Bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống gốm sứ Arita (Nhật Bản)

Tác giả bài viết: Tiến sĩ  NGUYỄN THỊ LAN ANH
(Khoa Tiếng Nhật, Trường Đại học Hà Nội)

TÓM TẮT

     Nằm ở phía Tây của tỉnh Saga, Arita là cái nôi của công nghiệp sản xuất gốm sứ Nhật Bản. Sau khi tiếp nhận kỹ thuật tiên tiến từ Trung Quốc qua con đường Triều Tiên, đã có thời gian dài Arita mô phỏng hoàn toàn theo các sản phẩm sứ Trung Quốc. Qua nhiều lần cải tiến kỹ thuật, cùng với những lợi thế của từng địa phương trong khu vực, Arita đã dần dần cải biến, dung nhập những yếu tố ngoại lai và thực sự thành công trong kỹ thuật chế tác để đưa ra các sản phẩm thực sự tinh tế của mình. Trải qua hơn 400 năm lịch sử hình thành và phát triển, cùng chính sách bảo tồn nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản, sản phẩm sứ Arita đã chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiêu thụ trong nước và có chỗ đứng trên thị trường thế giới.

Từ khóa: Gốm sứ Arita, gốm sứ Nhật Bản, nghề thủ công truyền thống, bảo tồn, phát triển.

ABSTRACT

     Located in the western part of Saga province, Arita is the cradle of Japanese porcelain industry. After receiving advanced technology from China via the Korean route, Arita had fully simulated of Chineseporcelain products for a long time. Through many technical improvements, along with the advantages of each locality of the region, Arita has gradually transformed, tolerated foreign elements and been really successful in manipulating techniques to produce truly exquisite products. Over 400 years of history of formation and development, together with the policy of preserving traditional crafts of Japan, porcelain products of Arita have dominated the domestic market and gained a stable position in the world market.

Keywords: Arita ceramics, Japanese ceramics, traditional handicraft, conservation, development.

x
x x

     Nghề sản xuất gốm sứ của Nhật Bản bắt đầu cách đây hơn 400 năm tại phía tây bắc quần đảo Kyushu, Nhật Bản. Gốm sứ Nhật Bản gắn liền với các mốc quan trọng trong lịch sử Nhật Bản. Cho đến thời Trung thế (thời kỳ Momoyama), phần lớn các lò sản xuất ở Nhật Bản đều là lò sản xuất gốm. Các dụng cụ bằng sứ được sử dụng trong sinh hoạt hàng ngày hầu hết là nhập khẩu từ Trung Quốc. Khi kỹ thuật phát triển, sứ mới bắt đầu được sản xuất, các sản phẩm tráng men và nung ở nhiệt độ cao được thực hiện, khởi đầu cho công nghiệp sản xuất sứ. So với các nước trong khu vực, Trung Quốc là nước có lịch sử sản xuất sứ lâu đời và nếu tính ở thời điểm thế kỷ thứ XV thì Triều Tiên, Việt Nam cũng đã sở hữu kỹ thuật sản xuất sứ và đã có những sản phẩm nhất định tiêu biểu của mình. Tuy ra đời muộn hơn một số nước trong khu vực, nhưng sứ Nhật Bản nói chung, sứ Arita nói riêng đã có những bước tiến nổi bật mà không phải quốc.

1. Bốn trăm năm phát triển của gốm sứ Arita

     1.1. Lịch sử hình thành và phát triển

     Arita là thị trấn nằm ở phía tây bắc tỉnh Saga, thuộc quần đảo Kyushu, với diện tích khoảng 65,85km2. Phía bắc tiếp giáp với thành phố Imari, phía đông tiếp giáp với thành phố Takeo, phía nam tiếp giáp với thị trấn Hasami (tỉnh Nagasaki), phía tây tiếp giáp với thành phố Sasebo (tỉnh Nagasaki)1. Thị trấn Arita được Nhà nước công nhận danh hiệu “Khu phố kiến trúc truyền thống” vào năm 1991, hiện có 157 ngôi nhà được xếp vào di sản truyền thống của quốc gia và được trao danh hiệu “ngôi nhà có kiến trúc truyền thống”, 130 ngôi nhà đạt danh hiệu “thân thiện với môi trường” [5, tr.121].

    Là quần đảo nằm gần với bán đảo Triều Tiên, nên từ sớm Kyushu đã tiếp nhận văn hóa từ đại lục qua con đường Triều Tiên và cũng đã tiếp nhận kỹ thuật sản xuất sứ. Thời gian này, các lò gốm sứ hoạt động riêng lẻ, không chính thức. Đến cuối thế kỷ thứ XVI, các lò sản xuất mới chính thức đi vào hoạt động.

     Theo kết quả điều tra khảo cổ học giai đoạn 1965 – 1970 tại lò nung Tengudanikoyo, các nhà khảo cổ đã làm sáng tỏ nhận định là giai đoạn trước năm 1616, các lò nung đã sản xuất đồng thời cả gốm và sứ với nhiều nguyên liệu và phương pháp khác nhau. Năm 1616, một dấu mốc quan trọng của Arita khi nghệ nhân Ri Sampei2 đã tìm thấy nguồn đất cao lanh chất lượng tốt tại vùng núi Izumi-yama và Arita đã trở thành tâm điểm bắt đầu sản xuất sứ của Nhật Bản. (Sau này, Ri Sampei được tôn vinh là “ông tổ của nghề gốm sứ” và hiện nay ngôi đền thờ ông vẫn được bảo tồn tại thị trấn Arita). Thời gian này, Arita thuộc quản lý của phiên Saga3 (Saga-han) và được công nhận là khu phố sản xuất sứ chính thức với tên gọi là Arita-Sengen4.

     Từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII, Arita tiếp nhận và bị ảnh hưởng mạnh mẽ từ kỹ thuật cũng như thiết kế của Trung Quốc thông qua con đường Triều Tiên. Không chỉ Arita mà các vùng lân cận như Hasami, Mikawachi (tỉnh Nagasaki) cũng tiếp nhận và đồng hành phát triển cùng Arita. Qua nhiều năm cải tiến kỹ thuật, Arita đã phát triển đến đỉnh cao và đến cuối thế kỷ XVIII đã xóa bỏ hoàn toàn bóng dáng gốm sứ Trung Quốc trong sản phẩm của mình.

