Giáo dục sớm – Cuộc cách mạng mềm trong giáo dục

EARLY EDUCATION – A SOFTREVOLUTION IN EDUCATION

Tác giả bài viết: LÊ THỊ HƯƠNG
(Trường Đại học Thủ đô Hà Nội)

TÓM TẮT

     Giáo dục sớm là một bước đột phá, là cuộc cách mạng mềm trong khoa học giáo dục của nhiều quốc gia trên thế giới. Giáo dục sớm tác động, dẫn dắt, bồi dưỡng phát triển tiềm năng thể lực, trí tuệ và nhân cách tốt đẹp của trẻ trong những năm đầu đời. Đây là giai đoạn phát triển quan trọng nhất của một con người, là nền tảng cho sự phát triển cả thể chất, tinh thần, nhận thức và văn hóa trong tương lai của cả cuộc đời. Với sứ mệnh như vậy, mục tiêu của giáo dục sớm không phải để nhồi nhét tri thức mà kích hoạt, khai phá các tiềm năng của trẻ, tạo điều kiện cho hai bán cầu đại não phát triển tối đa góp phần phát triển toàn diện cả thể chất và nhân cách cho trẻ.

    Có thể nói, giáo dục sớm ở nước ta chưa được định hình, trẻ nhỏ rất ít được tiếp cận với giáo dục sớm. Đây là một thiệt thòi lớn không chỉ cho các cháu nhỏ mà còn là sự lãng phí tiềm năng vô cùng to lớn của các gia đình và cả đất nước. Vì vậy, nhà nước, Bộ giáo dục, các trường Sư phạm đào tạo giáo viên mầm non, trường Mầm non, các đoàn thể và mỗi gia đình cần quan tâm, tạo điều kiện cho trẻ được hưởng thụ tư tưởng, phương pháp giáo dục sớm để những tố chất thiên bẩm của các cháu được khơi dậy, nuôi dưỡng, phát triển. Đó chính là nguồn nhân lực chất lượng cao, giàu tiềm năng của đất nước.

Từ khóa: Não bộ, phát triển, giai đoạn, giáo dục sớm.

ABSTRACT

     Early childhood education (ECE) is a breakthrough and a revolution in the education field in many countries. ECE influences, and improves the development in physicality, intelligence, and personality of a child in early years. This is the most important developmental stage of person, being the foundation for physical, mental, concious, and cultural development in the future. The target of ECE is not to force knowledge gain, but to stimulate and activate the potential abilities of infants. ECE can facilitate the optimal development of two cerebral hemispheres, which involve in the allsided development of both physicality and mentality.

     It could be argued that, ECE has not been fully implementedin Vietnam, and infants rarely can access to ECE. This is a huge disadvantage not only for the children, but also for families and the country. Therefore, the government, the Ministry of Education, the universities that offer early-childhood Pedagogy, the kindergartens, and families need to encourage and provide ECE for the children. This could be the enormous supply of human resources for the country in the future.

Keywords: Brain, development, stage, early education.

x
x x

1. Đặt vấn đề

     Giáo dục sớm là một bước đột phá của khoa học giáo dục. Các công trình nghiên cứu về giáo dục sớm trên thế giới đều cho rằng: Một thời thơ ấu an toàn và hạnh phúc không chỉ là quyền của trẻ em, mà nó còn cung cấp các cơ hội cho trẻ để khai mở và phát triển hết các khả năng và tài năng của trẻ khi chúng lớn lên, đặc biệt là giai đoạn từ 0 – 6 tuổi – giai đoạn não bộ phát triển nhanh nhất, đó là “Giai đoạn vàng”, “Cửa sổ của cơ hội” [9].

     Giáo dục sớm là quá trình kích thích các chức năng của não bộ phát triển trong thời kì sinh trưởng nhanh nhất của não nhằm nâng cao tố chất, đạt được những tiềm năng to lớn, hình thành nhân cách và các phẩm chất tốt đẹp của con người. Giáo dục sớm sẽ kích thích trẻ phát triển một cách toàn diện, đầy đủ, có sở trường và có cá tính, bồi dưỡng nên những em nhỏ giàu năng lực sáng tạo, có sức khỏe, sự thông minh về trí tuệ, với tính cách và đạo đức tốt, đặt nền móng vững chắc cho quá trình giáo dục và sự trưởng thành của các em sau này. Được tiến hành trong giai đoạn trí tuệ con người phát triển nhất, giáo dục sớm, vì thế, mang lại những ảnh hưởng sâu sắc nhất.

