Các LỐI NÓI NGHỆ THUẬT TƯƠNG ĐỒNG trong DÂN CA TRỮ TÌNH sinh hoạt của NGƯỜI TÀY và NGƯỜI THÁI

SIMILARITY OF ARTISTIC EXPRESSIONS
IN TAY AND THAI PEOPLE’S DAILY LYRICAL FOLK SONGS

HÀ XUÂN HƯƠNG
(Trường Đại học Khoa học–Đại học Thái Nguyên)

TÓM TẮT

     Là di sản văn hóa tinh thần nổi bật của tộc người, dân ca trữ tình sinh hoạt Tày, Thái biểu đạt sâu đậm cho những điểm tương đồng giữa hai tộc người này. Xét về mặt thi pháp lời thơ nghệ thuật, một trong những điểm dễ nhận thấy là sự tương đồng về các lối nói nghệ thuật. Qua khảo sát, nhóm tác giả nhận thấy dân ca trữ tình sinh hoạt của người Tày và người Thái đều phổ biến bốn lối nói nghệ thuật là: Hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường, cường điệu. Các lối nói nghệ thuật này được sử dụng nhiều nhất trong các loại dân ca mang tính đối đáp giao duyên như lượn cọi, lượn slương, lượn rọi, khắp báo xao, khắp hạn khuống… Sự gần gũi về việc sử dụng các lối nói nghệ thuật đó có nguyên nhân từ trình tự diễn xướng hát đối đáp và từ nhu cầu thể hiện tâm tư, tình cảm của nhân vật trữ tình. Vì thế, nghiên cứu này có ý nghĩa mở rộng ra cả các vấn đề liên quan tới văn hóa tộc người.

Từ khóa: Sự tương đồng; các lối nói nghệ thuật; dân ca trữ tình sinh hoạt; người Tày; người Thái.

ABSTRACT

     As a prominent cultural heritage of the ethnic group, daily lyrical folk songs of Tay and Thai activities attain depth of the similarities between these two ethnic groups. In terms of poetic art poetry, one of the most recognizable points is the similarity of artistic expressions. Through the survey, we have found that in daily lyrical folk songs of the Tay and Thai people four art ways such as hidden expression, imperatives, humility and exaggeration are popular. These artistic expressions are used most in the folk songs that respond to love, such as luon coi, luon sluong, luon roi, khap bao xa, khap han khuong… Closeness in the use of spoken ways of that art is caused by the order of singing and repartee singing and the need for expressing the feelings of lyrical characters. Therefore, this study has significant implications for both cultural and psychological ethnic sissues.

1. Đặt vấn đề

     Tiếp cận dân ca trữ tình sinh hoạt (DCTTSH) Tày, Thái ở góc độ là một nghệ thuật ngôn từ, nhóm tác giảnhận thấy, để xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình, DCTTSH của hai dân tộc đều cần đến vai trò của các cách thức thể hiện tình cảm, đóng vai trò như những công thức diễn đạt góp phần tạo nên lời vàng ý ngọc cho các chàng, cácnàng trong dân ca. Các cách thức này không chỉ có hiệu quả lớn đối với nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình mà còn đáp ứng tính đưa đẩy của trình tự diễn xướng hát đối đáp. Qua khảo sát 500 bài DCTTSHTày với 4216 câu, được công bố trong các công trình[1], [3], [5], [6], [7], [10] và 286 bài DCTTSH Thái với 6068 câu,được công bố trong [4], [11], [8], nhóm tác giảnhận thấy có sự tương đồng trong cách thức thể hiện tình cảmcủa nhân vật trữ tình, thông quabốn lối nói nghệ thuật là: hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường và cường điệu.

2. Kết quả nghiên cứu và khảo sát

     2.1. Lối nói hàm ẩn

     DCTTSH Tày, Thái đều phổ biến lối nói hàm ẩn. Theo dõisự xuất hiện của lối nói này trong DCTTSH Tày, Thái, nhóm tác giảnhận thấy100% các bài DCTTSH Tày, Thái đều có sự xuất hiện của lối nói này. Đặc biệt lối nói nàythường có mặttrong hai trường hợp: Trong lời mời hát đối đáp hoặc trong những bức thư tình, những lời hát nhắn gửi tình yêu đến đối phương.

