BIA TIẾN SĨ ở VĂN MIẾU _ QUỐC TỬ GIÁM: Những GIÁ TRỊ VĂN HOÁ TRƯỜNG TỒN
VŨ TRUNG KIÊN
(ThS, Học viện Chính trị Khu vực II)
Lịch sử khoa cử Việt Nam bắt đầu kể từ khoa thi Ất Mão niên hiệu Thái Ninh thứ 4 (1075) đời Lý Nhân Tông đến khoa thi Nho học cuối cùng vào năm Kỉ Mùi niên hiệu Khải Định thứ 4 (1919) đời Khải Định, tổng cộng có 185 khoa thi; 2.906 người đỗ đại khoa, trong đó có 46 Trạng nguyên 1 (không tính một số người đỗ thủ khoa trước đó chưa có danh hiệu Trạng nguyên); 48 Bảng nhãn, 75 Thám hoa. Phần đông trong số họ đã có những đóng góp lớn lao trong lịch sử nước nhà. Trong lịch sử khoa cử Nho học trên tám thế kỉ ấy, 82 bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám còn lại ở Hà Nội hiện nay là chứng tích tiêu biểu.
Đây là những tấm bia ghi danh những người đỗ đại khoa – đỗ thi hội, thi đình, tức đỗ Tiến sĩ trở lên – của triều Lê và Mạc từ khoa thi năm Đại Bảo thứ 3 (1442) triều Lê Thái Tông đến khoa thi năm Kỉ Hợi (1779) niên hiệu Cảnh Hưng thứ 40. Chính xác hơn, đó là 81 tấm bia Tiến sĩ của triều Lê và 01 tấm bia Tiến sĩ triều Mạc – bia khoa Kỉ Sửu (1529), niên hiệu Minh Đức thứ 3.
Loạt bia Tiến sĩ đầu tiên gồm 10 tấm được dựng ngày 15 tháng 8 năm Giáp Thìn (1484), niên hiệu Hồng Đức thứ 15. Bia đầu tiên ghi lại lịch sử khoa thi năm Đại Bảo thứ 3 triều Lê Thái Tông (1442), bia cuối cùng được dựng năm Canh Tí niên hiệu Cảnh Hưng 41 (1780) cho khoa thi tổ chức vào năm 1779.
___________
1. Theo danh sách hiện treo tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám hiện nay, tổng số Trạng nguyên là 47 vị với Nguyễn Quan Quang là người đỗ đầu vào năm 1246. Tuy nhiên, dựa theo Đại Việt sử kí toàn thư và nhiều tài liệu khác, danh hiệu Trạng nguyên chỉ bắt đầu được đặt ra vào năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (1247) đời Trần Thái Tông. Do đó tác giả vẫn tính 46 vị và sẽ bàn về nội dung này trong một bài viết khác.
1. Nơi ghi danh những bậc hiền tài
Đời sau có thể tìm thấy ở những tấm bia này tên tuổi những bậc hiền tài đã ghi danh vào sử sách: nhà sử học Ngô Sĩ Liên, tác giả Đại Việt Sử kí toàn thư – Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) đời Lê Thái Tông; danh nhân Trịnh Thiết Trường, Bảng nhãn khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hoà thứ 6 (1448) đời Lê Nhân Tông, người đã không chịu nhận học vị tiến sĩ vào khoa thi trước đó vì cho là chưa đạt ý nguyện; các nhà toán học Lương Thế Vinh (Trạng nguyên) và Vũ Hữu (Tiến sĩ) khoa Quý Mùi, niên hiệu Quang Thuận thứ 4 (1463) đời Lê Thánh Tông; nhà sử học Vũ Quỳnh, Tiến sĩ khoa thi năm Mậu Tuất, niên hiệu Hồng Đức thứ 9 (1478) đời Lê Thánh Tông; Nguyễn Quốc Trinh – người nổi tiếng về trung thực và khảng khái – Trạng nguyên khoa Kỉ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) đời Lê Thần Tông; nhà sử học Lê Hy, Tiến sĩ khoa Giáp Thìn, niên hiệu Cảnh Trị thứ 2 (1664) đời Lê Huyền Tông; nhà văn hoá Nguyễn Quý Đức, Thám hoa khoa Bính Thìn, niên hiệu Vĩnh Trị thứ 1 (1676) đời Lê Hy Tông, người có công lao tu sửa Văn Miếu Quốc Tử Giám sau này; nhà bác học Lê Quý Đôn, Bảng nhãn khoa thi năm Nhâm Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 13 (1752) đời Lê Hiển Tông; nhà văn hoá Bùi Huy Bích, tác giả Hoàng Việt Thi tuyển, Hoàng Giáp khoa thi năm Kỉ Sửu, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 30 (1769) đời Lê Hiển Tông; nhà chính trị, ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm và nhà sử học nổi tiếng Phan Huy Ích, Tiến sĩ khoa Ất Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 36 (1775) đời Lê Hiển Tông, v.v.