     Giáo dục sớm là quá trình bồi dưỡng nền tảng tính cách của mỗi con người. Tính cách đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự trưởng thành của mỗi người. Một con người nếu có được phẩm chất và tính cách tốt đẹp chắc chắn sẽ gặp những điều may mắn, thuận lợi, được nhiều người yêu mến giúp đỡ. Ngược lại nếu con người có tính cách không tốt, bị nhiễm những thói hư tật xấu thì chắc chắn sẽ gây ra những mối nguy hại khôn lường cho chính cuộc đời mình cũng như xã hội. Theo nhà giáo dục học Krupskaya, những kinh nghiệm từ nhỏ sẽ có ấn tượng rất sâu trong cuộc đời mỗi con người. Chính vì vậy, nếu một người được hình thành tính cách tốt ngay từ nhỏ, gia đình và bản thân người đó nhất định sẽ rất vui vẻ hạnh phúc; nếu nhiều người được hình thành tính cách tốt ngay từ nhỏ, xã hội sẽ rất yên ổn, thái bình và nhân tài sẽ ngày càng nhiều. Còn những người từ bé đã bị tiêm nhiễm tính cách xấu, thói quen xấu, muốn cải tạo thật không dễ dàng, hơn nữa tuổi càng cao, thói quen, tính cách và tư duy càng khó thay đổi.

     Mục tiêu giáo dục sớm không phải để nhồi nhét tri thức mà giáo dục nhằm góp phần kích hoạt được các năng lực thiên bẩm của trẻ. Tất cả những đứa trẻ đều có khả năng sáng tạo vô hạn. Điều quan trọng là làm thế nào để kích thích sự sáng tạo đó, chứ không phải là làm cho nó thui chột đi. Bản chất của giáo dục sớm là mang đến cho con trẻ một cuộc sống đầy thú vị, được kích thích và rèn luyện một cách phù hợp, từ đó nâng cao tố chất cơ bản của con người. Đây cũng chính là điểm khác biệt cơ bản so với giáo dục thông thường
hiện nay.

2. Nội dung

     2.1. Cơ sở khoa học và thực tiễn về sự phát triển của não bộ giai đoạn từ 0 – 6 tuổi

     Theo nghiên cứu của các nhà khoa học trên thế giới, não bộ, cơ quan kì diệu của cơ thể phát triển từ trong bụng mẹ. Sự phân chia, hình thành tế bào thần kinh đạt đỉnh điểm, bứt phá khi thai nhi 20 tuần tuổi. Trước khi chào đời, trong bào thai đã có hàng tỉ tế bào thần kinh chờ đợi sự kích thích để hình thành hàng tỉ các kết nối và mạng lưới thần kinh dày đặc, chằng chịt. Các nhà khoa học gọi mạng lưới này là “rừng tế bào thần kinh”, cho phép đứa trẻ nghe, cảm nhận, nếm, ngửi, hình thành những kinh nghiệm, giúp phát triển quá trình vận động, ngôn ngữ, các khả năng thông thường khác. Khi mới lọt lòng, trong vài tuần đầu tiên đã là điểm khai mở trí não học hỏi và phát triển.