     Trước hết, lối nói hàm ẩnnày thường xuất hiện nhất trong những bài hát mời – mở đầu của mỗi cuộc hát.Người ta mời nhau hát. Trong lời mời ấy hàm chứa cả sự ướm hỏi về tình trạng yêu đương, hôn nhân của đối phương. Có khi, lời mời còn nhằm mục đích trêu ghẹo nhau về chồng em, vợ anh mặc dù người mời biết thừa đối phương còn cô đơn, lẻ bóng. Tất cả đều nhằm mục đích để cho đối phương chấp nhận tham gia cuộc hát và chứng minh sự chân thành khi đến với cuộc vui này, chuyện tình duyên này.Chẳng hạn, trong lượn cọi (hát gọi bạn tình) của người Tày, mở đầu cuộc hát là những lời khuyên mời theo tập quán mến khách của tộc người để được đối phương trả lời. Những lời khuyên mời ấy là cả một cung lượn nải(hát mời) dài tới vài trăm câu. Cách mời hátnêu những lí lẽ để đối phương bất khả kháng, buộc phải lên tiếng trả lời: hay em chê anh người xấu kém nên không đáng nói cùng, hay em sợ lời nói mất tiền của, hát để cầu mùa màng, hát kẻo một mai về già, kẻo bướm ong hội thời vận có mùa, kẻo một mai về nhà chồng… Trong khắp hạn khuống (hát ở sàn chơi), khắp báo xao(hát giao duyên nam nữ) của người Thái, trước khi chính thức đi vào cuộc hát, các cô gái Thái cũng dò hỏi chàng trai bằng lối nói hàm ẩn, buộc chàng phải lên tiếng hát để chứng minh thành ý và tình trạng của mình. Cách nêu lí lẽ nghe ra đầy vẻ khích bác nhưng lại không đến mức quá trớn khiến người được mời phải mếch lòng, phật ý:

     -Tày: Bạn hợi dượng rừ ná nhặn dăng/ Nam Tào chẩm sổ rừ tẻ nhằng/ Thai đá hạy nhằng phân đan đuổi/ Tua cáy nuồm eng mà hết vằn (Bạn hỡi làm sao chẳng đáp lời/ Nam Tào xóa sổ đời hết thôi/ Chết rồi làm sao còn trăng trối/ Gà tơ đặt ván thế là rồi) [76, tr.301].

     -Thái: Pên xa păng xương mạy inh hưak chin lê/ Pên xa pưak xương mạy inh phắng/ Mia lả xắng ma dưn á? (Sừng sững đứng như cây dựa hơi thế anh ơi/ Sừng sững như cây gỗ dựa vách đất/Vợ chàng nhắn đến đứng sao?) [4, tr. 321].

     Cùng kiểu bóng gió, ám chỉ ấy, chàng trai Thái lại rủ cô gái cùng hát, cùng vui chơi nơi sân tình cho thỏa kiếp hoa ban, trọn đời hoa sung, kẻo hoa tàn rồi chẳng bướm ong nào buồn đậu nữa, kẻo người sẽ theo chồng, người sẽ già và đời sẽ dài: Ói pánh á… é lỉn lé lỉn mờ khẻo đăm phắn nhắng thí nớ noọng lả ái á/ Ói pánh căn ơi… khóp mừ nừng khẻo xáư chì mớ phô lé noọng hặc ái ới/ … Pánh căn ơi… khóp mờ nừng chí mí lụk nọi chắp nả xở lé pít niêu lé noọng pánh lé/ Ún hướn á… khóp mờ nừng lúng làng phô noọng cọ chí đá lé noọng hặc ái á (Muốn vui chơi, hãy vui chơi thời răng trắng, hương phấn còn thơm/ Bởi rồi sẽ đến ngày em nhuộm răng đen về nhà chồng em yêu ạ/ … Rồi ngày nào đó em sẽ có con mọn bấu ngự cáo khó dứt ra/ Em chỉ bước xuống sàn chồng em cũng sẽ mắng) [11, tr. 255].

     Có những khi, trong một cuộc hát đối, để mời chàng trai hát, cô gái khích bác rằng chàng trai đã có vợ đẹp nhưng chưa chắc quyền quý nên cũng chỉ như em thôi. Chàng trai thì tự nhận vợ mình mặt xám như lông con rái cá, chân cao ngẳng như chân cuốc, mặt dài vênh vao như lưỡi cày. Ở cuộc hát ấy, vợ là người có thật và đứng bên cạnh chàng trai, nhưng vì tính chất cuộc hát đối, vì thấu hiểu truyền thống hát bóng gió, ám chỉ của đối phương và vì tính khiêm nhường của bên mình, người vợ sẽ không hề giận dỗi chàng trai. Tất cả cùng vui và hiểu đó chỉ là một thủ tục mời nhau hát.