     Năm 1828, do sự cố hỏa hoạn ở Arita nên toàn bộ sử sách, tài liệu đã bị đốt cháy. Vì vậy, hầu như không còn các tài liệu liên quan đến gốm sứ Arita từ trước thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX. Các nhà nghiên cứu, khảo cổ học đã tìm lại các tư liệu có ghi chép tại phiên Nabeshima5, các tài liệu buôn bán như “sổ kinh doanh”, “Nhật ký” buôn bán của công ty Đông Ấn Hà Lan6 (gọi tắt là VOC), giấy tờ của thương nhân Trung Hoa để làm sáng tỏ thời gian bắt đầu và thời gian kết thúc xuất khẩu của gốm sứ Nhật Bản. Theo sử liệu, những năm 1630, do có sự biến động chính trị trong nước, ngành sản xuất gốm sứ Trung Quốc bị ảnh hưởng nặng nề, đặc biệt là lò gốm Cảnh Đức Trấn7. Hơn nữa, cùng với chính sách “hải cấm” của Nhà Minh khiến cho gốm sứ Trung Quốc vắng bóng trên thị trường khu vực và quốc tế. Trước nhu cầu ngày càng gia tăng của thị trường, công ty VOC đã đặt hàng và chấp nhận sản phẩm gốm sứ Hizen8 Nhật Bản thay thế cho gốm sứ Trung Quốc. Thời gian này, các sản phẩm của sứ Arita cũng đã dần gặt hái được nhiều thành công trong quá trình cải tiến kỹ thuật sản xuất, mẫu mã và năm 1647 đánh dấu bước ngoặt lớn cho gốm sứ Nhật Bản, đặc biệt sản phẩm gốm sứ được sản xuất trong lãnh địa Hizen đã có mặt trên thị trường khu vực và quốc tế. Năm 1659, số lượng gốm sứ xuất khẩu tăng vượt bậc và đỉnh cao là giai đoạn 1660 – 1670. Năm 1684, giai đoạn gốm sứ Arita nói riêng, gốm sứ Hizen nói chung gặp nhiều bất lợi khi Trung Quốc ổn định chính trị và quay lại thị trường buôn bán. Giá thành sản phẩm khi xuất khẩu cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến gốm sứ Arita không thể cạnh tranh được so với giá cả của gốm sứ Trung Quốc [6, tr.25].

     Cùng với việc mất đi số lượng xuất khẩu ra thị trường thế giới, các thương nhân Arita và các vùng lân cận đã cố gắng đưa sản phẩm của địa phương đến với các vùng khác trong cả nước. Nhu cầu tiêu dùng của thị trường trong nước tăng cao, cùng với sự trưởng thành trong kỹ thuật sản xuất nên các thương nhân từ nhiều vùng khác nhau cũng đã trực tiếp đến Arita để mua và vận chuyển gốm sứ sang các địa phương trên cả nước [5, tr.37-39). Song song với việc cải tiến kỹ thuật để giảm giá thành sản phẩm, thiết kế mẫu mã cho phù hợp với người tiêu dùng trong nước, các dòng gốm sứ cao cấp thế kỷ XVIII đã được dùng phổ biến trong đời sống của nhân dân trong thế kỷ XIX, đánh dấu sự phát triển thịnh vượng của văn hóa ẩm thực Nhật Bản. Ngày nay, văn hóa ẩm thực Nhật Bản được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể và gốm sứ Arita đóng góp một vai trò lớn trong kỳ tích này.

     Có thể tóm tắt quá trình phát triển các dòng sản phẩm của sứ của Arita như sau:

     Imari sơ kỳ: Dòng sản phẩm đời đầu với hoa lam đơn sắc trên nền sứ trắng, được gọi là sứ trắng vẽ lam (hay còn gọi là sứ hoa lam). Sản phẩm sứ sản xuất ra hầu hết là dụng cụ dùng cho sinh hoạt hàng ngày như bát, đĩa, cốc chén với các họa tiết đơn giản, nhẹ nhàng [3, tr.11]. Thời kỳ này chưa có kỹ thuật trang trí họa tiết màu nên hầu hết các sản phẩm đều có điểm chung như đế cốc, đĩa cao và nhỏ, họa tiết được trang trí phía trong mặt sản phẩm, còn phía ngoài để sứ trơn. Cốt sứ dày, đường nét trang trí họa tiết trên sản phẩm khá to, không thanh mảnh nhưng đem lại vẻ đẹp mộc mạc của sản phẩm thời kỳ này. Theo sử liệu, vào khoảng cuối thời kỳ Asuka (thế kỷ VII), người Nhật rất ưa chuộng đồ gốm từ Trung Quốc nên số lượng không nhỏ gốm sứ Trung Quốc được nhập vào Nhật Bản. Người Nhật rất quan tâm đến đồ gốm sứ màu xanh và trắng của Trung Quốc thời Minh (1368 – 1644) và của bán đảo Triều Tiên thời Cao Ly. Có lẽ vì thế, để đáp ứng nhu cầu của thị trường trong nước, sản phẩm sứ Arita giai đoạn này mang phong cách hoàn toàn giống với sứ Trung Hoa.

     Sứ màu Kokutani: Giai đoạn 1640 – 1650, Nhật Bản đã bắt đầu phát triển kỹ thuật trang trí họa tiết màu và sứ màu Kokutani là sản phẩm tiêu biểu cho giai đoạn sơ kỳ này. Khác với Imari sơ kỳ, dòng sản phẩm này đã chú trọng hơn đến họa tiết phía mặt ngoài của sản phẩm, đáy bát, cốc, chén cao và rộng hơn. Bên cạnh đó, cốt sứ mỏng và trắng sáng hơn so với thời kỳ đầu [3, tr.11].

     Kakiemon: Từ năm 1670, một tiến bộ vượt bậc trong quá trình phát triển của sứ Arita, là sản phẩm sứ màu với tên gọi Kakiemon ra đời. Không chỉ tiếp thu đơn thuần các kỹ thuật cơ bản từ Trung Quốc, Arita đã từng bước phát triển dựa trên điểm mạnh của các vùng sản xuất để đưa ra sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng trong nước và nước ngoài, tạo một bước ngoặt lớn cho gốm sứ Nhật Bản. Kakiemon được biết đến là sản phẩm có họa tiết màu như đỏ, xanh, vàng, lam được trang trí trên nền sứ trắng sáng. Sứ Kakiemon đạt đến sự bóng láng tuyệt hảo, màu men trắng bóng mờ như màu ngọc. Họa tiết của sản phẩm này không đơn thuần là sao chép ý tưởng họa tiết từ gốm sứ Cảnh Đức Trấn nữa mà đã mang đậm phong cách Nhật Bản trong từng chi tiết tỉ mỉ của họa tiết trên bề mặt sản phẩm. Dòng sản phẩm Kakiemon không chỉ được ưa chuộng trong nước mà ngay cả các tầng lớp quý tộc nước ngoài cũng đánh giá rất cao. Đặc biệt, dòng sản phẩm Kakiemon đã được lấy làm mẫu để sản xuất tại một số lò gốm sứ ở Âu, Mỹ, tiêu biểu là lò Meisei (Đức) [3, tr.12].