2. Thể hiện tư tưởng trị nước dựa vào hiền tài
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia 1”; đó là lời của bài kí bia Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) triều Lê Thái Tông. Các văn bia Tiến sĩ đều có những nội dung, những tuyên ngôn về sử dụng và đãi ngộ người tài một cách độc đáo. Các triều đại xưa luôn xem hiền tài là tinh hoa của giống nòi, là bộ phận ưu tú nhất của đất nước, những người tạo nên văn hiến của đất nước.
Đánh giá tầm quan trọng lớn lao của trí thức đối với sự phát triển và vững bền của đất nước, nội dung thể hiện trên văn bia đánh giá hiền tài có quan hệ trọng đại đến trị bình của quốc gia, đến an nguy của xã tắc. Và vì vậy, các triều đại nối tiếp nhau trong lịch sử Việt Nam luôn coi việc tuyển chọn hiền tài là công việc hệ trọng của quốc gia. Việc kén chọn, tuyển chọn hiền tài không gì bằng qua con đường khoa cử. Đã bao thế kỉ trôi qua, triều đại đã bao lần hưng vong, giang sơn tuy bao lần đổi chủ 2, song những lời tuyên ngôn còn trên những tấm bia đá này đến nay hãy còn nguyên giá trị:
– Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn 3 (Thân Nhân Trung, bia khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442) triều Lê Thái Tông).
– Sự lớn lao của nền chính trị của các bậc đế vương không gì quan trọng bằng việc trọng dụng nhân tài 4 (Đỗ Nhuận, bia khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hoà thứ 6 (1448), đời Lê Nhân Tông).
– Từ xưa các bậc đế vương trị nước, chấn hưng giáo hoá mở mang thịnh trị không vị nào không coi việc cầu nhân tài, kén kẻ sĩ là việc đầu tiên 5 (Lưu Hưng Hiếu, bia khoa Bính Thìn (1496), niên hiệu Hồng Đức thứ 27, đời Lê Thánh Tông).
– Bề trên đặt khoa thi, cốt để thu hút nhân tài, đâu phải chỉ để trông vào cho đẹp mắt. Kẻ dưới đăng tên dự thi là để theo bậc thang mà bước lên đường huân nghiệp, đâu phải để mưu cầu danh lợi. Bởi vì nền chính sự tốt đẹp của quốc gia không có nhân tài thì không thể gây dựng được, mà kẻ sĩ hào kiệt ắt phải do khoa cử thì mới có dịp tiến thân (Nguyễn Văn Lễ, bia khoa Nhâm Thìn, niên hiệu Quang Hưng thứ 15 (1592) đời Lê Thế Tông, v.v.
___________
1. Dẫn theo bản dịch trong cuốn “Văn miếu – Quốc Tử Giám và 82 bia tiến sĩ” của Trung tâm hoạt động văn hoá khoa học Văn miếu – Quốc Tử Giám do Giáo sư Ngô Đức Thọ chủ biên. Tất cả các trích dẫn về văn bia trong bài viết này đều lấy từ cuốn sách nêu trên.
2. Dẫn theo ý của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam.
3. Ngô Đức Thọ (chủ biên), Văn Miếu Quốc Tử Giám và 82 bia tiến sĩ, Trung tâm Hoạt động văn hoá khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám ấn hành, 2002, tr. 84.
4. Sđd, tr. 90.
5. Sđd, tr. 142.
3. Tấm gương soi chung và răn dạy trí thức
Những kẻ sĩ sinh ra ở túp lều tranh, nơi thôn cùng xóm vắng, chỉ cần có tài kinh bang tế thế được thể hiện qua thi cử sẽ được triều đình bổ dụng và ưu đãi. Cái vinh diệu của sự lưu danh đã là tột đỉnh, là mơ ước ngàn đời của kẻ sĩ, song nhà Nho với những “khuôn phép” chuẩn mực theo lời dạy của các bậc thánh nhân vẫn luôn cẩn trọng từ trong cả lời nói đến việc làm và giữ mình thanh cao, tiết tháo để không để lại vết nhơ. Vì thế, trong những người đỗ đạt, có người ra làm quan giúp đời, có người làm thầy, cũng có người đi ở ẩn, song dù sống ở nơi đâu, nơi lánh đời xa xôi hẻo lánh hay chốn trang nghiêm công đường, kẻ sĩ luôn tâm niệm trong lòng và gắng thực hiện cho xứng danh kẻ sĩ, không phụ ơn vua, lộc nước và kì vọng của mọi người. Đối với kẻ sĩ, một chút ô danh cũng có thể làm nhơ nhuốc cả đời trong sạch, không những thế còn làm nhục và liên luỵ đến tổ tông, làm nhơ đạo học, làm nhục cho thầy, tên tuổi để lại ô danh trên bia đá và trên bia miệng đến ngàn năm. Vì thế, hầu như tất cả các tấm bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đều có những lời răn dạy này.