     Bên cạnh đó, nhóm tác giảnhận thấy lối nói hàm ẩn, bóng gió này còn hay gặp trong những bài hát trao gửi tâm tình trong tình yêu đôi lứa. Ở người Tày, điều đó thể hiện rõ trong nội dung của lượn rọi (hát những câu có vần điệu) và phong slư (thư tình). Nội dung của lượn rọi có thể là sự thăm hỏi nhau về công việc và tình trạng hiện tại, thăm dò, thử thách nhau hoặc khơi gợi lại những kỉ niệm một thời. Đáng chú ý là những nội dung đó thường được nhân vật trữ tình nêu ra bằng cách nói bóng gió, khích bác một cách tế nhị. Nội dung của phong slư lại thường là nỗi nhớ, nỗi buồn. Lứa đôi yêu nhau nhưng do hoàn cảnh: nhà xa, công việc, những ràng buộc của giáo lí phong kiến khiến cho lứa đôi phải sầu buồn vì đợi chờ, nhớ nhung. Họ gửi gắm nỗi tương tư ấy vào những bức thư tình. Bức thư phải thật dài, dài như thời gian họ muốn bên nhau thông qua sự đọc, sự nâng niu bức thư mãi không thôi. Cho nên, để kéo dài bức thư ấy, kéo dài thời gian ấy, câu chuyện họ tâm sự với nhau cứ dấm dẳng, không đầu không cuối như những câu chuyện muôn thuở của những lứa đôi yêu nhau. Lúc này, sựbóng gió phát huy tác dụng. Người ta tưởng tượng ra những câu nói gây sự hiểu lầm, nghi ngờ một người bạn là người yêu của đối phương, hoặc nghe tin đối phương đã hứa hôn, đã có người ở rể. Để rồi, người ta rơi vào trạngthái buồn, đau khổ (giả) vì những sự tưởng tượng, hiểu lầm ấy, kích thích cho đối phương phải thanh minh, giải thích cho dài mãi câu chuyện yêu đương, tâm tình. Cách nói hàm ẩn trong trường hợp này đóng vai trò là một phương tiện biểu đạt tình yêu. Chẳng hạn, một chàng trai Tày bóng gió tưởng tượng về việc cô gái đã có chồng để bày tỏ nỗi cô đơn, đau đớn của mình nếu quả việc đó xảy ra thật: Slưởng mà móc slảy khát như tơ/ Noọng mừa tẩư pây nưa đuổi mả/ Pỉ nhác cằm mừa cạ chắc tan/ Tại noọng định rườn kin tốc cón/ Pỉ chắc kin nguộn ón bấu khôm (Nghĩ tới lòng quặn đau tơ rối/ Em cùng chồng đi dưới về trên/ Anh gửi thư đưa tin em biết/ Vì em vội đã lập gia đình/ Lá ngón non ăn thành không đắng) [6, tr. 102]. Hay có khi, chàng trai Thái nói ám chỉ về việc cô gái đã có người ở rể, cô gái thì thanh minh: Để em chỉ đường cho anh đi mà rình, bắt cho được thằng bảo anh là nó được ở rể nhà em. Nếu không tìm được, thì chính anh phải đến làm rể quản đan chài. Như thế, từ sự bóng gió của chàng trai, cô gái đã lái nó thành câu chuyện hài hước mà thông qua đó, bật đèn xanh rằng mình vẫn cô đơn và xem phản ứng của anh chàng. Lại có khi, cô gái Thái bóng gió về việc chàng trai có nhiều gái theo hoặc đã có vợ ở nhà đóng cửa đợi mong, đừng nên tâm tình nơi hạn khuống. Từ đó, buộc chàng trai phải lên tiếng chứng minh cái sự trai tân của mình, đến với sân tình này như nón lá đi tìm quai chằng. Sự ám chỉ trong câu hát lúc này giống như một bộ trắc nghiệm khéo léo về tình yêu để thử lòng xem đối phương có chân thành, tha thiết hay không.

     Lối nói hàm ẩn trong cả DCTTSH của người Tày và người Thái được xây dựng chủ yếu dựa trên biện pháp tu từ ẩn dụ, nhằm mục đích giải quyết việc thực thì ít mà mục đích đưa đẩy, khích tướng để đối phương tham gia cuộc hát, hay nhằm kéo dài bức thư tình, hoặc bày tỏ nỗi lòng và kích thích đối phương chứng minh tình yêu thì nhiều. Nhờ lối nói này mà một bài phong slưcó thể kéo dài hàng trăm câu như hát mãi không hết, kể mãi không ngừng. Câu chuyện tình yêu, vì thế, cứ nhấm nhẳng đầy thi vị, dài mãi không thôi như câu chuyện muôn đời nói mãi không hết, kể mãi không ngừng. Lối nóinày xuất phát từ nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình trong DCTTSH Tày, Thái và dựa theo đặc điểm của diễn xướng hát đối đáp.