     Mỗi đứa trẻ bình thường ngay khi chào đời đã có thể tự thực hiện một số chức năng cơ bản. Song, trẻ cần phối hợp các giác quan, cần những trải nghiệm khởi đầu để lớn lên, cải thiện những chức năng vốn có, đồng thời học hỏi hoặc tạo ra các mối liên kết. Khi trẻ mới chào đời, bộ não đã phát triển theo quy luật “sử dụng hay đánh mất tế bào não”. Khi trải qua ba quá trình tự nhiên, được kích thích, học hỏi và củng cố vỏ não, trong hàng tỉ tế bào thần kinh đã có, chỉ có những tế bào nào sớm được sử dụng, kích thích bằng các biện pháp thường xuyên, liên tục, mạnh mẽ mới được củng cố, trở thành mối liên kết thần kinh lâu dài, thực hiện chức năng của các chu trình hay mạng lưới quan trọng. Những tế bào không được sử dụng có hiệu quả đều trơ ỳ, sau đó chết đi. Nghiên cứu của những nhà giáo dục trẻ thông minh sớmđã chỉ ra rằng chúng ta đang lãng phí một nguồn tài nguyên vô cùng to lớn vì chúng ta mới chỉ khai thác được từ 3 – 10% khả năng kì diệu của não. Não phát triển nhờ hoạt động, quá trình phát triển của trẻ là sản phẩm của các kích thích trong môi trường sống đa dạng, phong phú. Điều này cho thấy, nếu trẻ sinh ra có não bộ bình thường nhưng sống trong môi trường thiếu hụt sự kích thích giác quan, trầm lặng, vô vị, không có sự tương tác tích cực, phó mặc cho các thiết bị hạn chế như xe đẩy, giường cũi, khung tập đi… không có sự phối hợp giữa các giác quan, cơ quan vận động tương xứng, không được hoạt động tự do, sáng tạo trẻ sẽ bị mất đi cơ hội phát triển. Tương tác thương yêu với những người lớn chăm sóc sẽ kích thích mạnh mẽ não bộ của trẻ, tạo nên các khớp thần kinh phát triển và kết nối đang hiện có sẽ trở nên mạnh hơn. Các kết nối được sử dụng trở nên vĩnh cửu. Nếu một đứa trẻ ít được kích thích sớm, các khớp thần kinh sẽ không phát triển, và não sẽ làm cho các kết nối ít hơn.

     Đồng thời với quá trình được kích thích là quá trình học hỏi, củng cố chu trình hoạt động của tế bào thần kinh tạo nên hệ thống hoạt động lâu dài. Quá trình củng cố vỏ não diễn ra song song: tế bào não phát triển lớp bảo vệ giúp thiết lập các mối liên kết và thúc đẩy trao đổi thông tin. Các quá trình này đạt đỉnh điểm, bứt phá trước khi trẻ 6 tháng tuổi.Trong những năm đầu đời này, bộ não của trẻ cũng lớn lên nhanh chóng. Điều này được phản ánh rõ nét nhờ những biến đổi lớn lên của chũm đầu trẻ.

     Theo những nghiên cứu khoa học, bộ não của trẻ ngay từ khi sinh ra đã có những tiềm năng đáng kinh ngạc. Khi sơ sinh, trọng lượng não trẻ bằng 25% trọng lượng não người lớn, khi một tuổi đạt 50%, 2 tuổi đạt 75%, 3 tuổi đã đạt 90%. Khi trẻ 6 tuổi, hầu như cấu trúc đã được hoàn thiện, do vậy mà việc chăm sóc não bộ của trẻ cũng quan trọng không kém việc chăm sóc cho dạ dày của trẻ.Với sự phát triển nhanh chóng của não bộ trong giai đoạn từ 0 – 6 tuổi, đặc biệt là từ 0 – 3 tuổi đã cho mỗi trẻ mới sinh ra đều có năng lực tuyệt vời và ham muốn mãnh liệt học hỏi, hiểu biết một cách chính xác. Thuyết phát triển trí lực của nhà giáo dục Shichida Makoto (Nhật Bản) cho rằng: sự phát triển trí lực của trẻ theo quy luật giảm dần giống như một tam giác cân. Lúc 0 tuổi (thời kì thai nhi), phát triển nhanh nhất là đáy tam giác. Lúc 8 tuổi là đỉnh của tam giác, trí lực không phát triển rõ rệt và sau đó chỉ có thể phát triển kĩ năng và tri thức. Nếu trẻ đến 5 tuổi mới dạy chỉ phát huy được 60%, nếu 8 tuổi mới dạy, chỉ phát huy được 40% tiềm năng trí lực, dù trong điều kiện tốt nhất. Maria Montessori chỉ ra rằng, ở trẻ có những giai đoạn nhạy cảm nhất định, nếu ở những giai đoạn này, sự “nhạy cảm” của trẻ không được đáp ứng kịp thời, nó sẽ trôi qua một cách lãng phí mà không thể lấy lại được.

