Đặc điểm văn bản hát “Quan Lang” trong dân ca Tày

Tác giả bài viết: LÊ THỊ NHƯ NGUYỆT
(Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên)

TÓM TẮT

     Trong kho tàng văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, hát quan lang là một loại dân ca đặc sắc, được sử dụng trong lễ cưới của người Tày. Với mục đích tìm hiểu một số đặc điểm hình thức của văn bản hát quan lang xét theo hệ dọc (cấp bậc), hệ ngang (lượt lời), chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp tiếp cận liên ngành; phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp phân tích; phương pháp miêu tả… Kết quả nghiên cứu cho thấy, xét theo hệ dọc (cấp bậc), cuộc hát quan lang có hai chặng hát: hát thử thách, hát đón dâu. Mỗi chặng hát gồm những lời hát gắn với các nghi lễ trong đám cưới. Trong số 59 lời hát được khảo sát, cấu trúc ba đoạn có 53/59 lời hát (89,8%), cấu trúc hai đoạn có 6/59 lời hát (10,2%). Xét theo hệ ngang (lượt lời), kết cấu một chiều có 19/59 lời hát (32,2%), kết cấu đối đáp có 40/59 lời hát (67,8%). Chính nhờ sự đa dạng trong sử dụng cấu trúc, kết cấu mà hát quan lang trở lên sinh động khi diễn xướng, khiến cho khán thính giả chăm chú theo dõi cuộc hát từ đầu đến cuối, đồng thời kích thích khả năng ứng tác của các nghệ nhân, góp phần làm phong phú thêm vốn dân ca đám cưới Tày.

Từ khóa: Quan lang, Lời hát, Kết cấu, Văn hóa cổ truyền, Người Tày.

ABSTRACT

     In the folklore of Vietnamese ethnic minorities, quan lang singing is a unique folk song, used in the Tay people’s weddings. The study aims to learn some formal features of quan lang singing text in terms of vertical system (hierarchy) and horizontal system (lyrics). The main methods include interdisciplinary method, statistics, classification, analytical and descriptive methods. Research results show that in terms of vertical system (hierarchy), quan lang singing has two stages, namely challenge singing and welcoming singing. Each stage includes lyrics associated with wedding rituals. Out of 59 texts surveyed, the three-paragraph structure has 53/59 texts (89.8%), the two-paragraph structure has 6/59 ones (10.2%). In terms of horizontal system (lyrics), the one-way structure has 19/59 texts (32.2%), the reciprocal structure has 40/59 texts (67.8%). Thanks to the diversity in using structures, singing quan lang becomes lively when performing, attracting the audience’s attention during the whole performance, and at the same time, stimulating the singers’ ability of improvisation, which contribute to enriching Tay wedding folk songs.

Keywords: Quan lang, Lyrics, Structure, Traditional culture, Tay people.

x
x x

1. Giới thiệu

     Hát quan lang là một loại dân ca đặc sắc của người Tày, gồm các bài ca sử dụng trong đám cưới, được nhà trai và nhà gái hát lên như một nghi thức khi thực hiện các thủ tục theo phong tục cưới xin cổ truyền. Quan lang (đại diện nhà trai) là người có vai trò chính nên tên loại hát (quan lang) bắt nguồn từ tên chủ thể diễn xướng này.

     Hệ thống những bài quan lang có thể kéo dài tới hàng ngàn câu, hàng trăm bài, chia thành các phần mục cụ thể. Các phần mục tương ứng với từng hành động – lễ thức trong đám cưới (có thể xem đây là một thể tài riêng dân ca nghi lễ đám cưới). Ngôn ngữ trong hát quan lang mang một phong vị đặc biệt, mang tính thể loại, cả hình thức, ngữ nghĩa và ngữ dụng, đồng thời hàm chứa chất văn hóa Tày.

     Ở nước ta, hát quan lang đã trở thành đối tượng quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học. Nhiều bài ca quan lang được các trí thức, nghệ nhân dân gian bản tộc sưu tầm, giới thiệu, biên dịch ở dạng song ngữ Tày – Việt như Nguyễn Duy Bắc [1], Nguyễn Thiên Tứ [2], Lục Văn Pảo [3]… Bên cạnh đó còn có một số công trình nghiên cứu hát quan lang trên các phương diện văn hóa, văn học, dân tộc học… của các học giả Triều Ân, Hoàng Quyết [4], Nguyễn Thị Thoa [5], [6], Lương Thị Hạnh [7], Hoàng Văn Páo, Cao Thị Hải [8], Nguyễn Hằng Phương, Phạm Văn Vũ [9], Việt Hoàn [10], Văn Long [11], Lưu Đình Tăng [12]… Tuy nhiên cho đến nay, ngôn ngữ trong hát quan lang vẫn là một vấn đề khoa học chưa được quan tâm, bàn luận một cách đầy đủ, sâu sắc, chưa có công trình nào lựa chọn đặc điểm văn bản hát quan lang trong dân ca Tày làm đối tượng nghiên cứu. Đây là hướng gợi mở tích cực để chúng tôi tiếp cận hát quan lang dưới lăng kính ngôn ngữ học, góp phần đáng kể vào việc xóa dần đi khoảng trống trên.

     Bài viết nghiên cứu về lời ca quan lang theo hệ dọc (cấp bậc), hệ ngang (lượt lời). Từ đó, giúp hình dung rõ hơn, đầy đủ hơn về kết cấu, bố cục, cấu trúc văn bản hát quan lang trong việc xây dựng nội dung, ý nghĩa thẩm mĩ, đồng thời cũng thấy được một số đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật cổ truyền và phần nào hiểu được vốn văn hóa truyền thống của người Tày.

