BÀN THÊM về DU LỊCH TÂM LINH ở VIỆT NAM (Phần 2)
PHAN HUY XU1, 2VÕ VĂN THÀNH
(1PGS.TS. Trường Đại học Văn Lang,
2ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh)
2.3. Thực trạng du lịch tâm linh ở nước ta hiện nay
Ở Việt Nam, khách du lịch tâm linh chiếm một tỷ trọng khá lớn. Thông thường khách đi du lịch hầu như kết hợp với mục đích tâm linh hoặc mục đích tâm linh được lồng ghép trong nhiều chuyến đi du lịch. Trong số 32,5 triệu khách du lịch nội địa năm 2012 chỉ tính riêng số khách đến các điểm tâm linh (chùa, đền, phủ, tòa thánh) có khoảng 13,5 triệu lượt, tương đương 41,5%. Một số điểm du lịch tâm linh tiêu biểu năm 2012 đón một lượng khách lớn như Miếu Bà Chúa Xứ An Giang (3,6 triệu lượt khách), Chùa Hương (1,5 triệu lượt); Chùa Bái Đính (2,1 triệu lượt), Yên Tử (2,3 triệu lượt), khu du lịch Núi Bà Đen (2,2 triệu lượt); Côn Sơn Kiếp Bạc (1,2 triệu). Đối với khách quốc tế đến Việt Nam với mục đích tâm linh không nhiều, trong số 6,8 triệu lượt khách đến Việt Nam năm 2012 ước tính có khoảng 12% khách du lịch có đến các điểm du lịch tâm linh [6, tr.67].
Tuy nhiên, du lịch tâm linh ở nước ta còn nhiều bất cập. Dựa vào công trình nghiên cứu Bàn về văn hóa du lịch Việt Nam [10], chúng tôi phân tích năm thành tố cấu thành văn hóa du lịch như: du khách nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng địa phương, quản lý Nhà nước và tài nguyên du lịch, cụ thể là:
1) Du khách: phần đông chưa hiểu những vấn đề cơ bản về tâm linh, chưa chuẩn bị đầy đủ tâm thế đến với du lịch tâm linh. Còn nhầm lẫn giữa tâm linh, tín ngưỡng và tôn giáo. Do đó, khách du lịch tâm linh để xin mua rẻ, bán đắt, cầu may, kiếm nhiều lời, xin thăng quan tiến chức hoặc sa vào duy tâm thần bí, mê tín, dị đoan. Du khách ăn mặc và tác phong không được chỉnh chu, nghiêm túc. Một số du khách còn có những hành động phản cảm như xả rác, ẩu đả trong việc dành lộc. Đồng thời một số du khách lại có yêu cầu cao về sản phẩm và dịch vụ tâm linh cảm thấy thất vọng với thực trạng tại các điểm đến. Vào mùa lễ hội, các điểm du lịch tâm linh có “sức chứa” quá tải, làm ảnh hưởng xấu đến cảnh quan thiên nhiên, môi trường sinh thái, nhân văn và di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Tình hình này dẫn đến cảnh chen chúc, hỗn độn, mất trật tự an ninh và an toàn ở các điểm đến du lịch tâm linh mà nhiều phương tiện truyền thông đã đưa tin trong nhiều năm qua.
2) Nhà cung ứng dịch vụ du lịch: chưa chuẩn bị chu đáo nội dung và tổ chức các đoàn du lịch tâm linh. Còn nặng về thương mại hóa. Sử dụng hướng dẫn viên chưa đủ trình độ, kiến thức, kỹ năng và ngoại ngữ về du lịch tâm linh để phục vụ du khách. Nhiều hướng dẫn viên còn chưa nắm vững về bản chất của loại hình du lịch tâm linh và lịch sử truyền thống văn hóa Việt Nam cho nên thuyết minh còn sai sót và chưa thổi vào lòng du khách về niềm tin, cảm xúc và sự trải nghiệm về du lịch tâm linh. Tổ chức tour du lịch tâm linh theo kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, du khách không đủ thời gian để khám phá và trải nghiệm những giá trị văn hóa tâm linh ở các điểm đến.