     2.2. Lối nói cầu khiến

     Trong DCTTSH của người Tày và người Thái, lời hát của nhân vật trữ tình mang sắc thái cầu khiến rất rõ ràng, đặc biệt là lời hát thuộc các chặng hát khuyên mời, hát thề nguyền, hát dặn của cuộc hát đối đáp. Sắc thái cầu khiến, mệnh lệnh được coi như đặc trưng của các bài hát đó. Chẳng hạn, người Tày lượn mời:

     … Tiểng ngoàng rọng riệm sửa càng mon/ Tiểng ngoàng rọng riệm mon càng sửa/ Tiểng lượn khoan pây ná đảy nòn (… Ve sầu gọi tha thiết đừng sửa gối đầu/ Ve sầu vọng thiết tha đừng sửa gối/ Dậy lượn, khan thôi đừng ngủ ngay) [6, tr. 45].

     Lối nói cầu khiến được tạo nên bởi sự xuất hiện của các câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ của kiểu câu cầu khiến như các từ:hãy, đừng, chớ, khuyên, sẽ, nhé… Chẳng hạn:

     -Tày: hẩư pỉ nằm nỉ rang lai/ Hại khan pjá tang nơi slắc tiểng (Đừng để anh nằn nì thêm nữa/ Hãy lượn cho một tiếng thỏa lòng) [7, tr. 24].

     -Thái: É cưn chắng bắu cưn té ta vên nhăng chặu lê ha?/ É thâng nẳu ming chụ chí khửn ma thóm ău quam xăng lê? (Muốn trở về sao không về từ còn mặt trời?/ Thương nhớ người yêu sao lại lên đây dò lời?) [4, tr. 321]. Nhóm tác giả đã tiến hành khảo sát sự xuất hiện của các dấu hiệu cầu khiến trong DCTTSH Tày, Thái.

     Nhóm tác giả căn cứ trên bản tiếng Tày, Thái, bản tiếng Việt chỉ dùng để tham khảo, đối chiếu về nghĩa và lựa chọn đơn vị thống kê là số lần xuất hiện của từ, khi quy sang tần suất sẽ được tính theo công thức: số lần xuất hiện/ tổng số câu được khảo sát * 100%. Từ đó, nhóm tác giả có kết quả như ở Bảng 1.

Bảng1. Kết quả khảo sát sự xuất hiện của các dấu hiệu cầu khiến.

Dấu hiệu cầu khiến

Số câu
được khảo sát

Số lần xuất hiện

Tần suất

Tày

Câu hỏi tu từ

4216

187

4,4%

Dấu hiệu ngôn từ của kiểu câu cầu khiến

Hãy (hại, cỏi)

4216

480

11,4%

Đừng ()

4216

159

3,4%

Khuyên
(khuyên, khuyên mừa, cạ mừa)

4216

445

10,6%

Thái

Câu hỏi tu từ

6068

138

2,27%

Dấu hiệu ngôn từ của kiểu câu cầu khiến

 

Hãy   (không có từ  tương  đương trong tiếng Thái, diễn tả bằng cách lặp lại động từ)

6068

358

16,9%

Đừng (na)

6068

307

5,1%

Sẽ (chi)

6068

128

3,9%

Nhé (nờ, lò, lộ)

6068

356

5,9%

     Nhìn vào Bảng 1, ta thấ yở DCTTSH của cả người Tày và người Thái, câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ của kiểu câu cầu khiến có sự xuất hiện khá dày đặc. Sự kết hợp của sắc thái cầu khiến cùng tình cảm yêu thương ẩn giấu trong đó khiến cho lời hát vừa mạnh mẽ vừa có sức lan tỏa, lay động tâm hồn đối tượng trữ tình. Kết thúc cuộc vui chơi ở hạn khuống, trai gái Thái tha thiết dặn nhau đừng quên: Hặc xơng căn/ Cảu chí lựm/ Xíp chí lựm… (Đã yêu nhau/ Chín đừng quên/ Mười đừng quên…). Lời dặn chân thành mà tha thiết, cứ vang lên như một điệp khúc khắc sâu vào tâm khảm biết bao đôi trai gái đã từng rong chơi một thời hoa nở trăng tròn bên sân tình năm ấy. Để rồi, khi yêu nhau chẳng lấy được nhau, họ dặn dò đợi nhau ngay cả sau khi đã chết. Sự lặp lại của những cụm từ: anh hãy… anh hãy…trong lời dặn dò khiến cho câu hát trở nên ám ảnh đến đau lòng: Xoong hạu tai mợ mợng bun chại cói ha lả nờ/ Xoong hạu tai mợ mợng phà chại cói ha nhịnh nờ/ Chại ha nhịnh đởi khôống phải/ Chại thả nhịnh đởi khôống may nờ (Đôi ta chết lên Mường Bun anh hãy tìm em nhé/ Đôi ta chết lên trời thì anhhãy tìm em/ Anh hãy tìm em nơi sân sợi/ Anh hãy đợi em chỗ sân thêu…) [8, tr. 496].