2. Phương pháp nghiên cứu

     Đối tượng nghiên cứu và tư liệu khảo sát liên quan đến tác phẩm âm nhạc dân gian (phần lời trong các bài hát quan lang) nên ngoài những tri thức ngôn ngữ làm nền tảng, bài viết có sử dụng một số tri thức khác như: văn học dân gian, âm nhạc dân gian, văn hóa học… Vì vậy, chúng tôi sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành để đáp ứng được mục đích nghiên cứu. Ngoài ra, còn sử dụng các phương pháp thống kê, phân loại; phương pháp phân tích; phương pháp miêu tả,… để có những nhận xét, đánh giá nhằm làm rõ vấn đề nghiên cứu.

     Ngữ liệu trong bài viết được sử dụng từ hai ấn phẩm: Thơ ca dân gian xứ Lạng do Nguyễn Duy Bắc sưu tầm, biên soạn năm 2001, Nxb Văn hóa dân tộc; Thơ quan lang do Nguyễn Thiên Tứ sưu tầm, dịch năm 2008, Nxb Văn hóa dân tộc.

3. Kết quả và bàn luận

     Tiến hành khảo sát 2 cuộc hát quan lang trong 2 lễ cưới ở Cao Bằng, Lạng Sơn, gồm 2 chặng hát, 59 lời hát (với 753 câu hát), có thể thấy: Diễn xướng hát quan lang được tiến hành theo một trình tự nhất định. Đó là một chu trình khép kín các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng. Do đó, kết cấu trong văn bản quan lang rất chặt chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho sự logic, vẹn tròn của từng cuộc hát.

     3.1. Cuộc hát – chặng trong cuộc hát – lời trong chặng hát quan lang

     Cuộc hát quan lang bắt đầu khi nhà trai đặt chân tới cổng làng nhà gái đến lúc kết thúc xin phép nhà gái đón dâu, gắn với tiến trình nghi lễ của đám cưới Tày. Cuộc hát được chia làm hai chặng: hát thử thách, hát đón dâu.

     Hát thử thách: Chặng này bắt đầu từ khi họ nhà trai đến ngõ (cổng) nhà gái, gặp chướng ngại vật đầu tiên nhà gái đem ra cản. Muốn vượt được chướng ngại nhà trai phải trổ tài văn nghệ, phải ứng xử bằng lời ca. Những lời trong chặng này có thể theo trình tự:

Lời chăng dây (Khên lền);

Lời lên cầu thang (Khửn đuây): mời lấy rượu rửa chân;

Lời giữ cửa (Thư tu): cất chổi, cất đó đơm cá, cất túi đựng mèo;

Lời xin mở cửa (Khay tu);

Lời trải chiếu (Pjái fục).

     Hát đón dâu: Sau khi vượt qua thử thách, nhà trai được mời tới gian chính của ngôi nhà (nơi tiếp khách). Các thủ tục tiếp theo để đón được dâu về không thử thách mà mang tính ngoại giao. Lời ca hay nghi lễ trong giai đoạn này được diễn ra theo trình tự:

Lời chào mời (Tuộng xỉnh): mời nước, mời thuốc, mời trầu;

Lời nộp lễ, kiểm lễ (Nổp tháp lệ);

Lời trình tổ (Tình tổ);

Lời bái tổ (Lạy táng): bái tổ, nộp lễ sinh thành, bái họ hàng;

Lời đón dâu (Rặp lùa): xin dâu, đón dâu, tặng và nhận tặng phẩm, chúc mừng, tạm biệt;

Lời lễ bố mẹ chồng (Lệ pú giả).

     Tuy nhiên trong thực tế, nghi lễ đón dâu, đưa dâu không nhất nhất phải theo thứ tự như trên. Các bước có thể thay đổi trình tự, do vậy các bài hát cũng thay đổi theo tùy thuộc vào hai nhà.

     3.2. Đoạn và câu trong lời hát của quan lang

     Văn bản quan lang có dạng lời ca. Trong 59 lời hát có 753 câu. Số lượng câu trong mỗi lời hát quan lang không cố định, không hạn định, có thể tùy từng bài, tùy nội dung, cảnh huống khác nhau mà lời ca sẽ dài hay ngắn. Trung bình số câu trong lời hát có dung lượng từ 7 – 42 câu. Các lời hát quan lang thường theo hai dạng cấu trúc: hai đoạn và ba đoạn. Trong đó, nhiều nhất là cấu trúc ba đoạn, 53/59 lời hát (89,8%), ít sử dụng hơn là cấu trúc hai đoạn, 6/59 lời hát (10,2%).

     Cấu trúc hai đoạn là cấu trúc chỉ gồm đoạn mở lời và lời giãi bày, không có lời kết; cấu trúc ba đoạn là cấu trúc gồm đủ cả ba phần: mở lời, lời giãi bày và lời kết. Mở lời có dung lượng từ 1 – 7 câu, lời giãi bày dài 4 – 35, lời kết dài 1 – 5 câu. Xin được đưa ra ví dụ về cấu trúc ba đoạn:

     – Đoạn 1 – Mở lời:

Khỏi trình mừa song thân pú giả          (Tôi trình lên song thân phụ mẫu

Tằng quý họ lùng pả chủ a                     Thảy họ hàng chú bác bá cô

     – Đoạn 2 – Lời giãi bày:

Xỉnh nội ngoại oóc mà nẳng pjọm         Mời nội ngoại đi ra ngồi cả trên

Mọi cần mọi mà xày đây đo                  Mọi người cùng họp đủ trước sau

Giờ nẩy hử lùa xo bái tạ                       Giờ này xin cho dâu bái lễ

Vằn nẩy vằn hạ các vu quy                   Ngày nay ngày hạ các vu quy

Xo slon cháo lệ nghi phép tắc               Xin dạy dỗ lễ nghi phép tắc

Slon lủc lùa sle chắc hất chin               Dạy dâu con cho biết làm ăn 

Kế tiếp đảy theo tiên tổ ấm                   Kế tiếp theo được nếp tiên tổ

     – Đoạn 3 – Lời kết:

Chúc pú giả cung cấm cao niên            Chúc bố mẹ trong nhà sống lâu

Chúc họ hàng bình yên khang thái        Chúc họ hàng bình yên khang thái

Lủc lùa đảy vạn tởi pjom ơn                  Dâu con được vạn đại ghi ơn) [1, tr. 140]

     Ở quan lang, đoạn mở lời thường theo một khuôn mẫu sẵn có, đó là lời trình thưa của quan lang, pả mẻ lên tổ tiên, họ hàng hai bên nhà trai, nhà gái. Đoạn giãi bày tập trung nói đến vấn đề chủ thể muốn đề cập, gắn với từng nghi lễ trong đám cưới: thử thách, đón dâu. Đoạn kết là lời mời, đề nghị, cảm tạ, chúc phúc, chào tạm biệt. Hai dạng cấu trúc đã hướng tới sự chuẩn mực, mực thước trong lời ca, thể hiện rõ tính chặt chẽ, mạch lạc của văn bản. Qua đó, thấy được sự tương thích, phù hợp giữa tính chất, đặc trưng của dân ca đám cưới Tày.

     3.3. Các loại kết cấu trong diễn tiến lời giãi bày của quan lang

     Mỗi tác phẩm quan lang là một “sinh mệnh”, một “cơ thể sống” nên kết cấu tác phẩm là một kiến trúc, một tổ chức cụ thể phù hợp với nội dung của tác phẩm. Nội dung của lời ca quan lang được tạo nên từ cách sử dụng từ ngữ, tổ chức từ tạo thành câu và phương thức liên kết câu để hình thành lời quan lang một chiều hay đối đáp. Xét theo hệ ngang (lượt lời) có thể chia thành 2 dạng kết cấu đặc trưng: một chiều, đối đáp.

     3.3.1. Kết cấu một chiều

     Có thể hiểu kết cấu một chiều là kết cấu liên kết một lượt lời ca do một người diễn xướng. Lời ca kết cấu một chiều khi hát lên không cần lời đáp lại. Lời dân ca lúc này tự thân thể hiện một hình thức và nội dung hoàn chỉnh, trọn nghĩa khi tồn tại độc lập.

     Kết cấu một chiều được sử dụng chủ yếu trong lời ca của quan lang khi trình tổ, bái tổ, thưa gửi với gia đình nhà gái thay cho đối thoại thông thường. Đây cũng là lời của pả mẻ đi đưa cô dâu về nhà chồng. Cụ thể là: trong 59 lời hát có 19 lời theo lối kết cấu này (32,2%). Ví dụ:

Khỏi chiềng mừa quý họ rườn quan          (Tôi xin thưa quý khách thương cho

Sổ én nhạn nhập gia gẳm nẩy                     Số én nhạn nhập gia lời ví

Nhất là mì cúa lẹ kính dâng                        Hôm nay có lễ vật đến dâng

Sloong là dường gia tiên tiên tổ                 Trình ban thờ gia môn tiên tổ

Sle én xuân kết nghịa vần tôi                      Để én nhạn kết nghĩa giao ca

Sle mèng bjoóc sloong nơi hội ngộ             Để bướm ong đua hoa tìm nhụy

Khỏi chiềng mừa gần ké giường nưa         Tôi xin thưa các cụ giường trên

Xo khay tu mạy rầm sloong phắc               Mở rộng cửa hai bên cho hết

Xo khay tu mạy hoắc sloong phương         Cánh mạy hoác mở sát áp tường

Boong khỏi cản khảu rườn trình lẹ            Cánh mạy rầm hai bên giang rộng

Sle loan phượng tâu tó pần duyên             Chúng tôi vào yết kiến lễ trình

Khảu rườn tạ gia tiên tông tổ                    Sao cho nhanh phượng loan hội ngộ

Khỏi mì gằm cảm tạ phuối ngày                Xin cho mở rộng cửa giờ này

Chúc mửng hẩư rườn hây dặm dẹ             Tôi có lời cảm tạ biết ơn

Hất kin đảy hỉ hả vjòi đây.                         Chúc mọi người làm ăn thịnh vượng

                                                                   Cả nhà được mạnh khỏe an khang) [2, tr. 34]

     Bài hát trên chỉ đơn thuần là lời của quan lang thưa với nhà gái mở cửa để dâng lễ vật vào trình gia môn tiên tổ trước sự chứng kiến của đông đủ đại diện quan viên hai họ, với ước mong cuối cùng là hai cháu được kết duyên loan phượng. Trước sự thưa gửi bằng lời ca như vậy nhà gái không có bất cứ lời hát đối đáp nào. Lúc này lời hát sẽ được thay bằng hành động mở cửa trong sự vui mừng, rạng rỡ đón chào nhà trai.

     Bên cạnh đó, kết cấu một chiều còn được sử dụng khi quan lang xin phép gia đình cho phép làm lễ trình tổ và bái lạy tổ tiên. Nghi lễ này được thực hiện rất trang trọng bởi người Tày quan niệm nếu không có các bài trình này thì coi như tổ tiên chưa nhận rể, mọi nghi lễ về sau đều không có giá trị. Trong không khí ấm cúng và trang trọng đó, quan lang đã cất lời:

Kính thưa: Tiên nhân từ đường                        (Kính thưa: Tiền nhân từ đường

Hậu nhân từ đường                                          Hậu nhân từ đương

Cặp nội quý nhân                                             Cặp nội ngoại quý thân họ 

Cặp ngoại quý họ                                             Thưa các liệt vị tiền nhân tông đường

Thưa các bậc vinh quy chức sắc hương lân    Các vị chức sắc hương lân có mặt

Thuổn các liệt tiền nhân ạ!