     Các nhà giáo dục sớm khẳng định các giai đoạn nhạy cảm đó là “thời kì vàng” của một số phẩm chất cơ bản, thiết yếu của trẻ. Bỏ qua cơ hội duy nhất này là bỏ lỡ sự phát triển tốt nhất của trẻ. Ba năm đầu đời là giai đoạn rất quan trọng của sự phát triển hai bán cầu đại não. Từ 0 – 2 tuổi là thời kì phát triển của bán cầu đại não phải. Đây là giai đoạn thần đồng. Từ 3 – 4 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp sang thời kì phát triển của bán cầu đại não trái. Từ 6 – 8 tuổi là thời kì của não trái. Giáo dục sớm chính là giáo dục nhằm thúc đẩy chức năng não bộ (hai bên bán cầu não phải và trái) của con người phát triển một cách tối ưu ngay từ những tháng năm đầu đời (từ 0 – 6 tuổi) là giai đoạn đem lại hiệu quả cao nhất. Như vậy, 3 năm đầu đời là giai đoạn rất quan trọng của sự phát triển não. Nếu bỏ qua cơ hội chỉ đến một lần trong đời lúc này, tiềm năng não bộ của trẻ sẽ giảm dần theo quy luậtdùng thì phát triển, không dùng sẽ bị thoái hóa. Nghĩa là giáo dục càng muộn thì tiềm năng có được của con người được phát huy càng ít. Những năm đầu đời mang tính chất quyết định đến cuộc sống và tri thức sau này của trẻ nên nó đặc biệt quan trọng. Người ta nhận ra rằng, đứa trẻ càng sớm được kích thích thì quá trình phát triển của não càng được tối ưu hóa.

     Cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong giai đoạn này có ảnh hưởng sâu sắc đến việc phát triển tiềm năng về học tập, xã hội, và thể chất trong suốt cuộc đời của trẻ. Các bằng chứng khoa học cũng cho thấy sự tương tác tích cực và mối quan hệ hỗ trợ, ổn định với cha mẹ và người chăm sóc gần gũi khác, là những yếu tố quan trọng đối với trẻ sơ sinh và trẻ mới biết đi, để chúng phát triển thành những người khỏe mạnh về mặt xã hội và tình cảm. Nếu trẻ tiếp xúc với hoàn cảnh thời thơ ấu bất lợi và stress độc hại, như bị bạo lực, nghèo đói, bị lạm dụng, bị những ảnh hưởng tiêu cực kéo dài sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển kiến trúc não, có thể dẫn đến những tổn thương quan trọng, cản trở sự thành công trong học tập và các vấn đề khác về hành vi và sức khỏe tâm thần, cho dù sau này có tạo điều kiện cho trẻ chơi và cung cấp những tương tác phù hợp với sự phát triển của trẻ có thể giúp giảm thiểu những tác động bất lợi của các stress trước đó, nhưng khả năng cho não bộ phát triển kiến trúc tối ưu cũng vẫn bị ảnh hưởng theo “quy luật giảm dần”. Như vậy, nếu ngay từ 0 tuổi, trẻ được sống trong môi trường chăm sóc, giáo dục sớm đúng đắn, đa dạng, được cung cấp những trải nghiệm phong phú, kích hoạt sớm trong giai đoạn phát triển tốt nhất – cửa sổ cơ hội, não bộ của trẻ được kích hoạt tích cực, sẽ hình thành các kết nối và mạng lưới thần kinh dày đặc, giúp trẻ đạt được những tiềm năng trí lực tối đa, hình thành và phát triển vững chắc những tính cách và phẩm chất tốt đẹp của con người.