     Nabeshima: Cuối những năm 1650, với vai trò là quà tặng cho tầng lớp quý tộc, sản phẩm sứ màu Nabeshima ra đời với những họa tiết tinh tế thu hút người dùng. Các họa tiết đỏ, vàng, xanh được trang trí trên nền sứ hoa lam. Dòng sản phẩm Nabeshima được mệnh danh là “gốm sứ quý tộc” hay “sản phẩm dành cho sức khỏe”. Họa tiết của Nabeshima như một bức tranh khắc họa đủ thời khắc của mùa xuân, hạ, thu, đông. Đặc trưng của dòng sản phẩm này là đế cao, vành chân đế cũng được trang trí bởi các đường viền màu xanh hoặc màu chàm.

     Ko-Imari Kirande: Dòng sản phẩm Kirande (Hình 5) được sản xuất từ khoảng cuối những năm 1690. Sản phẩm nhận nhiều ảnh hưởng từ dòng Kirande của gốm sứ Cảnh Đức Trấn thời Minh, nhưng sau đó Arita đã kết hợp phong cách Nhật Bản vào trong các họa tiết của sản phẩm tạo ra nét khác biệt độc đáo. Thời gian đầu, Kirande được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường châu Âu nhưng về sau này Kirande được dùng phổ biến trong mọi tầng lớp cả ở thị trường Nhật Bản. Hoa văn họa tiết của sản phẩm được dùng với các màu sắc tươi sáng như đỏ, vàng và được trải đều trên bề mặt sản phẩm. Đến thời Minh Trị, Kirande đã cho ra thị trường nhiều sản phẩm với mẫu mã được ưa chuộng và đánh giá cao.

     Các nhà nghiên cứu lịch sử trà đạo đã từng đánh giá rằng với kỹ thuật và mẫu mã sản phẩm thì sứ màu Nabeshima và Kakiemon là niềm tự hào của gốm sứ Arita. Ngoại trừ Kakiemon và Nabeshima, tính đến thời Cận thế, các dòng còn lại của Arita đều được gọi với tên Ko-Imari. Theo ghi chép trong cuốn “Lịch sử thành phố Arita”, từ giai đoạn 1760 – 1820, hầu hết các sản phẩm mang phong cách Trung Hoa đã không hiện diện nữa, mà thay vào đó, hoa văn họa tiết của Arita mang đậm phong cách Nhật Bản. Họa tiết trên sản phẩm được sử dụng là những họa tiết đơn giản, gần gũi với cuộc sống thường nhật của người dân [1, tr.210].

     Năm 2016, kỷ niệm 400 năm gốm sứ Arita, hàng loạt các sự kiện “lễ hội gốm sứ Arita” được tổ chức để giới thiệu kỹ thuật sản xuất từ quá khứ đến hiện tại, các dòng sản phẩm từ bình dân đến cao cấp của dòng gốm sứ này.

     1.2. Nghệ nhân

     Hiệp hội nghệ nhân gốm sứ Arita được thành lập từ năm 1981 với mục đích kế thừa và phát huy kỹ thuật sản xuất truyền thống của gốm sứ Arita. Theo ghi chép của Hiệp hội, từ khi thành lập đến nay, hiệp hội đã quy tụ 54 nghệ nhân có tay nghề cao của nghề truyền thống Arita. Chủ tịch hiệp hội là nghệ nhân Imaemon Kakiemon (1962) – người được công nhận danh hiệu nghệ nhân bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể vào năm 2014. Ngoài ra, ông còn nhận được nhiều giải thưởng ở các năm 1998, 2004, 2008, 2009 và 2012. 53 thành viên còn lại như Manji Inoue (1929) – danh hiệu nghệ nhân quốc gia năm 1995 và đã nhận giải thưởng các năm 1967, 1987, 1993, 1999, 2002, 2003; Ken Shomura (1949) được công nhận nghệ nhân quốc gia năm 1969 và năm 1996, ông đã nhận được danh hiệu bàn tay vàng. Ngoài ra, ông còn nhận các giải thưởng danh giá khác ở các năm 1981, 1983, 1988, 1996. Các nghệ nhân khác như Yasunori Inoue (1958) nhận giải thưởng các năm 1988, 2002, 2007, 2009, 2011); Toshio Shimada (1946) nhận giải thưởng các năm 1981, 1984, 1986, 1993, 2003… Bên cạnh thế hệ nghệ nhân có bề dày kinh nghiệm còn có một số thợ gốm trẻ cũng đã theo đuổi học nghề để được công nhận nghệ nhân, bước vào sự nghiệp gìn giữ và bảo tồn nghề truyền thống của nước nhà. Trong đó, phải kể đến một số nghệ nhân trẻ tiêu biểu như Yashimitsu Ogawa (1975) đã nhận giải thưởng năm 2007, 2013; Yasuo Nakashima (1968) vinh dự 9 lần nhận giải thưởng cao tại các năm 2001, 2002, 2003, 2004, 2005, 2006, 2009; Makoto Nakamura (1975) nhận giải thưởng năm 2014, 2017; Hisaki Somura (1974) nhận giải thưởng các năm 2002, 2004, 2011, 2016… Có thể nhận thấy sự tiếp nối nghề truyền thống của gia đình, nhiều gia đình có ba đời được ghi danh tại các cuộc thi và có đóng góp nhất định cho công cuộc bảo tồn và phát triển nghề truyền thống của địa phương.

     1.3. Sản phẩm và thị trường

     Mặt hàng chủ yếu của gốm sứ Arita là bát đĩa, cốc chén, bình và các vận dụng trang trí phù hợp với cuộc sống sinh hoạt thường nhật. Hoa văn họa tiết của sản phẩm đa dạng phong phú. Chủ đề động vật như rồng, sư tử, hổ, hạc, cá, dơi… thực vật như tùng, cúc, trúc, mai, mơ, đào, phù dung và nhiều họa tiết phù hợp với từng mùa. Sản phẩm từ bình dân được bán ở cửa hàng tạp hóa có giá 100 yên (tương đương với 20.000 VND) đến các mặt hàng thủ công cao cấp làm theo kỹ thuật truyền thống. Các sản phẩm chủ yếu là sứ hoa lam, sứ xanh, sứ trắng và sứ màu được ưa chuộng. Hoa văn trang trí đa dạng phong phú, phù hợp với nhiều lĩnh vực như dùng trong sinh hoạt hàng ngày, dành cho lễ hội, sự kiện…