Gằm đây khỏi khay pác                                     Ngày lành tôi xin chúc

Gằm mjảc khỏi khay hênh                                 Ngày tốt tôi xin thưa

Slíp giờ kẻm nẩy đảy giờ đây mjảc                   Mười ngày mới có một ngày lành

Pác hoằn kẻn đảy hoằn nẩy an                        Trăm ngày có một vòng ngày tốt

Kẻn đảy giờ nguyệt tiên thiên đức                  Chọn được giờ thiên đức nguyệt tiên

Kẻn đảy giờ ngũ phúc lâm môn                      Chọn được ngày lâm môn ngũ phúc

Khươi dặng nả quyền môn bán cả      Cháu rể đã đứng trước quyền môn.) [2, tr. 52]

Hương hoa dường kính tổ gia tiên.

     Bài hát là lời kính trình của quan lang tới tổ tiên, cha mẹ, anh em họ hàng hai bên nội ngoại, bà con làng xóm nhà gái về việc hệ trọng hôm nay. Nay gia đình chọn được ngày lành ngũ phúc lâm môn, giờ tốt nguyệt tiên thiên đức nên xin phép cho cháu rể được bái lạy tổ tiên.

     Kết cấu một chiều còn là lời ca ngợi công lao sinh thành, nuôi nấng, dạy bảo của cha mẹ, sự chăm sóc của chú bác họ hàng. Qua đó, khuyên dạy chú rể, cô dâu về đạo lí, bổn phận làm người.

     Ví dụ:

…Công pỏ mẻ là slung sloàng pạ              (…Công bố mẹ là cao như núi

Giờ nẩy là lủc đạ mì khươi                        Giờ này con đã có chồng rồi

Ngậy công khỏ hoài thai thập nguyệt        Công mẹ nhọc mang thai mười tháng

Công ơn mỉn khôn xiết đền bồi                  Công ơn ấy con khó đền bồi

Mì lệ vật rườn khươi mà nổp                     Có lễ vật của người con rể

Tháy nữ nhi báo đáp ơn cần…     Thay nữ nhi báo nghĩa đáp ơn…) [1, tr. 162- 164]

…Chẻn nặm nẩy kính dâng đa tạ            (…Chén nước này được dâng đa tạ

Nhất là vỉ no ọng lùng pả áo a               Thứ nhất là chú bác các chi 

Pửa nhằng sl áy ỏm đa ủm tịa                Hồi cháu nhỏ địu hoa giúp cõng

Chẻn nặm nẩy pjá nghịa hoằn công…  Chén nước này trân trọng trả ơn…) [2, tr. 59]

     Sau khi một loạt nghi thức mang tính luật tục đã xong (trình tổ tiên từ đường, mời tổ tiên chứng giám, trình lễ – báo lễ, chú rể dâng tấm vải khô ướt, chú rể thắp hương lạy tạ, đưa tổ tiên, chú rể mời nước họ hàng, giao của hồi môn), quan lang đã ngân vang lời ca trong niềm hân hoan, hứng khởi chúc mừng hạnh phúc đôi trẻ. Đây là lời chúc vô giá cho hạnh phúc lứa đôi trong tương lai: vinh hoa phú quý, con cháu đầy đàn, phúc lộc lớn như quả núi cao sinh ra rồng, như rồng vàng sinh én nhan, vách đá sinh ra kì lân, như núi bạc sinh ra nguồn nước:

Chúc hẩư sloong lan                   (Chúc cho hai cháu 

Căm nặm vần bjoóc                     Tay vắt đất ra hoa

Cóp nặm vần hoa                         Tay vàng làm ra của

Phja cải slinh lủc luồng               Núi cao sinh con rồng

Phja luông sling én nhạn             Rừng vàng sinh én nhạn

Phja đán thảo kì lân                    Vách đứng sinh kì lân

Phja ngần sinh nặm bó. À nỏ!    Núi bạc sinh nguồn nước.) [2, tr. 58]

      Mọi thủ tục đã hoàn thành, đã đến giờ nguyệt tiên mà đôi bên gia đình đã định, quan lang xin phép cho cô dâu được xuất giá với lời cảm ơn sâu sắc:

…Vằn nẩy vằn hỉ hả vjòi đây                (… Hôm nay ngày hỉ hả kết duyên

Giờ nguyệt tiên cát thời thâng giá          Trời điểm giờ nguyệt tiên đã tới

Thuổn mọi gần vui vẻ dồm khua            Cả nhà đang mong đợi dâu hiền

Giờ nẩy khỏi xo au lùa lồng lảng          Giờ lành xin gia đình xuất giá

Au mừa sle họ háng khỏi dồm…       Để họ hàng đông đủ đón dâu…) [2, tr. 72 – 73]

Cảm ơn thuổn vỉ noọng họ hàng            (Xin dâng chén tạm biệt họ hàng

Dưa khỏi lẹo mọi tàng công khỏ…        Giúp tôi trọn mọi đường thành đạt…

…Chúc mọi gần hỉ hả đây vjòi               …Chúc mọi người khang thái tốt lành

Hất mọi mòn đảy lai hơn vậu…           Cả nhà được bình an phú quý…) [2, tr. 70]