     Lối nói cầu khiến trong được sử dụng trong lời hát của nhân vật trữ tình trong DCTTSH Tày, Thái có thể được lí giải từ các nguyên nhân:Thứ nhất, lối nói này bắt nguồn từ trình tự cuộc hát của hai dân tộc. Lệ hát của người Tày, Thái, bao giờ cũng có các chặng hát khuyên mời, hát thề nguyền, hát dặn. Vào cuộc hát, họhát mời gọi, hát tán tỉnh, hát thề nguyền, đến khi phải chia li, giã biệt hoặc không được yêu nhau nữa, họ hát nán chân, hát dặn, hát khuyên, hát chờ đợi… Yêu cầu nội dung của các lời hát này đã quy định lối nói cầu khiến trong DCTTSH Tày, Thái. Thứ hai, tình yêu luôn đi kèm với các trạng thái tương tư, nhớ nhung, thề thốt… Vì thế, khi gặp nhau, họ luôn căn dặn người yêu giữ lòng chung thủy và suy nghĩ đến tương lai tình yêu của đôi lứa. Thứ ba, do đặc điểm chế độ gia đình phụ quyền, lứa đôi Tày, Thái không tự quyết định được hạnh phúc của cuộc đời mình. Việc hôn nhân của họ phụ thuộc nhiều vào cha mẹ, họ hàng, vào quan điểm môn đăng hộ đối. Cho nên, họ phải dặn dò nhau hãy yêu, hãy nhớ chohết kiếp, thậm chí cả sau khi chết đi rồi. Vì những nguyên nhân trên, lối nói cầu khiến là lối nói phù hợp và hiệu quả đối với việc thể hiện các nội dung đưa đẩy cuộc hát, khẳng định tình yêu hoặc dặn dò bạn tình của nhân vật trữ tình trong DCTTSH Tày, Thái.

     2.3. Lối nói khiêm nhường

     DCTTSH Tày, Thái đều sử dụng lối nói khiêm nhường, đặc biệt rõ ở các bài hát chào mời. TrongDCTTSH Tày, lối nói này xuất hiện 226 lần thì có mặt ở các bài hát chào mời179 lần (chiếm 79%). Trong DCTTSH Thái, lối nói này xuất hiện 187lần thì có mặtở các bài hát chào mời 154 lần (chiếm 82%). Đây là lối nói được hình thành dựa trên biện pháp tu từ ngữ nghĩa nói giảm. Việc ưa dùng biện pháp này trong DCTTSH bắt nguồn từ truyền thống chuộng lịch sự, lịch lãm trong việc cư xử của người Tày, Thái và từ yêu cầu nội dung của chặng hát này trong diễn xướng.

     Ở chặng hát này, người hát sẽ tự nhận mình là xấu, nghèo hèn, kém cỏi, không xứng với đối phương, đồng thời đề cao đối phương bằng cách gán cho đối phương thân phận cao quý, gia cảnh giàu có. Điển hình, trong khắp hạn khuống của người Thái, khi các chàng trai hát xin thang lên sàn chơi, các cô gái sẽ hát về chiếc thang hỏng, mối mọt, không chắc chắn. Các chàng trai xin ghế ngồi, các cô gái sẽ hát về việc không có ghế đan, ghế mây để ngồi, đành mời các chàng ngồi ghế nệm hoặc ngồi đòn kê. Hãy nghe các cô gái Thái trong cuộc vui chơi ở sân tình tự hạ thấp bản thân mình:

     Khôống mở noọng khôống đin đăm/ Khôống mở noọng tặm mạy ở/ Khôống khỏ bớ mí báo xao tom/ Bớ đăng đảy, bớ xun pin/ Mạy đăm họt nó ngựn bớ đáng/ Nặm pắn họt nó khặm bớ xum/ Bók đôông hại dản bớ xơng/ Va đôông lôông dản bớ đết/ Mở noọng phặn cáy cả/ … Mở ái nả cáy cón/ Cọn mạy ngá/ Vả lụk tạo khắm đáp kin mợng (Sân của chúng em đất đen/ Lửa được đốt bằng cây sậy/ Sân nghèo chẳng có trai gái tới/ Củi không thành, đốt không nên/ Gỗ đen đâu sánh được măng vàng/ Nước lã sao so được măng bạc/ Bông hoa xấu e chẳng thể quyến rũ/ Đóa hoa thô ai thèm ngắt cầm tay/ Chúng em nòi gà dân/ … Các anh nòi gà chọi/ Đậu cây ngà/ Dòng giống tạo cầm gươm quản đất) [8, tr. 333].