     Trải qua hơn 400 năm lịch sử, gốm sứ Arita có những thăng trầm nhất định trong công cuộc chinh phục thị trường trong nước và nước ngoài. Những năm 1650, Arita đã thành công vượt trội để thay thế gốm sứ Cảnh Đức Trấn (Trung Quốc), tuy nhiên, khi Trung Quốc ổn định chính trị và quay lại xuất khẩu ra các nước trong khu vực thì giá thành sản phẩm của Arita, sự suy yếu của công ty Đông Ấn Hà Lan,… là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến Arita mất đi chỗ đứng trên thị trường thế giới lúc bấy giờ. Tuy xuất khẩu ra thị trường khu vực và quốc tế trong thời gian ngắn nhưng sự tinh tế và vẻ đẹp của Arita được đánh giá rất cao. Thế kỷ XVIII, Arita tập trung chủ yếu sản xuất các sản phẩm phục vụ cho thị trường trong nước. Những năm gần đây, ngoài sản phẩm chủ yếu phục vụ cho thị trường nước nhà, Arita tiếp tục đưa sản phẩm sang thị trường Trung Quốc với số lượng khiêm tốn. Theo ghi chép của tổ chức Jestro, từ năm 2010, Arita đã cung cấp các sản phẩm cao cấp cho Thượng Hải. Theo số liệu công bố của Jestro, năm 2011, công ty Shinemon là công ty độc quyền cung cấp gốm sứ Arita cho cuộc “Triển lãm mỹ thuật Thượng Hải” các chủng loại cốc chén khác nhau mỗi loại 100 sản phẩm (6000 yên/1 sản phẩm). Từ năm 2011 đến nay, sản phẩm Arita xuất sang thị trường Trung Quốc chiếm 1/4 trong tổng sản phẩm mà Shinemon xuất ra nước ngoài. Số lượng xuất khẩu khiêm tốn nhưng cũng đã đánh dấu bước ngoặt quay lại chinh phục thị trường thế giới của Arita. Hiện nay, thành phố Saga, cũng như thị trấn Arita đang xây dựng các chiến lược liên kết với các doanh nghiệp khẩu xuất để thăm dò nhu cầu của các nước, dần tiến tới đáp ứng nhu cầu của khách hàng thế giới.

2. Bảo tồn và phát triển gốm sứ Arita

     2.1. Bảo tồn và phát triển kỹ thuật truyền thống

     Trong lịch sử, Arita được biết đến là thị trấn cổ với hàng loạt lò gốm hoạt động từ rất lâu đời. Arita có hơn 66 lò bầu nung gốm sứ được phân bổ khắp thị trấn. Hiện nay các di tích lò bầu này được nhà nước công nhận là di sản văn hóa, trong đó phải kể đến các lò tiêu biểu như lò Kakiemon, Tengudanikoyo, Yanbeta, Haraakega, v.v. Gốm sứ Arita được công nhận là nghề thủ công truyền thống9 vào năm 1977 (năm Chiêu Hòa 52), đã thành công trong công cuộc bảo tồn và phát triển nghề truyền thống của mình.

     Trước đây, tất cả các công đoạn từ khâu nhào đất, xử lý tạp chất, tạo hình đến khâu nung và hoàn thiện sản phẩm đều được làm tại một xưởng sản xuất. Mỗi công đoạn sẽ chuyên môn hóa với các thợ gốm chuyên nghiệp như thợ trộn đất, thợ tạo hình trên bàn xoay, thợ trang trí họa tiết thô, trang trí họa tiết màu… tất cả sẽ tạo thành một vòng tròn tại một xưởng sản xuất. Trong thời Edo, các xưởng sản xuất hoạt động riêng biệt và có truyền thống truyền nghề từ đời trước cho đời sau và để trang trí, vẽ họa tiết cho một sản phẩm yêu cầu nghệ nhân phải có tay nghề, kinh nghiệm. Mỗi nghệ nhân lại có khả năng riêng biệt khi đưa ra sản phẩm của mình. Từ thời Minh trị cho đến nay, các công đoạn từ chọn đất, tạo hình, trang trí họa tiết, nung,… không còn tập trung tại một xưởng nữa mà được chia ra tại các xưởng khác nhau, làm theo dây chuyền, tạo thành một liên kết giữa các lò sản xuất. Cụ thể: 1) Nguyên liệu được lấy từ vùng núi Amakusa (thuộc Kumamoto); 2) Trộn đất, loại bỏ tạp chất,… được tiến hành tại thị trấn Shiota (Saga); 3) Tạo hình, vẽ mẫu tại thị trấn Hasami (Nagasaki); 4) Nung, trang trí họa tiết màu, hoàn thiện sản phẩm tại Arita (Saga) và các sản phẩm hoàn thiện sẽ từ Arita phân phối sang các cửa hàng trên toàn quốc [1, tr.368]. Như vậy, có thể thấy các xưởng sản xuất không làm việc nhỏ lẻ mà có sự gắn kết giữa các xưởng với nhau trong toàn khu vực. Mỗi xưởng có điểm mạnh riêng, giúp cho các sản phẩm ngày được cải thiện hơn.

     Thời gian trước đây, Arita sử dụng lò bầu để nung sản phẩm, khi sử dụng lò bầu và đốt bằng than, củi thì tỷ lệ sản phẩm lỗi khá nhiều. Ngày nay, kỹ thuật tiên tiến hơn, các dụng cụ trong sản xuất cũng thay đổi nhiều, chẳng hạn như sử dụng các lò nung bằng gas hay lò nung điện. Với các loại lò này, nhiệt độ sẽ luôn được giữ ở mức cần thiết cho các loại sản phẩm khác nhau. Họa tiết trang trí trên sản phẩm cũng dần chuyển sang công nghiệp hóa bằng cách sử dụng khuôn thạch cao để tạo hình. Khuôn thạch cao sẽ cho phép cấp hồ để tạo hình cho đồng loạt các sản phẩm giống nhau. Họa tiết trang trí cũng được đơn giản hóa bằng cách sử dụng mẫu có sẵn để in và sao chép.

     Hơn 400 năm hình thành và phát triển, Arita đã đạt được những thành tựu đáng kể, trong đó phải kể đến dòng sản phẩm Kakiemon và sứ màu Nabeshima. Theo ghi chép của của Sở Văn hóa thành phố Saga, kỹ thuật sản xuất sứ trắng nigoshide10 của Kakiemon đời thứ 14 được Bộ Văn hóa Nhật Bản công nhận là di sản văn hóa phi vật thể vào ngày 23 tháng 4 năm 1970 (năm Chiêu hòa 46). Kỹ thuật nigoshide cho ra sản phẩm với màu men trắng sữa và trên nền men trắng sữa, các hoạt tiết màu được hiện lên sắc nét tạo nên vẻ đẹp tinh xảo của sản phẩm. Khi nhìn vào sản phẩm, dường như màu trắng trong suốt làm nền nên bức tranh trở nên sống động. Các sản phẩm khác thường dựa nhiều vào vào dụng cụ hay cách pha màu để tạo ra nét riêng của sản phẩm. Tuy nhiên, Kakiemon nigoshide có bí quyết riêng trong cách pha trộn các thành phần để đạt được độ trong suốt của sứ trắng.