     Như vậy, trong hát quan lang, kết cấu một chiều được sử dụng nhiều nhất ở chặng hát đón dâu. Một loạt những lời ca, câu hát này đều do quan lang cầm trịch, dẫn dắt từ đầu đến cuối mà không hề xuất hiện lời đối đáp nào. Đó là lời đề nghị mở cửa cho vào, lời trình thưa của quan lang xin cho chú rể lễ tổ, ra mắt ông bà, cha mẹ, họ hàng, lời chức mừng hạnh phúc đôi lứa… Ẩn chứa đằng sau những khúc ca ấy là sự ngợi ca của nhà trai đối với công ơn sinh thành, dưỡng dục của mẹ cha, họ hàng nhà cô gái, là những bài học sâu sắc răn dạy con cháu phải biết ơn, kính trọng hết mực cha mẹ, tổ tiên, nguồn cội…

     3.3.2. Kết cấu đối đáp

     Kết cấu đối đáp là dạng kết cấu gồm hai hay nhiều lượt lời trao đáp (tạo thành các cặp), tương tác với nhau, do hai chủ thể cùng thực hiện hành động. Đây là dạng kết cấu đặc trưng của quan lang, có 40/59 lời hát (67,8%), gồm những lời hát ở giai đoạn hát thử thách: chăng dây, lên cầu thang, giữ cửa, trải chiếu; và một phần ở giai đoạn hát đón dâu, gồm các lời hát mang tính chất giao tiếp: chào mời, nộp gánh lễ. Khi diễn xướng, hai bên gia đình chia ra làm hai phía hát đối với nhau. Đại diện nhà gái hát xong thì đại diện nhà trai sẽ hát tiếp lời. Quá trình hát cứ nối nhau như vậy cho đến khi các nghi lễ đám cưới kết thúc. Ví dụ:

     Khi sang nhà gái đón dâu, quan lang phải hát một số bài ứng xử tình huống, tháo gỡ những thử thách do nhà gái đặt ra. Các lời hát có kết cấu đối đáp ở đây chỉ bảo cho chúng ta lối ứng xử tinh tế, tao nhã của người Tày trong đời sống nói chung, trong đám cưới nói riêng. Lời hát đối đáp nào cũng rất đầy đủ, có đầu có cuối, lịch sự và lễ độ. Sự quý trọng con người được thể hiện rõ qua những nghi lễ đón tiếp và thái độ cư xử giữa hai họ. Vẫn biết rằng việc đi đón dâu là công việc chính của lễ cưới, là trách nhiệm của hai họ, nhưng họ vẫn trao cho nhau những lời cảm tạ chân thành, mở đầu câu nói bao giờ cũng là sự thưa gửi đầy trân trọng. Xin được dẫn ra một thử thách để thấy rõ điều này.

     Thử thách bắt đầu từ khi họ nhà trai đến cổng nhà gái. Lẽ thường, theo phép lịch sự của người Tày, khi khách đến nhà thì có tục “vấn danh” (hỏi tên khách). Vì vậy, ngay từ khi thấy phái đoàn đón dâu từ xa tới đầu ngõ, các cô gái bên gái đã chăng dây chặn lối, lấy cớ kéo lại hỏi han. Điều đáng chú ý, thay cho việc “vấn danh” bằng lời nói thông thường, thì đại diện nhà gái (pả mẻ) lại dùng tiếng hát để chào hỏi khách:

Xo chiềng thâng khéc lạ táng mường      (Xin trình đến khách lạ khác mường

Pây tàng tầư mà thâng đin nẩy                 Đi đâu mà lạc đường qua đấy

Sao báo hăn thay thảy rủng roàng            Gái trai đều thay thảy thanh tân

Vần nhịnh cần khao bang miảc nả            Người người mặt trắng ngần xinh đẹp

Chắc tàng khỏi lèo xử phép quan             Chặn đường tôi giữ phép nhà quan

Gần đây xỉnh quá tàng khảu bản              Người ngay được vào làng vào bản

Cần giày là bố chảng pây mà                   Người gian là phải tránh qua đây

Pang khéc chử cần rầu cần lạ                  Bọn khách này người ngay người lạ

Khỏi xo xam thật thá thuổn căn            Tôi xin hỏi cho rõ ngọn ngành) [1, tr. 140]

     Muốn nhà gái mở cổng cho vào, quan lang phải hát đối lại nêu rõ lí do và xin phép nhà gái cất dây chăng cho nhà trai vào nhà:

Xo chiềng thâng noọng á rườn luông      (Xin trình đến nàng á nhà sang

Càm kha ón mà thâng đin nẩy                 Đi đến đây đường trường mệt mỏi

Hăn mì toản phải quý tỏn tàng               Thấy có tấm lụa mới đón đường 

Hăn mì toản lụa loàn khoang soóc         Thấy có tấm lụa loan màu sắc 

Bấu hẩư cần vằng noỏc khẩu pây            Cấm vào làng, những khách không quen

Khỏi dú táng mường quây bấu rụ            Tôi là người khác mường không rõ

Bố chắc tầư duyên cớ cón lăng                Không biết được duyên cớ trước sau

Xo noọng nàng giò lần khay ảng             Xin cô nàng cất dây mở cổng

Rẳp khươi mấư khảu bản khảu rườn       Đón rể mới vào bản vào nhà) [1, tr. 140]

     Lời hát dường như quá ngắn, bên họ nhà gái vẫn muốn nghe hát và muốn thấy được tài đối ứng thơ của họ nhà trai nên không chịu mở cổng, nên nhà gái lại cất lên tiếng hát:

Xo chiềng thâng pan cần puôn pản            (Xin trình đến bọn người buôn bán

Chắc lượn xỉnh khảu bản duổi căn            Biết hát mời vào bản với nhau

Khỏi rèo lệnh cúa quan dú nẩy                  Tôi theo lệnh các quan các chức

Dửc cần lạ bố dảy quá pây                        Cấm người lạ không được qua đây

Rổp cần tại cần đây xam xẩư                     Gặp người lạ người ngay phải hỏi

Xừ quan lang khươi mấư rẳp lùa               Là quan lang rể mới đón dâu

Cạ chăn gỏi khảu mừa thâng táng            Nói thật sẽ mời vào đến chốn

Cạ ngày khỏi khay ảng khay tu                Nói thật tôi mở cổng đón chào) [1, tr. 142]

     Trước những câu hát như vậy, quan lang phải nhanh trí đáp lại bằng những lời thấu tình đạt lí để nhà gái mở cổng cho vào:

Kính thưa các ả tỏn chang tàng              (Kính thưa các ả đón giữa đường

Rườn cần mì sao nàng bjóoc quý            Nhà người có cô nàng hoa quý 

Noọng khỏi nhằng dú lế đan thân          Em tôi còn ở lẻ đơn thân

Bjóoc cần đang thì xuân phú phí            Hoa người đang mùa xuân chúm chím

Bjóoc cần đang rổp thí phông hom        Hoa người đang gặp lúc nở thơm 

Choi chỏi bặng đao bân, slíp hả             Choi chói tựa trăng rằm giữa tháng

Soong họ sén rổp nả thuận lòng              Hai họ đã gặp mặt thuận lòng

Pỏ mẻ cáp họ hàng thuận ý                     Cha mẹ cùng họ hàng thuận ý

Vằn nẩy vằn dại lệ rẳp lùa                      Ngày nay ngày đại lễ đón dâu

Boong khỏi tái khươi mà lạy bán            Chúng tôi đưa rể về lễ tổ

Lệ vật mì lai đoạn tháp tham                  Lễ vật có nhiều gánh nhiều gồng

Luc khươi xo pjá ơn pỏ mẻ                     Con rể gọi đáp ơn cha mẹ

Đảy pjom bái noọng á khay tàng           Được ơn các cô ả mở đường) [1, tr. 142]

     Như vậy, qua tiếng hát những lời giới thiệu sơ lược nhất đã được nhà trai trả lời. Sau lời chào hỏi, tình cảm giữa hai bên gia đình lần lượt được thể hiện, tăng tiến qua các lời hát.

     Theo lệ thường chân cầu thang có máng nước rửa chân. Muốn lên nhà sàn phải rửa chân cho sạch, nhưng hôm nay máng nước cạn khô. Nhà trai được các cô gái mời chén rượu rửa chân. Hơn hết gia chủ cũng muốn thử thách xem nhà trai sẽ ứng xử ra sao. Ví dụ:

…Tục tởi xưa mì lệ dào kha                         (…Tục ngày xưa có lệ rửa chân

Thanh khiết chậư lẩu dà chính ngám          Thanh khiết lòng thực tâm một chén

Lệ hôn nhân Tần Thấn giao hòa                  Lễ hôn nhân Tần Tấn giao hoan

Thúc mì lẩu dào kha chắng đảy Chẻn         Phải có rượu rửa chân mới đúng

lẩu slâư lẩu nẩy Lưu Lư                              Chén rượu này chén rượu lưu ly

Lẩu nẩy lẩu Dao Trì thượng đáng               Rượu này rượu Dao Trì thượng đế

Suối kha sle rọ rảng thêm duyên                 Rửa chân rồi ta để thêm duyên

Mọi sự đảy chu tuyền thong thả                  Mọi sự đều chu toàn thông thả

Y như cằm pí cạ bấư sai                              Y như lời ví bảo không sai

Giại mừa khéc táng nơi còi liệu                  Mời tới khách khác nơi hãy liệu)
                                                                    [1, tr. 147 – 148]

     Rượu là thức uống, là thứ cao lương dùng trong các dịp quan trọng của người Tày, đặc biệt trong lễ cưới nó là đồ lễ không thể thiếu. Có được rượu phải đổi bằng mồ hôi, sức lao động, không thể lấy rượu thay nước rửa chân, làm như vậy là trái với lẽ thường. Vì lẽ đó, quan lang đáp lời xin chối rượu rửa chân. Ví dụ:

…Bân đin dảo nặm tả dào kha                (…Tạo hóa đặt lấy nước rửa chân

Bân bấu tẳt lẩu mà sle suối                      Trời không đặt rượu ngon để rửa

Lẩu hom sle tiếp đại lồng bâm                Rượu ngon tiếp khách khứa mâm sang

Bách vật của kim ngần tắt tẩư                Của bách vật bạc vàng đặt dưới 

Lệ vật thêm khẩu lẩu tắt nưa                  Lễ vật và cơm rượu đặt trên

Khẩu lẩu sle tiến vùa ngai vàng             Rượu ngon để tiến lên vua chúa

Bấu au mà lồng lảng dào kha                Ai đem chân về rửa phí hoài

Tẳ t lệ hại hẩư rà khỏ phuối                  Bằng làm phí trong ngoài người nói

Lẩu dào kha là lội bân đin                    Lại rửa là có tội đạo trời

Sự nẩy khỏi giường cần xo chổi          Sự này tôi trình người xin chối) [1, tr. 148]

     Lời đối đáp của quan lang không chỉ nói về nghi thức ngoại giao đơn thuần, mà chủ yếu nêu lên một quan điểm về giá trị của sức lao động. Gạo, rượu là sản phẩm của một quá trình lao động cần cù, sáng tạo, là thứ nuôi sống con người, nên không được lãng phí. Bài ca là lời giáo dục con người phải yêu quý lao động, có ý thức quý trọng của cải do mình làm ra.