     Cũng cách nói ấy, trong các cung lượn nải, khi mời nhau hát, người Tày tự nhận mình hèn kém, chẳng dám cất tiếng lượn cùng khách. Ấy không hẳn vì tự ti mà là sự khiêm nhường cần thiết theo truyền thống của tộc người khi đối diện với khách: Mạy khoang pjúc khửn tẩư cằn nà/ Bản nọi rườn đeo cần xẩu xa/ Bản nọi rườn đeo cần xẩu sắc/ Xẩu sắc là thôi ná khảu mà (Cây trúc trồng mọc dưới đầu bờ/ Xóm nhỏ, nhà ít, người xấu xa/ Nhà ít, xóm nhỏ toàn người xấu/ Người xấu thời thôi chẳng dám thưa) [6, tr. 300].

     Vì sự khiêm nhường ấy của bên chủ mà khách phải dùng đến sự viện trợ của lối nói hàm ẩn,bóng gió, khích đối phương cùng tham gia vào cuộc lượn. Cũng vì truyền thống khiêm nhường, lịch sự mà khách sẽ ca ngợi gia cảnh, bản làng của đối phương bằng lối nói khoa trương, phóng đại: bản làng giàu nhất châu huyện, cọc bên mỏ nước là cọc rồng, hòn đá cũng phải là đá tròn đuôi bạc,sư tử vác côn đứng hai bên đường vào làng… Đồng thời, người Tày dùng cách nói khiêm nhường để tôn vinh người mình yêu lên hàng quý tộc. Họ gọi người yêu là quân tử, quan anh, là nàng đẹp, cười chua… với biết bao thương yêu, trìu mến. Ở trường hợp này, lối nói khiêm nhường không còn giữ chức năng đưa đẩy câu chuyện nữa mà có tác dụng thể hiện sự tôn trọng, yêu quý nhất mực với đối phương. Sự hạ thấp bản thân, nâng cao đối tượng như thế có tác dụng đưa đẩy câu chuyện, nhiều khi trở thành lí do để khơi mào cuộc hát.

     2.4. Lối nói cường điệu

     Đây là lối nói nghệ thuật được xây dựng trên cơ sở biện pháp tu từ nói quá, là sự nâng lên một mức thái quá quy mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng được mô tả. Trong các bài DCTTSH Thái, biện pháp này được sử dụng nhằm nhấn mạnh sự ngợi ca hoặc biểu đạt tình yêu nồng nhiệt của chủ thể trữ tình đối với đối tượng trữ tình. Sự cường điệu ở đây thường theo hướng liên tưởng tới các đặc điểm của tự nhiên. Chẳng hạn, giọng hát của cô gái Thái được chàng trai ca ngợi là có sức mạnh to lớn có thể biến cải tự nhiên: Ói pánh căn ơi… noọng còi khắp hảư mạy nẳng pá púng nhọt baư lương dớ noọng lả ái ới/… Ún hướn căn ơi… noọng lả còi khắp hảư noong cắp ná háu làn dớ noọng hặc ái á/ Ói pánh căn ơi… noọng lả còi khắp hảư pú đán coỏng lùm phạ đắn lúng pin đon dớ noọng hặc ái ới/ Ói pánh căn á… pin phiêng luông hảư luống cón má hạu dớ noọng hặc ái á (Em hãy ca hát cho cây ở rừng đâm chồi mọc lá/ … Em thương hãy hát cho ao với ruộng mình lớn phẳng em yêu nhé/ Em thương hãy hát cho núi đá đổ sập xuống thành bãi/ Thành bãi rộng cho rồng vàng đến chơi nhé em yêu)[11, tr. 286]. Dưới con mắt của chàng trai đang yêu, nhan sắc của cô gái được ví như rồng lượn với khả năng mê hoặc vạn vật và con người: Ún hướn căn á… noọng pánh ái quoắc khen lé pan luốngvin ná noọng hặc ái ới…/ Ún hướn căn ới… noọng lả ái nhàng khoắc tin pan luống xẻo dá noọng hặc ái á… / Ói pánh căn ới… noọng lả ái té cứn đaư hin cọ lướt lé tai tẳng dá noọng pánh ái á…/ Ói pánh căn á… noọng pánh ái lé nôộc hin nôộc cọ nhắng lứm pík dá lo noọng hặc ái ới…/ Ún hướn căn ới… noọng pánh ái lé én hin én cọ nhắng lứm vin dá noọng lả ái á…/ Ún hướn căn á… noọng lả ái lé cứn mướng cay lé hin lẹo lứm nhại dá lo noọng hặc á noọng pánh ái á (Cánh tay em đưa đẹp tựa như rồng bay/ Em thương cất bước chân tựa như rồng đang bay lượn đó/ Em thương của anh liếc ai thì người đó ngất ngây/ Em thương của anh nhìn chim rừng, chim rừng quên vỗ cánh/ Em thương của anh nhìn chim én, chim én quên cả bay/ Người mường xa nhìn thấy em liền quên bước chân đi em yêu của anh à!)[11, tr.233].