     Ngày 23 tháng 4 năm 1975 (năm Chiêu hòa 51), Arita một lần nữa gặt hái thành công khi kỹ thuật chế tác, hoa văn họa tiết của sứ màu Nabeshima được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể. Năm 1996, sở Văn hóa thành phố Saga kết hợp với Trung tâm nghiên cứu lịch sử thị trấn Arita tổ chức cuộc triển lãm các sản phẩm đạt giải thưởng của các nghệ nhân tiêu biểu. Hiện nay, các sản phẩm đạt giải thưởng được bảo tồn, lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng gốm sứ Kyushu thuộc thành phố Saga – cái nôi ra đời của công nghiệp chế tác sứ Nhật Bản.

     2.2. Điều phối sản xuất và tiêu thụ sản phẩm truyền thống

     Để đưa sản phẩm thủ công truyền thống đến với người tiêu dùng, nhà điều phối – Tonya11 đóng vai trò không thể thiếu trong chiến lược marketing. Trước đây, vai trò của Tonya khá mờ nhạt và hầu hết các xưởng sản xuất có cơ chế hoạt động riêng dẫn đến có nhiều vấn đề khi tiêu thụ sản phẩm. Quy trình từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng có thể tóm lược theo sơ đồ sau: Xưởng sản xuất -> Tonya điều phối làng nghề -> Tonya quản lý tiêu thụ -> Cửa hàng kinh doanh -> Người tiêu dùng [2, tr.94].

     Với mô hình quản lý như trên dẫn đến tình trạng những phản hồi của người tiêu dùng không đến được nhà sản xuất và chiến lược kinh doanh dần không có hiệu quả. Các Tonya lựa chọn các mặt hàng cần thiết từ các xưởng sản xuất để đưa đi tiêu thụ, vì thế, các công đoạn tiêu thụ sản phẩm Arita hầu như chưa có quy định chặt chẽ. Các vấn đề đặt ra cho Arita là cần phải tìm hiểu nhu cầu của người tiêu dùng, tìm cách mở rộng sản xuất các mặt hàng, mở rộng thị trường tiêu thụ… Do đó, Tonya không chỉ tham gia vào tiêu thụ sản phẩm ngẫu nhiên như trước, mà đã tham gia điều phối toàn bộ quy trình sản xuất từ khâu nhận yêu cầu đặt hàng đến khâu tiêu thụ hàng hóa, cũng như đưa ra chiến lược kinh doanh cho các loại sản phẩm. Tonya kết hợp với thành phố Saga đã đưa ra chiến lược phát triển sản phẩm Arita dựa trên đặc điểm của các lò sản xuất. Cụ thể, đã chia các xưởng sản xuất thành 3 loại hình: 1) Loại hình thứ nhất, các xưởng sản xuất có lò gốm với quy mô lớn, sử dụng máy móc hóa sẽ tận dụng điểm mạnh của mình để phát triển thị trường không cần các Tonya điều phối làng nghề làm trung gian như xưởng Iwao (hiện nay là doanh nghiệp Iwao); Koransha (doanh nghiệp Koransha); Fukagawa (doanh nghiệp Fukagawa); 2) Loại hình thứ hai, các xưởng có kỹ thuật sản xuất sản phẩm cao cấp như Kakiemon, Imakakiemon, Genemon… Các xưởng này không thông qua các Tonya trung gian mà tự thành lập bộ phận kinh doanh để phát triển thị trường; 3) Loại hình thứ ba, các xưởng có lò sản xuất nhỏ sẽ nhờ vào sự trợ giúp của các Tonya để tiêu thụ sản phẩm như các lò thuộc thành phố Imari, Ureshino, thị trấn Hasami (thuộc Nagasaki), lò Mikawachi ở thành phố Sasebo (Nagasaki) [2, tr. 96].

     Ngoài ra, thành phố Saga đã thành công trong chiến lược đưa thương hiệu của gốm sứ Arita lan rộng ra cả nước. Thành phố Saga đã xác lập thương hiệu sản phẩm độc quyền của mình và là đơn vị tiên phong đưa Arita đến tận tay người tiêu dùng trong cả nước. Bên cạnh đó, nhờ vào chiến lược chia các xưởng sản xuất thành 3 loại hình, các xưởng có quy mô lớn như Koransha, Fukagawa,… đã tích cực mở rộng thị trường và làm nên thương hiệu cho Arita. Bên cạnh đó, góp phần không nhỏ để nhiều người biết đến Arita hơn đó là các danh hiệu nghệ nhân quốc gia; di sản văn hóa phi vật thể của kỹ thuật chế tác Kakiemon, Nabeshima.

     Hiện nay, Tonya quản lý tiêu thụ và Tonya quản lý làng nghề vẫn được duy trì và có mối liên kết chặt chẽ. Không chỉ tiêu thụ tại địa phương, sản phẩm Arita được điều phối trên diện rộng khắp cả nước tại các cửa hàng trải dài từ Hokkaido, Tohoku, Kanto, Kansai, Chubu… Bên cạnh các chiến lược phát triển của Tonya, các công ty sản xuất cố gắng duy trì tự mình phát triển thị trường thông qua các loại hình bán hàng trực tuyến, giao hàng cho các cửa hàng phân phối.

     Sự thành công trong chiến lược quảng bá và tiêu thụ sản phẩm Arita được minh chứng ở kết quả điều tra xã hội học năm 2012 của GS. Uehara Noriko (Trường Đại học Kaetsu) về mối quan tâm của người tiêu dùng đối với các sản phẩm gốm sứ. Giáo sư đã điều tra 421 người trong 1 năm đã mua trên 5 sản phẩm gốm sứ tại các thành phố Tokyo, Kanagawa, Saitama, Chiba. Kết quả thu được như sau: 81,6% số người tham gia trả lời phiếu điều tra biết đến dòng gốm sứ Arita và các thương hiệu khác như Kutani (60,4%), Mashiko (55,6%), Shigaraki (42,2%), Bizen (32,0%), Yagi (30,3%), Kyoyaki (23,1%)… Một số thương hiệu khác như Bankoyaki, Igayaki, Tanbayaki… hầu như không được biết đến [2, tr.91]. Kết quả khảo sát đã cho thấy gốm sứ Arita được nhiều người biết đến hơn so với các dòng gốm sứ khác.