     Ở những thử thách khác nhà gái đặt ra cho đoàn nhà trai: chổi ngăn đường, đó đơm cá ngăn cản cửa vào nhà, túi đựng mèo treo ở cửa ra vào… như những bức tường thành sừng sững mà nhà trai cần vượt qua. Với những chướng ngại vật ấy người ta dễ dàng bước qua hoặc len lách mà đi, nhưng không ai làm như vậy, vì bên nhà gái sẽ đánh giá thiếu lịch sự, kém ứng xử đối đáp. Gặp cảnh tượng nào quan lang phải lần lượt cất tiếng hát đầy lí lẽ để nhà gái cất bỏ hoặc tạo thuận lợi cho nhà trai đi. Khi quan lang xin cất từng thứ ở cửa thì bên nhà gái phải đáp lại bằng lời thanh minh đầy sức thuyết phục và sai các chị em thu dọn để có lối đi. Ví dụ:

     Quan lang xin cất chổi:

…Nhục quét hất chủa rườn tẳng tởi                (…Làm chúa nhà suốt đời là chổi

Quét thuổn tằng cung nội rườn chương          Quét trong nhà cung nội trung gia

Quét thuổn nhác tu rườn slâư sloỏng             Quét hết rác của nhà sạch sẽ

Dú dặm dẹ sỉnh sloáng slíp phăn                    Để mọi người mắt mẻ mười phân

Quét rườn vúa rườn dân cung sóa                  Quét cung vua nhà dân tất cả

Hẩư chủa rườn mì cúa đàng hoàng                Người chủ nhà giữ của không hay

Răng tả sle hơn tàng vặn nẩy                         Cớ sao lại bỏ đây của ấy

Hẩư boong khỏi nẳm nghị bấu thông            Làm chúng tôi suy nghĩ không thông

Khỏi xo thâng gia tung các á                        Tôi trình lên gia trung các ả

Củ pây boong khỏi quá khảu rườn               Cất chổi đi mở cửa vào nhà) [1, tr. 150] 

     Pả mẻ đáp lời thanh minh:

…Nhục quét nẩy ăn vằn quét lảng                (…Cái chổi này sớm hôm dùng nó

Bấư vửa rầư luổn quẻng xảng tàng              Có bao giờ lại bỏ nới đây

Nạy ngám quét vảng chang náo giá            Nãy vùa quét buồng trong sách sẽ

Đếch tầư quẩy mà tả hơn tàng                    Đứa trẻ nào đem bỏ lung tung

Noọng ơi củ rườn chang tỉ quẹng               Em ơi! Hãy cất ngay giấu kĩ

Nhục quét giá luổn phẻng xảng tàng          Chổi quét nhà sao để khắp nới

Củ pây khoái lủc lan cỏi chứ                    Cất ngay đi mọi người hãy nhớ

Mởi khéc khửn hất lệ rườn chương          Mời khách vào hành lễ nhà trong) [1, tr. 150] 

     Nhận xét: Các vật cản đem ra thử thách: chổi, đó đơm cá, túi nhốt mèo… là những đồ vật rất bình dị. Người Tày đem những vật dụng thân thuộc trong cuộc sống hằng ngày ấy để cản lối nhà trai, một mặt muốn thử tài ứng đối, thăm dò sự khôn khéo của quan lang, đồng thời nó cũng là bài ca ca ngợi những gì xung quanh con người lao động. Vật dụng nhỏ bé nhưng không tầm thường mà luôn thân thiết, có ích trong cuộc sống. Tưởng như cản lối mà hóa ra dẫn lối.

     Có lúc kết cấu đối đáp là lời mời đáp chân thành, khiêm tốn, giản dị, nhưng chất chứa lòng mến khách. Ví dụ:

     Sau khi vượt qua các thử thách, đoàn nhà trai đã vào được gian chính của ngôi nhà, các cô gái bưng chén nước chè đến mời với lời lẽ thật khiêm tốn. Ví dụ:

…Chẻn nẩy dú đông luông khuổi lẩc          (…Chén trà này đáy lòng có lễ

Ẩm ché lài phoi phóc đản đăm                    Trà này trà hái ở rừng sâu

Ngòi mà bấu thúc slim quý khách              Ấm chén lại bạc màu nhơ bẩn

Slương căn là bấu trách đảy piom             Xem ra không được thuận khách sang

Xo dường thâng chẻn nưng noọng phác    Thương nhau hãy trăm phần nhận cả) [2, tr. 44].

     Trước tâm chân tình, khiêm tốn, chu đáo của nhà gái, nhà trai vui mừng đón nhận, quan lang đáp lời cảm ơn, khen ngợi hết lời. Những thứ nhà gái mang ra mời toàn là loại hảo hạng, sang trọng, mặc dù chưa uống nhưng đã đượm ngon trong miệng:

…Rườn cần pây nặm háng lai pan         (…Nhà người đi ra chợ nhiều phiên

Khéo rự đảy ché van hom bjoóc             Khéo mua được chè hương thơm ngát

Ổm chẻn viền ngụ sắc lài đo                  Ấm chén viền ngũ sắc hoa văn

Páy kin đạ đâư gò sỉnh soáng                Chưa uống đã đượm ngon trong miệng

Kin lồng gò gần táng khôn ngoan          Uống chè này nên hạng khôn ngoan

Pjom bái noọng táng mường thiết đại    Cảm ơn nàng khác mường thiết đãi

Chứ đâư châư vạn tởi bấu lùm      Nhớ trong lòng mãi mãi không quên) [1, tr. 160]

     Như vậy, những bài hát có kết cấu đối đáp trong quan lang thường là những lời chào, mời, trình thưa, thanh minh đầy tinh tế của hai bên gia đình nhà trai, nhà gái trước những thử thách được đặt ra; là lời ca về tình yêu lao động, phải biết trân quý thành quả lao động do mình làm ra, trân trọng những vật dụng gắn liền với cuộc sống lao động hằng ngày; còn là lời ngợi ca đức tính khiêm nhường, lòng mến khách – một nét đẹp đặc trưng trong tính cách đồng bào Tày… Có thể thấy, những khúc hát này đã làm tăng thêm không khí “đối kháng” vui nhộn và ý tứ, thu hút mọi người vào cuộc, đồng thời kích thích khả năng ứng tác của các nghệ nhân, góp phần làm phong phú thêm vốn dân ca đám cưới Tày.

