truyền giáo ở khu vực Viễn Đông mặc nhiên thuộc về Bồ Đào Nha.

7. 8 giáo khu bao gồm: Nam Đàng Ngoài (Nghệ An, Hà Tĩnh, Bố Chánh, khu vực Lào tới sông Mekong); Tây Đàng Ngoài (Thanh Hóa, Ninh Bình, Hà Nội, Sơn Tây, Hưng Hóa, Nam Tuyên Quang); Trung Đàng Ngoài (Hưng Yên, Nam Định); Đông Đàng Ngoài (Bắc Ninh, Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Tuyên Quang, Hải Dương, Quảng Yên); Cao Miên (Campuchia và 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên của Việt Nam); Tây Đàng Trong (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long, Côn Lôn, một phần An Giang, Cần Thơ, Sa Đéc, Long Xuyên); Đông Đàng Trong (Quảng Nam, Quảng Ngãi; Bình Định; Phú Yên; Khánh Hòa; Bình Thuận); Bắc Đàng Trong (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     [1] Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài (viết tay bằng tiếng La-tin năm 1636 tại Macao, các bản in: tiếng Ý năm 1650, tiếng Pháp năm 1651, tiếng La-tin năm 1652), Từ điển Việt – Bồ – La (in năm 1651).

     [2] Yoshiharu Tsuboi (1990), Nước Đại Nam: Đối diện với Pháp và Trung Hoa, Nxb. Ban Khoa học xã hội, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh.

     [3] Nguyễn Mạnh Dũng (2006), Về hoạt động thương mại của công ty Đông Ấn Pháp với Đại Việt (nửa cuối thế kỉ XVII – giữa thế kỉ XVIII), Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 9.

Nguồn: Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Hồng Đức, số 26, năm 2015

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Việc truyền bá đạo Kitô và quá trình xâm nhập của người Pháp ở Việt Nam (Tác giả: TS. Lê Thanh Thủy)