     Hiện nay, các doanh nghiệp tiêu biểu như Koransha, Marukei, Marubun, Masuda, Kihara, Hokodo và nhiều các doanh nghiệp khác chủ yếu phát triển thương hiệu gốm sứ Arita. Để phát triển nghề truyền thống, các doanh nghiệp liên kết chặt chẽ để điều tra nhu cầu của người tiêu dùng và đặt hàng tại các lò sản xuất truyền thống. Bên cạnh đó, các công ty còn có chiến lược thu mua, trao đổi các sản phẩm gốm sứ Arita đã qua sử dụng để tái chế, qua đó người tiêu dùng cũng có cơ hội sử dụng các sản phẩm mới của Arita thường xuyên hơn.

     2.3. Hỗ trợ sản xuất và đào tạo nghề truyền thống

     Để đạt được các thành tựu trong phát triển sản phẩm gốm sứ truyền thống, thị trấn Arita nói riêng, thành phố Saga nói chung đã nỗ lực trong bảo tồn và phát triển nghề truyền thống có từ lâu đời của địa phương mình, trong đó, phải kể đến vai trò của Trung tâm kỹ thuật sản xuất thành phố Saga, Hiệp hội nghệ nhân gốm sứ Arita, Hiệp hội gốm sứ thành phố Saga.

     Công việc chính của Trung tâm kỹ thuật sản xuất là hỗ trợ các làng nghề phát triển, cải tiến kỹ thuật sản xuất. Với chiến lược phân chia các xưởng sản xuất theo 3 mô hình như đã đề cập ở phần trên, với mô hình các xưởng sản xuất hiện đại hóa bằng máy móc thì trung tâm luôn hỗ trợ các phầm mềm, các kỹ thuật tiên tiến để đưa vào sản xuất ở các khâu cần thiết. Các thành viên của Trung tâm thường xuyên đến các lò sản xuất để xem xét tình hình và nếu có những vấn đề phát sinh trong mảng kỹ thuật thì sẽ hỗ trợ trực tiếp. Những vấn đề phức tạp phát sinh, Trung tâm sẽ kết hợp với Hiệp hội nghệ nhân gốm sứ Arita, Hiệp hội gốm sứ thành phố Saga tiến hành tổ chức các buổi sinh hoạt chuyên môn để nghệ nhân của các lò gốm cùng trao đổi ý kiến nhằm cải tiến kỹ thuật cho phù hợp với tình hình thực tế tại các doanh nghiệp sản xuất. Bất kỳ khi nào các xưởng sản xuất gặp khó khăn về mặt kỹ thuật đều nhận được trợ giúp từ các nhà nghiên cứu, các nghệ nhân ở Trung tâm. Ngoài hỗ trợ kỹ thuật, các kỹ sư của Trung tâm thường xuyên nghiên cứu chất đất, quy trình xử lý đất, nhiệt độ lò nung và tìm hiểu kỹ thuật mới để đề xuất đến các xưởng sản xuất, nhằm đưa ra nhiều sản phẩm với chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong phú hơn.

     Bên cạnh việc hỗ trợ kỹ thuật, gắn kết các lò gốm với nhau, Trung tâm kỹ thuật sản xuất thành phố Saga còn có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ đào tạo đội ngũ kế nghiệp nghề thủ công truyền thống Arita. Trung tâm đã hỗ trợ thành phố Saga thành lập Trường Trung cấp nghề gốm sứ Arita. Đây là trường chuyên môn đầu tiên và duy nhất đào tạo chuyên sâu về gốm sứ được thành lập vào năm 1985. Tháng 4 năm 2018, Trường chính thức kết hợp với Khoa Mỹ thuật, Đại học Saga để khai giảng khóa đại học 4 năm chuyên ngành gốm sứ tại trường. Tại đây, sinh viên được đào tạo các khâu cơ bản, kỹ thuật truyền thống, kỹ thuật hiện đại áp dụng máy móc trong sản xuất… với các chuyên ngành cụ thể như tạo hình, thiết kế mẫu mã sản phẩm, kỹ thuật chế tác. Không chỉ tuyển sinh đào tạo sinh viên chính quy theo học ngành gốm sứ, trường cũng tiếp nhận rất nhiều các đoàn sinh viên, thợ thủ công trong nước và quốc tế về thực tập, nghiên cứu ngắn hạn. Tuy nhiên, sau khóa học 2 năm hoặc 4 năm tại trường, các thợ gốm cần có thời gian luyện tập trước khi được công nhận là thợ có tay nghề chính thức. Theo báo cáo định kỳ của trường, tổng số lượng sinh viên nhập học năm 2018 là 120 người (chuyên ngành gốm sứ khóa học 2 năm: 40 sinh viên; khóa học 4 năm: 40 sinh viên; khóa học 1 năm ngành tạo hình trên bàn xoay:10 sinh viên; trang trí họa tiết: 20 sinh viên; khóa học bổ túc 1 năm thực hành tạo hình trên bàn xoay: 5 học viên; trang trí họa tiết: 5 học viên). Sau khi kết thúc khóa học, thời gian đầu hầu hết các thợ gốm trẻ đều được giới thiệu vào các doanh nghiệp sản xuất để thực tập và học nghề. Sau thời gian tích lũy kinh nghiệm, có nhiều thợ gốm trẻ đã phát triển xưởng gốm độc lập của mình. Cũng giống như thời Edo, có hai hình thức đào tạo tay nghề cho các thợ gốm trẻ: Một là, chế độ “đệ tử – người học việc”. Các nghệ nhân có tay nghề cao sẽ đào tạo, truyền bí quyết nghề nghiệp cho thợ gốm trẻ. Để có thể trở thành thợ cả có tay nghề, nhiều nghệ nhân tốn mất gần 10 năm học việc. Hai là, học tập tại trường và thực hành tại trung tâm kỹ thuật, hiệp hội. Cho dù học tập theo hình thức nào, các thợ gốm trẻ vẫn phải học việc tại chính xưởng sản xuất, các doanh nghiệp tại địa phương. Số lượng tuyển sinh hàng năm tuy còn khiêm tốn nhưng cũng cho thấy sự cố gắng của thành phố Saga trong công cuộc bảo tồn nghề thủ công truyền thống địa phương. Theo báo cáo của trường thì 100% số sinh viên tốt nghiệp đều có việc làm ngay sau khi ra trường. Đây cũng là chính sách khuyến khích các bạn trẻ đến với nghề thủ công truyền thống của nước nhà.