4. Kết luận

     Hát quan lang là những bài hát dành riêng cho đám cưới, là hình thức sinh hoạt văn hóa độc đáo của người Tày, gắn với hôn lễ và phục vụ cho hôn lễ. Chủ đề của những bài ca này là đón dâu, mừng đám cưới gắn với các thử thách và trình tự của từng nghi lễ. Nội dung chính của các lời hát là chỉ bảo, kể về lối ứng xử tinh tế và tao nhã của con người, đồng thời thay cho lời chào xã giao, lịch sự thể hiện tình cảm trân trọng của hai bên gia đình nhà trai, nhà gái. Hát quan lang vừa mang chức năng trao đổi tình cảm, vừa thể hiện chức năng nghi lễ trong hình thức truyền thống nên cũng không nằm ngoài nhu cầu về tinh thần trí tuệ, thẩm mỹ của người Tày. Thông qua tục hát quan lang, mối quan hệ cộng đồng, làng bản, dòng họ đôi lứa ngày càng gắn kết. Vì vậy, ngôn ngữ trong hát quan lang mang một phong vị đặc biệt, mang tính thể loại, cả hình thức, ngữ nghĩa và ngữ dụng, đồng thời hàm chứa chất văn hóa Tày.

     Xét theo hệ dọc (cấp bậc) các cuộc hát, chặng hát, lời hát được tiến hành theo một trình tự nhất định, trong một chu trình khép kín các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng. Vì vậy, văn bản quan lang thường theo những quy định chặt chẽ, theo khuôn thức. Tuy nhiên, các khuôn thức này vẫn có chỗ cho sự ứng tác sáng tạo. Các bài hát thường sử dụng hai dạng cấu trúc: hai đoạn và ba đoạn. Trong đó, nhiều nhất là cấu trúc ba đoạn. Qua đó, thấy rõ được sự tương thích, phù hợp giữa tính chất, đặc trưng của dân ca đám cưới với cấu trúc của từng bài hát.

     Xét theo hệ ngang (lượt lời), các bài hát sử dụng hai dạng kết cấu: một chiều, đối đáp. Trong đó, được ưa dùng nhất là kết cấu đối đáp. Cuộc hát quan lang khá dài vì đi qua nhiều chặng, do hai bên hát trao đi đổi lại, khi khẽ khàng khi sôi nổi, khi co kéo thử thách lúc ân cần mời chào, lúc ý tứ khép nép khi giãi bày cởi mở tha thiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES

     [1] D. B. Nguyen, Folk poetry in Lang Son. National Cultural Publishing House, (in Vietnamese), Hanoi, 2001.

     [2] T. T. Nguyen, Poetry of quan lang. National Cultural Publishing House, (in Vietnamese), Hanoi, 2008.

     [3] V. P. Luc, Tay wedding poetry. Social Science Publishing House, (in Vietnamese), Hanoi, 1985.

     [4] A. Trieu and Q. Hoang, The Tay people’s marriage customs. National Culture Publishing House, (in Vietnamese), Hanoi, 1995.

     [5] T. T. Nguyen, “Traditional weddings of Tay people,” (in Vietnamese), Journal of Culture and Art, vol. 290, pp. 106-109, 2008.

     [6] T. T. Nguyen, “Quan lang singing in Tay people’s weddings in Cao Bang,” (in Vietnamese), Journal of Culture and Art, vol. 358, pp. 15-18,24, 2014.

     [7] T. H. Luong, Wedding customs of the Tay people in Bac Kan. Thai Nguyen University Publishing House, (in Vietnamese), 2020.

     [8] V. P. Hoang and T. H. Cao, Tay folk festival. National Cultural Publishing House, (in Vietnamese), Hanoi, 2012.

     [9] H. P. Nguyen and V. V. Pham, Some types of folk arts in the northern mountainous areas. Thai Nguyen University Publishing House, (in Vietnamese), 2016.

     [10] V. Hoan, “Beauty in Tay people’s weddings in Cao Bang,” Photo magazines of Ethnics and Mountainous areas, 05/12/2015. [Online]. Available:
https://dantocmiennui.vn/net-dep-trong-dam-cuoicua-nguoi-tay-cao-bang/25957.html .[Accessed Jan 02, 2021].

     [11] V. Long, “Quan lang singing, cultural beauty in Tay people’s weddings in Tung Ba commune,” Ha Giang Magazine Online, 05/5/2018. [Online]. Available:
http://baohagiang.vn/van-hoa/201805/hatquan-lang-net-dep-van-hoa-trong-le-cuoi-cua-nguoi-tay-xa-tung-ba-724682. [Accessed Mar. 09, 2021].

     [12] D. T. Luu, “Repartee poems in the ceremony welcoming the bride of the Tay people,” Announcement of Sino-Nom studies, Institute of Sino-Nom studies, 2010, pp. 318-325.

Nguồn: TNU Journal of Science and Technology 226(08): 102 – 111

Thánh Địa Việt Nam Học
(https://thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Đặc điểm văn bản hát “Quan Lang” trong dân ca Tày (Tác giả: Lê Thị Như Nguyệt)