3) Cộng đồng địa phương: Phần đông chưa hiểu biết đầy đủ và sâu sắc về loại hình du lịch tâm linh, cho nên họ tham gia vào còn mang tính chất tự phát, chưa đúng với bản chất của du lịch tâm linh. Những hiện tượng buôn bán hương hoa, vàng mã, tăng giá, chèo kéo mua đồ lễ làm phiền hà, gây khó chịu cho du khách, đặc biệt là đối với du khách nước ngoài. Một số địa phương, người dân đã mở nhiều hàng quán mua bán các loại động vật hoang dã và thực phẩm kém an toàn tại các điểm du lịch tâm linh. Tình trạng đốt hương, vàng mã, xả rác và không có ý thức giữ gìn vệ sinh môi trường đã gây ô nhiễm ở những điểm đến.
4) Cấp quản lý du lịch: Chính quyền địa phương chưa phối hợp chặt chẽ với cộng đồng dân cư, nhà cung ứng dịch vụ du lịch và du khách nên việc quản lý các điểm đến du lịch tâm linh còn nhiều thiếu sót và bất cập. Nhiều nơi, địa phương còn buông lỏng quản lý để hàng quán mọc lên một cách tùy tiện, rác rưởi mất vệ sinh làm mất ý nghĩa linh thiêng tại các điểm đến. Địa phương chưa giáo dục và xử lý kịp thời những thái độ phản cảm và tình trạng mất trật tự trị an. Các cấp quản lý chưa tạo văn minh, thân thiện, hiếu khách ở những điểm đến. Nhiều di tích, di sản chưa được bảo quản, tôn tạo tốt, chưa hướng dẫn cộng đồng địa phương tham gia cung cấp dịch vụ du lịch một cách bài bản.
5) Công việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ thị trường khách du lịch tâm linh vẫn còn bỏ ngỏ. Quan trọng nhất là số đông người làm du lịch chưa nhận thức đúng về khái niệm, nội hàm, phương pháp và tổ chức tour du lịch tâm linh. Nội dung của hoạt động du lịch tâm linh chủ yếu là hành hương đến những điểm tâm linh; tham quan, vãn cảnh, thưởng ngoạn cảnh quan và không gian kiến trúc, điêu khắc gắn với điểm tâm linh cũng như tìm hiểu văn hóa gắn với lịch sử, tôn giáo và lối sống bản địa, những giá trị di sản văn hóa gắn với điểm tâm linh; tham gia lễ hội tín ngưỡng, dân gian và còn nhiều lĩnh vực khác nằm ngoài tôn giáo. Theo đánh giá của tác giả Nguyễn Văn Tuấn, du lịch tâm linh đóng góp tích cực vào phát triển du lịch bền vững ở các khía cạnh như tạo công ăn việc làm, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống của các cộng đồng dân cư tại các điểm du lịch tâm linh; sống tốt đời, đẹp đạo, nhân cao nhận thức bảo vệ môi trường; mang lại những giá trị và trải nghiệm thanh tao cho du khách [6, tr.70]. Nhưng thực tế cho thấy kết quả này còn bị hạn chế.
Tiến sĩ Dương Bích Hạnh, Điều phối viên chương trình văn hóa, văn phòng UNESCO tại Việt Nam đã nhận xét: “Đầu tiên, một số di sản văn hóa bị khai thác quá mức và có cơ chế yếu để bảo vệ và bảo tồn các di sản này, kết quả là, phát triển kinh tế có nguy cơ ảnh hưởng xấu đến cả di sản truyền thống và di sản tâm linh” [4, tr.10].
Việt Nam định hướng phát triển du lịch tâm linh theo hướng khai thác những giá trị nổi trội về cảnh quan thiên nhiên, văn hóa gắn với quy hoạch liên kết vùng. Phát triển du lịch tâm linh trở thành động lực thu hút khách, thúc đẩy hoạt động dịch vụ du lịch khác, tạo sự đa dạng cho du lịch Việt Nam, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế – xã hội theo hướng bền vững. Tuy nhiên, tại một số điểm đến có đông du khách, nhiều dịch vụ ăn theo như xem bói, bốc quẻ, bán bùa may, nước thánh,… vàng thau lẫn lộn. Du lịch tâm linh là loại hình du lịch văn hóa chuyên đề, một nhân tố quan trọng không chỉ mang lại sự tăng trưởng kinh tế mà còn phát huy giá trị tinh thần, lòng yêu nước, niềm tin, tăng cường đoàn kết dân tộc và quốc tế. Văn hóa tâm linh vừa được coi là cốt lõi của sản phẩm du lịch tâm linh, đồng thời là sợi dân kết nối tâm hồn người Việt Nam và bạn bè quốc tế [4, tr.23].