     Ngoài hỗ trợ của thành phố Saga, hàng năm, Arita còn nhận được hỗ trợ từ Hiệp hội bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống. Theo Luật bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống ban hành ngày 25 tháng 5 năm 1974, được bổ sung sửa đổi vào năm 1992 (năm Bình Thành 4) và năm 2001 (năm Bình Thành 13), các hạng mục sau đây sẽ nhận được hỗ trợ từ Hiệp hội bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống: 1) Đào tạo đội ngũ kế nghiệp; 2) Bảo tồn, duy trì và phát triển kỹ thuật truyền thống; 3) Nghiên cứu đảm bảo nguồn nguyên vật liệu truyền thống; 4) Kế hoạch điều tra thị trường; 5) Kế hoạch nghiên cứu phát triển mẫu mã sản phẩm mới. Ngân quỹ dự kiến hỗ trợ cho 230 làng nghề thủ công truyền thống năm 2018 là 700 triệu yên và Hiệp hội gốm sứ Saga cũng đã nhận được hỗ trợ cho kế hoạch đào tạo đội ngũ kế nghiệp và phát triển sản phẩm mới trong làng nghề của mình.

     2.4. Phát huy sản phẩm truyền thống trong phát triển du lịch

     Hàng năm các lễ hội gốm sứ được tổ chức kết hợp với du lịch vào kỳ nghỉ lễ như lễ hội gốm sứ mùa xuân (tổ chức vào kỳ nghỉ tuần lễ vàng vào cuối tháng 4 kéo dài đến mùng 5 tháng 5), lễ hội gốm sứ mùa hè, lễ hội gốm sứ mùa thu… Theo thống kê của thị trấn Arita, số lượng khách du lịch trong và ngoài nước đến Arita năm sau luôn tăng cao hơn so với cùng kỳ các năm trước. Tính riêng lễ hội gốm sứ mùa xuân năm 2018, Arita đã thu hút hơn 1.000.000 người đến du lịch và tham gia lễ hội. Lễ hội gốm sứ mùa thu năm 2018 tại Arita được diễn ra trong các ngày từ 21 đến 25 tháng 11. Qua các các lễ hội đó, khách du lịch được tham quan vùng núi Izumiyama – vùng đất cao lanh là nguyên liệu chính của gốm sứ Arita trước đây, cũng như các lò gốm truyền thống và các quy trình sản xuất gốm sứ Arita. Bên cạnh đó, khách du lịch không chỉ có cơ hội mua sản phẩm trực tiếp tại các cửa hàng trưng bày mà còn có thể trải nghiệm làm các sản phẩm gốm theo sở thích của mình tại các lò gốm địa phương.

     Để Arita được nhiều người biết đến hơn nữa, thành phố kết hợp với các doanh nghiệp đưa sản phẩm gốm sứ Arita đến các cuộc triển lãm khắp các vùng trong cả nước như Nihonbashi, Ikebukuro (Tokyo), Fukuoka, Osaka, Hiroshima… Với viện Bảo tàng gốm sứ Kyushu, các sản phẩm từ 400 năm trước cùng với các sản phẩm đạt giải thưởng hàng năm vẫn được trưng bày hàng ngày phục vụ các nhà nghiên cứu nói chung, khách du lịch nói riêng.

     2.5. Kinh nghiệm đối với Việt Nam

     Với hơn 400 năm thăng trầm, nghề làm gốm sứ Arita vẫn luôn phát triển không ngừng bởi sự năng động, sáng tạo của những người làm gốm cũng như nhận được sự đồng thuận của các tổ chức nhà nước. Nhìn từ kinh nghiệm phát triển và bảo tồn gốm sứ Arita cho thấy việc phát triển và bảo tồn nghề gốm truyền thống ở Việt Nam cần kết hợp giữa chính sách hỗ trợ của Chính phủ với sự nỗ lực của các cơ sở sản xuất ở làng nghề. Chính phủ đóng vai trò quản lý và khuyến khích làng nghề phát triển thông qua các chính sách và hoạt động hỗ trợ các làng nghề sản xuất gốm sứ như sau:

     – Thành lập cơ quan điều phối sản xuất có vai trò tìm hiểu như cầu của người tiêu dùng để hỗ trợ làng nghề đưa ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.

     – Thành lập Trung tâm kỹ thuật sản xuất nghiên cứu các kỹ thuật mới và triển khai tại các làng nghề nhằm đưa ra các sản phẩm có chất lượng cao. Bên cạnh đó, trung tâm sẽ hỗ trợ đào tạo đội ngũ kế nghiệp nghề thủ công truyền thống.

     – Thực hiện chương trình đào tạo nghề và bảo tồn nghề truyền thống cho đội ngũ kế nghiệp.

     – Xây dựng ngân sách hỗ trợ cho các làng nghề có thể bảo tồn, duy trì và phát triển kỹ thuật truyền thống, hỗ trợ kế hoạch nghiên cứu phát triển mẫu mã sản phẩm mới.

     – Có chính sách tôn vinh nghệ nhân để khuyến khích phát huy vai trò của các nghệ nhân tại các làng nghề.

     Trên đây là vài đề xuất các chính sách hỗ trợ bảo tồn và phát triển nghề gốm sứ, tuy nhiên, sự nỗ lực nội tại của các làng sản xuất gốm sứ là điều kiện cần thiết và tiên quyết. Trên thực tế, phần lớn các lao động tại các làng nghề là do tự học ngay tại làng nghề nên số lượng lao động có tay nghề cao không nhiều. Vì thế, với sự hỗ trợ từ Chính phủ, các làng nghề cần tổ chức kế hoạch đào tạo để các nghệ nhân truyền nghề cho số lao động trẻ sẽ tạo ra thế hệ những người lao động có tay nghề cao, đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn lao động phù hợp với nhu cầu của thị trường. Bên cạnh đó, các cơ sở sản xuất cần chú trọng đến các sản phẩm có hình thức, mẫu mã mới, cải tiến công nghệ, tăng chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh với các sản phẩm trên thị trường trong nước và thế giới.

Kết luận

     Trước khi sản xuất sứ, Arita đã được biết đến trong các câu vè, câu hát: thứ nhất Raku, thứ nhì Hagi, thứ 3 Karatsu (「一楽 二萩 三唐津」). Karatsu là khởi nguồn đưa Arita, hay còn gọi là Imari, được biết đến là một trung tâm sản xuất gốm sứ của Nhật Bản trong thế kỷ XVII, XVIII. Từ Karatsu, Arita đã phát triển và đưa ra các dòng sản phẩm đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng. Trải qua hơn 400 năm lịch sử hình thành và phát triển, Arita đã dần có chỗ đứng trên thị trường thế giới và chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiêu thụ trong nước. Với sự năng động và quyết liệt của người Nhật, thông qua trung tâm sản xuất gốm sứ, Arita đã khẳng định vai trò chiếm lĩnh của loại mặt hàng này trên thị trường xuất khẩu thay thế khi “đại gia” gốm sứ Trung Hoa thất thế do ảnh hưởng của chính trị trong nước và các cường quốc khác trong khu vực không tận dụng được thời cơ. Ngoài ra, Arita cũng có ảnh hưởng lớn đến các lò gốm sứ ở một số nước châu Âu, các lò này đã mô phỏng các sản phẩm của dòng Kakiemon, đây là một minh chứng xác thực cho thành công của Arita. Mặc dù có một thời gian dài vắng bóng trên thị trường khu vực và thế giới, nhưng các chính sách bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống của chính phủ Nhật Bản cũng như của thành phố Saga đã dần tiếp sức Arita một lần nữa dần quay lại và có vị trí nhất định trong khu vực. Năm 2016, kỷ niệm 400 năm – một chặng đường của sứ Arita, thị trấn Arita cũng như tỉnh Saga đã tổ chức chương trình kỷ niệm, đồng thời tiếp tục đưa các dự án để bảo tồn và phát triển nghề truyền thống này. Hiện nay, sản phẩm mẫu mã của Arita đa dạng, phong phú và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường trong nước và từng bước quay lại thị trường khu vực và thế giới. Thực tiễn phát triển của gốm sứ Arita cùng những chính sách và hoạt động bảo tồn, phát triển nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản là những bài học kinh nghiệm thiết thực đối với việc bảo tồn và phát triển nghề gốm ở Việt Nam.