      Theo kết quả thống kê của nhóm tác giả, trong DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái, lối nói cường điệu được sử dụng với tần suất khá lớn (469 lần/500 bài DCTTSH Tày, 317 lần/ 286 bài DCTTSH Thái). Lối nói cường điệu được sử dụng nhiều nhất ởnhững lời hát ước ao, thề thốt trong tình yêu (298 lần, chiếm 63,5% trong DCTTSH Tày và 265 lần, chiếm 84% trong DCTTSH Thái).

     Trai gái Thái khi chia tay hạn khuống rồi còn dặn nhau nhớ về những kỉ niệm, những tình cảm đã gửi trao ở sân tình. Lời dặn dò thiết tha được đảm bảo bằng việc không thể đảo ngược được sự vĩnh hằng của tự nhiên. Cho nên, lời chàng trai nói về những sự việc nghịch lí là một cách nói hết sức thông minh và hài hước: … Thả Nặm Ma hẻng to le chắng lưm/ Nặm Te hẻng to thúchắng lưm/ Pa bú dỏn kin đao chắng lưm/ Xai khao dỏn kin mook chắng lưm/ Nôộc chok phạ kin ỏi thong xuôn chắng lưm nơ, peng ơi! (… Chờ sông Mã cạn bằng chiếc đĩa hẵng quên/ Sông Đà cạn bằng chiếc đũa hẵng quên/ Cá bống bò lượn ăn sao hẵng quên/ Cát trắng lượn ăn sương mù hẵng quên/ Chim sẻ trời ăn mía nửa vườn hẵng quên nhé tình thương ơi!)[4, tr. 353 –354]. Một loạt những hình ảnh, sự việc ngược đời như: sông Mã cạn, sông Đà cạn, cá bống bò lên trời ăn sao, cát trắng lượn ăn sương mù, chim sẻ ăn nửa vườn mía… được đưa ra nhằm khoa trương, nói  sự khẳng định mạnh mẽ không bao giờ quên nhau của chàng trai với bạn tình. Tình cảm yêu thương mãi quấn quýt, vấn vương nơi sân tình. Lời thề thốt, dặn dò vì thế có ý nghĩa như một lời thề quyết tâm nhớ nhau trọn đời. Hơn thế, cách nói quá, thậm xưng này giúp cho cảm xúc thực của chủ thể trữ tình được bộc lộ rõ ràng hơn, gây được ấn tượng, sự hấp dẫn đối với người nghe.

     Khoa trương, phóng đại cũng là biện pháp phổ biến trong những bức phong slư của nam nữ thanh niên Tày xưa. Đây là cách nói để họ chứng minh tình yêu chân thành và to lớn của mình dành cho đối phương. Chẳng hạn, họ luôn dùng các việc làm trái logic để cam đoan rằng vì người yêu mà mình sẽ làm được những việc không thể tồn tại trong đời thường như đắp ao trên ngọn cây để thả cá, lấy nước nấu thành dầu thắp, cho nước chảy lên đỉnh núi, bắt thuyền đang xuống thác quay đầu trở lại, ngồi ăn cơm trên ngọn cây sấu… Chàng trai trong bài ca sau đây dặn dò người yêu nếu nhất tâm yêu nhau thì việc ngược đời như đan sọt đựng nước mưa cũng có thể làm được: Sị lo bấu nhất tâm rừ dưởng/ Nhất tâm dá pây cảng tàng đai/ Thương căn cỏi hết cuôi to nặm/ Hắp bó hẩư mền chẳng như thôm (Một lòng chớ nói đi nói lại/ Hãy đan sọt để đựng nước mưa/ Đắp nước mạch để thành ao lớn/ Cho lý ngư hội rộn xuống lên) [6, tr. 196].