Tuy nhiên, sản phẩm du lịch tâm linh ở Việt Nam vào thời điểm hiện tại còn đơn điệu và có cả những yếu tố lạc lỏng, phản cảm, thiếu an toàn, mất trật tự; ô nhiễm môi trường; yếu tố mê tín trỗi dậy đẩy lùi nét đẹp văn hóa của lễ hội. Phản cảm nhất là động cơ đi lễ của một số người đến chùa để cầu lộc, cầu may, xin được thăng quan tiến chức,… thậm chí có hiện tượng cướp lộc ở đền, chùa.
2.4. Giải pháp phát triển du lịch tâm linh
Với thực trạng du lịch tâm linh vừa phân tích trên đây, chúng tôi xin nêu ra một số giải pháp chính để phát triển du lịch tâm linh theo hướng bền vững (có tham khảo và đồng thuận với một số chuyên gia).
Các thành tố của văn hóa du lịch du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng, nhà quản lý cần có nhận thức đúng và định hướng đúng về phát triển du lịch tâm linh theo hướng bền vững và phải phối kết chặt chẽ để thực hiện đồng bộ và chuyên nghiệp.
Du lịch tâm linh phải được tập trung đầu tư phát triển theo quy hoạch bài bản trên cơ sở khai thác những giá trị nổi trội về cảnh quan thiên nhiên và văn hóa dân tộc. Phát triển du lịch tâm linh trở thành động lực thu hút khách du lịch, thúc đẩy các hoạt động dịch vụ du lịch khác, tạo sự đa dạng và hấp dẫn cho du lịch Việt Nam. Phát triển du lịch tâm linh trở thành mục tiêu phát triển đời sống tinh thần cho nhân dân hướng tới những giá trị chân, thiện, mỹ.
Giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức đúng về du lịch tâm linh, bài trừ mê tín dị đoan và hiện tượng thương mại hóa, đảm bảo thực hiện đúng các quan điểm phát triển loại hình du lịch tâm linh mang lại những giá trị tinh thần tiến bộ cho xã hội, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Xây dựng, tuyên truyền giáo dục và có các biện pháp chế tài những hiện tượng vi phạm “Bộ Quy tắc ứng xử về du lịch tâm linh” đến các đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch như du khách, nhà cung ứng dịch vụ du lịch, cộng đồng địa phương, các cấp quản lý Nhà nước.
Xây dựng sản phẩm và dịch vụ du lịch tâm linh theo hướng đa dạng, khác biệt, đẳng cấp, đặc sắc, tinh tế phù hợp với văn hóa địa phương và tiềm năng du lịch tâm linh tại các điểm đến.
Tập trung nguồn lực, tạo cơ chế huy động nguồn lực đầu tư vào các khu, điểm du lịch tâm linh dựa trên quy hoạch các khu, điểm du lịch tâm linh.
Tập trung đào tạo nguồn nhân lực phục vụ thị trường du lịch tâm linh cả về tri thức, kỹ năng và thái độ làm việc. Quan trọng nhất là phải nhận thức về khái niệm, nội dung, phương pháp và tổ chức thực hiện du lịch tâm linh. Đồng thời trong thời kỳ hội nhập phải chú ý nâng cao trình độ ngoại ngữ, chú trọng những kỹ năng về nghe, nói, đọc, viết. Ngoài ra, phải chú ý rèn luyện thái độ đối với du khách tâm linh.
Tổ chức cung cấp dịch vụ và tăng cường quản lý điểm đến du lịch tâm linh nhằm nâng cao giá trị di sản, thỏa mãn nhu cầu du khách.
Tăng cường nghiên cứu thị trường, phát triển sản phẩm, xúc tiến quảng bá du lịch tâm linh trong mối liên kết phát triển các loại hình du lịch khác đi liền với quản lý điểm đến trở thành thương hiệu du lịch nổi bật.