     Chú thích:

     1. Theo số liệu thống kê của tỉnh Saga tháng 6 năm 2018, hiện nay dân số Arita vào khoảng 21.000 người. Tháng 3 năm 2006, thị trấn NishiArita được sát nhập vào thị trấn Arita (cũ) và thống nhất với tên gọi Arita-cho, mở rộng diện tích như hiện nay. Arita được biết đến là một thị trấn nhiều ruộng vườn và được bao quanh bởi các dãy núi trùng điệp tạo nên bầu không khí trong lành khác biệt với các vùng khác.

     2. Ri Sampei: Nghệ nhân Triều Tiên bị bắt về Saga trong cuộc chiến Nhật – Triều (1592 – 1598), người đã tìm ra nguồn đất sét trắng và đã thử nghiệm thành công việc chế tác gốm sứ từ nguồn đất sét này vào năm 1610.

     3. Trong thời Edo (thế kỷ XVII), quần đảo Kyushu được chia ra thành 9 tiểu quốc trong đó có Chikugo (Fukuoka), Chikuzen (Fukuoka), Hizen (Nagasaki và Saga), Higo (Kumamoto), Buzen (Fukuoka), Bugo (Oita), Hyuga (Miyazaki), Osumi (Kagoshima), Satsuma (Kagoshima). Trong các tiểu quốc này chia nhỏ thành nhiều phiên (Han) khác nhau và Saga thuộc phiên Saga thời bấy giờ.

     4. Khu phố có 1.000 hộ dân sản xuất sứ.

     5. Phiên Nabeshima là tên gọi khác của phiên Saga. Thời gian này, dòng họ Nabeshima cai quản vùng đất này nên người ta biết đến với tên gọi là phiên Nabeshima.

     6 Công ty Đông Ấn Hà Lan (VOC) thành lập năm 1602 có trụ sở ở Amsterdam và năm 1619 đặt trụ sở ở Batavia (Jakarta) trên đảo Java (nay thuộc Indonesia). Tổ chức thương mại hoạt động ở Đông Nam Á thế kỷ XVII, XVIII và góp phần đưa sứ Hizen, Nhật Bản thay thế gốm sứ Cảnh Đức Trấn ở thị trường khu vực và châu Âu.

     7. Gốm sứ Cảnh Đức Trấn: Là trung tâm sản xuất gốm quan trọng của Trung Quốc ra đời từ rất sớm. Theo sử liệu thì lò gốm sứ này có thể hoạt động từ thời Nam Triều (410 – 598) đến thời Đường (618 – 907) và tiếp tục phát triển về sau này.

     8. Gốm sứ Hizen: dòng gốm sứ được sản xuất tại lãnh địa Hizen (ngày này thuộc thành phố Saga và 1 phần thành phố Nagasaki). Hizen bao gồm các vùng sản xuất chính là Arita, Hasami, Mikawachi.

     9. Theo Khoản 2 Điều 57 Luật bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống của Nhật Bản, được ban hành năm 1974 (năm Chiêu Hòa 49), quy định 5 điều kiện để các ngành nghề được công nhận là nghề thủ công truyền thống. Thứ nhất, sản phẩm phải là mặt hàng phục vụ cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Thứ 2, các công đoạn chính trong quy trình sản xuất phải được thực hiện bằng tay. Thứ 3, sản phẩm được sản xuất bằng kỹ thuật truyền thống. Thứ 4, thành phần nguyên liệu chính phải là nguyên liệu truyền thống. Thứ 5, được sản xuất trong một khu vực làng nghề nhất định.

     Theo thống kê của Bộ Kinh tế Nhật Bản, từ năm 1975 (năm Chiêu Hòa 50) bắt đầu với 11 làng nghề được công nhận là nghề thủ công truyền thống và đến ngày 30 tháng 11 năm 2017, có 230 làng nghề đáp ứng đủ các điều kiện của Luật bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống. Trong 230 làng nghề được công nhận chính thức vào năm 2018, gốm sứ có 31 làng nghề, chiếm 14%. 31 làng nghề gốm sứ được công nhận là nghề thủ công truyền thống gồm có Arita, Hasami, Mikawachi, Kyoyaki, Binoyaki, Kutaniyaki, Bizenyaki, Satsumayaki, Igayaki…

     10. Nigoshide: Theo tiếng địa phương của Saga thì Nigoshi có nghĩa là màu trắng của nước gạo. Khi Kakiemon đưa ra sản phẩm có sứ trắng ngọc tinh xảo thì được đặt cho biệt danh là Nigoshide.

     11 Tonya là nhà điều phối trong quy trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hay chính là các doanh nghiệp độc quyền phân phối sản phẩm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.有田町史編纂委員会(1985a)『有田町史陶業編Ⅰ』有田町, p.368.

2.上原義子(2015)“統的工芸品の現状とマーケティング課題について:伝統的陶磁器の流通問題と付加価値の視点から”嘉悦大学論文集, pp.94-96.

3.久我俊郎、富岡行昌:監修(2011)『図説唐津・伊万里・有田の歴史』郷土出版社,
p.11.

4.櫻庭美咲(2014)『西洋宮廷美術と日本輸出磁器:東西貿易の文化創造』藝華書院中島浩気(1985)『肥前陶磁史考』青潮社,pp.37-39.

5.中島浩気(1985)『肥前陶磁史考』青潮社, p121.

6.松本源次(1996)『炎の里有田の歴史物語』山口印刷, pp37-39.

Nguồn: Nghiên cứu Văn hóa, Số 31 (Tháng 3 – 2020)

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Bảo tồn và phát triển nghề thủ công truyền thống gốm sứ Arita (Nhật Bản) – Tác giả: TS. Nguyễn Thị Lan Anh)