– Kẻ sĩ được khắc tên vào tấm đá này, thật may mắn biết bao! Cho nên phải đem lòng trung nghĩa tự thẹn với mình, làm sao danh thực hợp với nhau (…) khiến thiên hạ đời sau phải nhón chân lên mà nhắc nhở thanh danh, mến mộ khí tiết (…). Thảng hoặc có người ngoài có vẻ văn chương mà trong đức hạnh thiếu phần tu dưỡng, khiến cho cái mà người ta đọc được trên bia không giống như dư luận mà họ nghe biết, việc làm trái với sở học, làm huỷ hoại hạnh kiểm, điếm luỵ danh giáo thì là vết nhơ cho tấm đá này 1. (Thân Nhân Trung, bia khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487) đời Lê Thánh Tông).
– Thảng hoặc có kẻ mượn khoa danh để làm kế ấm no, mượn đường ấy để được giới sĩ hoạn kính trọng thì người đời sau tất sẽ nhìn vào họ tên mà nói: kẻ kia là hạng tiểu nhân gian tà, làm xấu lây cho khoa mục 2. (Nguyễn Đăng Cảo, bia khoa Đinh Mùi, niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577) đời Lê Thế Tông).
– Nếu không được như thế tức là chỉ được ngồi không, coi việc giữ tước lộc chức vị là cao, coi xảo trá giả dối là trí, chạy theo dục vọng mà không theo đạo đức, bỏ thực chất mà theo hư danh, như thế thì hình tích đã chẳng còn, mà công luận không sao cho thoát, há chẳng đáng khinh bỉ lắm thay! Đủ biết đá này dựng lên, ý khích lệ thật rất sâu sắc, ý khuyên răn cũng thật rất đến chốn, đúng bổ ích cho thế đạo, há chỉ là đặt dựng suông đâu 3. (Nguyễn Quý Ân 4, bia khoa Kỉ Hợi, niên hiệu Vĩnh Thọ thứ 2 (1659) đời Lê Thần Tông), v.v.
Ngày 09 tháng 3 năm 2010, Hồ sơ bia đá các khoa thi Tiến sĩ triều Lê và Mạc (1442 – 1779) tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là di sản tư liệu thế giới. Đất nước và con người hôm nay dù đã đổi khác hơn xưa rất nhiều. Nhưng những lời khắc ghi trên văn bia Văn Miếu vẫn mãi mãi là niềm tự hào hãnh diện về truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, tôn trọng trí thức của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, những lời răn dạy trên các tấm bia này vẫn mãi là bài học sâu sắc mà người trí thức hôm nay không được phép lãng quên.
___________
1. Sđd, tr. 136.
2. Sđd, tr. 194.
3. Sđd, tr. 325-326.
4. Nguyễn Quý Ân là con trai của Nguyễn Quý Đức. Bia này do Nguyễn Quý Ân soạn và Nguyễn Quý Đức nhuận.
THƯ MỤC THAM KHẢO
1. Quỳnh Cư – Đỗ Đức Hùng, Các triều đại Việt Nam, NXB Thời đại, 2013.
2. Trần Độ (chủ biên), Văn hoá Việt Nam tổng hợp 1989-1995, Ban Văn hoá Văn nghệ Trung ương, 1989.
3. Trần Hồng Đức, Các vị trạng nguyên, bảng nhãn, thám hoa, NXB Văn hoá Thông tin, 1999.
4. Nguyễn Hoàn, Uông Sĩ Lãng – Phan Trọng Phiên – Vũ Miên, Đại Việt lịch triều đăng khoa lục (bản dịch của Tạ Thúc Khải), Bộ Quốc gia Giáo dục xuất bản, 1963.
5. Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử kí toàn thư, NXB Thời đại, 2011.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt Sử Thông giám cương mục, Bản dịch Viện Sử học, NXB Giáo dục, 1998.
7. Ngô Đức Thọ (chủ biên), Văn Miếu Quốc Tử Giám và 82 bia tiến sĩ, Trung tâm hoạt động văn hoá khoa học Văn Miếu – Quốc Tử Giám, 2002.
8. Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thuý Nga, Nguyễn Hữu Mùi, Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919, NXB Văn học, 2006.