Thực hiện các chính sách du lịch có trách nhiệm hướng tới cộng đồng dân cư địa phương được hưởng lợi, đặc biệt là các nhóm người yếu thế. Tăng cường năng lực tham gia quản lý, phục vụ của người dân tại khu, điểm du lịch tâm linh. Cần phải giải quyết tốt lợi ích của các nhóm đối tượng tham gia vào hoạt động du lịch.
Hiện nay, có một vài điểm đến du lịch tâm linh đã bước đầu thực hiện tốt, đơn cử như chùa Cái Bầu (Quảng Ninh). Ở đây được gọi là thiền viện Trúc Lâm Giác Tâm, một công trình văn hóa tâm linh thu hút nhiều khách hành hương và vãn cảnh. Trong chùa không đốt vàng mã, không có quán xá, hàng rong, không có cảnh chèo kéo,… Du khách thực sự được hòa mình vào một không gian tĩnh lặng, ngắm nhìn vịnh Bái Tử Long xinh đẹp, có cảm giác bình yên, thanh thản, tâm hồn nhẹ nhàng như trút được mọi ưu tư, mệt mỏi,… Cần tìm hiểu và học tập kinh nghiệm tổ chức du lịch tâm linh của một số nước. Chẳng hạn, Myanmar là bài học quý giá cho phát triển du lịch tâm linh đối với Việt Nam. Sau 5 năm mở cửa, lượng du khách nước ngoài đến Myanmar tăng 170 lần. Myanmar có rất nhiều ngôi chùa cổ, với phong cách kiến trúc độc đáo; có xá lợi của Đức Phật và lưu giữ nhiều xá lợi của các cao tăng đắc đạo; trang phục kín đáo và đi chân trần là bắt buộc đối với người địa phương và du khách khi đến các địa điểm du lịch tâm linh; tấm lòng người dân nơi đây rất bình đẳng và quý khách [13].
Có thể nói du lịch tâm linh là loại hình du lịch có nhiều tiềm năng. Chúng ta cần nhận thức đúng đắn và khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch tâm linh theo hướng phát triển bền vững.
3. KẾT LUẬN
Hoạt động du lịch tâm linh tự phát hình thành từ xa xưa trong lịch sử loài người, dưới phương diện trải nghiệm cá nhân, nhưng du lịch tâm linh với tư cách là một loại hình dịch vụ du lịch mới được đề cập gần đây. Con người sống không chỉ cần vật chất mà còn cần đến tinh thần lành mạnh, tâm hồn luôn trải rộng với những trải nghiệm tâm linh hướng đến chân, thiện, mỹ để làm cho cuộc sống của chính mình được thăng hoa, do đó họ cần đến nhu cầu tâm linh và du lịch tâm linh.
Du lịch tâm linh góp phần nâng cao tự nhận thức, tự tu dưỡng, tự gột rửa tâm hồn. Du lịch tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh vừa làm cơ sở vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh con người. Du lịch tâm linh cần thiết cho con người trong xã hội hiện đại. Ở nước ta có nhiều tiềm năng để du lịch tâm linh phát triển vì nhân dân ta có truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời, có nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, có đạo lý “uống nước nhớ nguồn”.
Mặc dù hiện nay du lịch tâm linh của nước ta đang phát triển về số lượng du khách nhưng về chất lượng vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy, ngành du lịch và cả hệ thống chính trị nước ta cần nhiều giải pháp đồng bộ và chuyên nghiệp để đưa du lịch tâm linh phát triển bền vững nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, quyết tâm đưa du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn trong những năm sắp tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Thị Phương Mai (2016), Du lịch tâm linh ở An Giang – Tiềm năng và thách thức, in trong Các loại hình du lịch hiện đại, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Daniel H. Olsen (2013), Định nghĩa, động cơ và sự bền vững: Nghiên cứu điển hình du lịch tâm linh, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững, Ninh Bình ngày 21 và 22/11/2013.
3. Hoàng Tuấn Anh (2013), Phát biểu khai mạc, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế Du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững, Ninh Bình.
4. Kỷ yếu Hội nghị Quốc tế Du lịch tâm linh vì sự phát triển bền vững, Ninh Bình.
5. Lê Quang Đức, Bài giảng Du lịch tâm linh, Trường Đại học Tôn Đức Thắng.
Nguồn: Tạp chí Khoa học Đại Học Văn Lang, số 07/2018. ISSN: 2525-2429
Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)