     Rõ ràng, cường điệu, phóng đại là một lối nói ấn tượng, giúp diễn đạt một cách mạnh mẽ cảm xúc, đồng thời thể hiện tư duy vừa thông minh vừa hài hước của chủ thể trữ tình trong DCTTSH Tày, Thái. Người Tày, Thái đều là cư dân văn hóa thung lũng. Môi trường sống của họ gần gũi với tự nhiên. Đó là điều kiện để cho lối tư duy cường điệu, phóng đại theo hướng liên tưởng đến các hình ảnh tự nhiên của họ được nảy nở, phát triển và phát huy hiệu quả trong việc thể hiện cảm xúc của nhân vật trữ tình trong DCTTSH.

3. Kết luận

     Như vậy, DCTTSH của hai dân tộc Tày, Thái có sự tương đồng về bốn lối nói nghệ thuật: hàm ẩn, cầu khiến, khiêm nhường, cường điệu. Việc gọi tên các lối nói nghệ thuật như trên là dựa vào quan hệ giữa ngôn ngữ và ngữ cảnh [2], cụ thể là ngữ cảnh của cuộc hát đối đáp. Từ những đặc điểm của phần lời trong dân ca như biện pháp tu từ ẩn dụ, nói quá, nói giảm, câu hỏi tu từ và các dấu hiệu ngôn từ của kiểu câu cầu khiến, tác giả dân gian Tày, Thái đã nâng lên thành những lối nói nghệ thuật trong các bài hát của mình, tạo thành các công thức mang tính truyền thống cho việc phô diễn, bộc lộ tâm tư, tình cảm của nhân vật. Điều này xuất phát từ nhu cầu thể hiện nội dung của nhân vật trữ tình và từ tính chất của các chặng trong hát đối đáp. Trong đó, “các chặng tương ứng với quá trình diễn biến của một cuộc giao duyên… là chỗ giống nhau cơ bản của dân ca đối đáp trữ tình” [9, tr. 16]. Việc sử dụng lối nói nghệ thuật nào hay kết hợp linh hoạt các lối nói nghệ thuật trong một bài hát đều do hai nguyên nhân trên chi phối. Điều đáng nói là, ở DCTTSH Tày, Thái, tính diễn xướng của dân ca với tư cách là một nghệ thuật biểu diễn khá nổi bật, đặc biệt là ở hình thức hát cuộc. Sự phổ biến của các cuộc hát ở dạng thức phát triển với lề lối, thể thức ngày càng ổn định, dần tiến tới chuyên nghiệp hóa và sự nhạt dần của các hình thức hát lẻ cùng các hình thức hát cuộc ở dạng chưa phát triển có tác động không nhỏ tới sự phổ biến của các lối nói nghệ thuật trên trong DCTTSH, hé lộ sự gần gũi nhau về văn hóa giữa hai tộc người ở khu vực miền núi phía Bắc.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Phương Bằng (sưu tầm, phiên âm chữ Nôm và dịch), Phong Slư, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012.

[2] Đỗ Hữu Châu, Đại cương ngôn ngữ học, tập 2: Ngữ dụng học, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001.

[3] Hoàng Văn Chữ, Nông Phúc Tước, Hoàng Nừng (sưu tầm, biên dịch), Iếu –Dân ca dân tộc Tày, Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2012.

[4] Nguyễn Văn Hòa (sưu tầm, biên dịch), Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, H, 2001.

[5] Nhiều tác giả, Rọi (Vốn cổ văn học dân tộc Tày –Nùng), Nxb Dân tộc Việt Bắc, 1970.

[6] Nhiều tác giả, Lượn Tày: Lượn Tày Lạng Sơn, lượn slương, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012.

[7] Lục Văn Pảo (sưu tầm, phiên âm, dịch), Lượn cọi, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội,1994.

[8] Hà Mạnh Phong, Đỗ Thị Tấc (sưu tầm, biên dịch), Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 2 –Thơ và dân ca tình yêu của người Thái Mường So, Nxb Văn hóa dân tộc, Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, Hà Nội, 2012.

[9] Lê Chí Quế, Văn hóa dân gian –Khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014.

[10] Dương Văn Sách, Dương Thị Đào (sưu tầm), Lượn rọi –Hát đối đáp của của người Tày, Nxb Hội nhà văn, Hà nội, 2016.

[11] Đỗ Thị Tấc (sưu tầm và dịch), Dân ca Thái Lai Châu, Quyển 1 –Chiêng xoong mố bók (Mùa xuân mùa hoa), Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2012.

Nguồn: Tạp chí Khoa học và Công nghệ Đại học Đà Nẵng, vol. 17, no. 2, 2019, ISSN 1859-1531

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)