     Với mục tiêu góp phần phát triển não bộ nên giáo dục sớm cần tiến hành sớm nhất có thể. Đó là biết chọn tuổi cha mẹ tốt nhất, dành điều kiện tốt nhất cho sự thụ thai và quá trình thai giáo, tạo điều kiện cho thai nhi khỏe mạnh, phát triển tốt, tạo tiền đề cho giáo dục trẻ sau này. Hoạt động chủ đạo trong giáo dục sớm là chơi mà học, học bằng chơi. Giáo dục sớm là quá trình luôn tương tác với trẻ để kích thích, gợi mở hứng thú, tích cực, chủ động của trẻ. Quá trình giáo dục sớm rất cần kiên trì, thời lượng ngắn nhưng tần suất nhiều mới có hiệu quả. Giáo dục sớm tận dụng các cơ hội trong cuộc sống, bắt đầu từ dễ tới khó, từ gần đến xa, coi trọng tính riêng biệt, cá nhân; thực hiện 5 không: Tiểu học hóa, tự do hóa, quý tộc hóa, chăm sóc hóa, nữ tính hóa.

     2.2. Một số phương pháp giáo dục sớm (từ 0 – 6 tuổi) trên thế giới

     Với quá trình giáo dục sớm, chúng ta đưa các kích thích, các thông tin vào môi trường của trẻ từ sớm với thời gian, cường độ, tần suất đủ để trẻ phát triển tối ưu những năng lực nội tại của mình.

     Xét trên phương diện đó, thì giáo dục sớm đã xuất hiện từ rất lâu – từ những làng nghề truyền thống hay những công việc mang tính “cha truyền con nối”. Những đứa trẻ sinh ra trong các làng nghề này đã được tiếp xúc từ sớm, thường xuyên và đều đặn với những công việc của ông cha mình để từ đó trở thành những nghệ nhân trong lĩnh vực này. Đâu đó, cũng xuất hiện những nghệ nhân tài ba kiệt xuất với những năng lực tuyệt vời. Nhìn ở góc hẹp, những làng nghề truyền thống hay các công việc mang tính gia truyền của mọi gia đình trên thế giới chính là môi trường giáo dục sớm đối với trẻ về một lĩnh vực nào đó.

     Giáo dục sớm còn được ghi nhận ở thời xưa trong các vương triều châu Á. Các vị vương tôn, công tử đều được giáo dục từ sớm để phát triển khá toàn diện cả về mặt thể chất, ngôn ngữ, nghệ thuật, nhận thức, lễ nghi… Các vương triều của Trung Quốc hiện nay còn lưu truyền các sách thai giáo của cung đình để sinh ra những đứa con ưu việt. Dưới đây, xin điểm qua một số phương pháp giáo dục sớm đã và đang được phát triển trên
thế giới.

     2.2.1. Phương pháp giáo dục Karl Witte

     Người được ghi nhận đầu tiên trong lịch sử giáo dục sớm thế giới là Karl Witte cha, người Đức, từ thế kỷ 19. Ông đã phát triển những lí luận về giáo dục tích cực cho con từ khi mới sinh ra trong cuốn sách “Phương pháp giáo dục của Karl Witte” – tóm lược quá trình nuôi dạy Karl Witte từ khi sinh ra đến 14 tuổi. Cuốn sách này được lưu trữ trong thư viện của đại học Harvard. Karl Witte cha cho rằng giáo dục con trẻ phải bắt đầu từ buổi bình minh của nhận thức, có như vậy đứa trẻ sẽ trở nên vượt trội. Karl Witte con sinh ra không may kém phát triển về trí tuệ. Tuy nhiên, cha của Witte không tuyệt vọng. Ông từng bước áp dụng những kế hoạch giáo dục của riêng mình và Karl Witte đã trở thành một con người vượt trội. Năm lên 8, 9 tuổi, cậu bé Witte đã thông thạo sáu thứ tiếng: Đức, Pháp, Ý, La-tinh, Anh và Hy Lạp; không những thế lại còn hiểu biết cả về động vật học, thực vật học, vật lý, hóa học và đặc biệt là toán học. Kết quả là năm 9 tuổi, Witte đã thi đậu vào Đại học Leipzig. Tháng 4 năm 1814, chưa đầy 14 tuổi, Witte đã bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ về đề tài toán học, sau đó nhận bằng Tiến sĩ triết học, nhận bằng Tiến sĩ luật năm 16 tuổi và được bổ nhiệm làm giảng viên luật ở Đại học Berlin.

     Phương pháp giáo dục của Karl Witte tuy mới tồn tại trong cuốn sách của ông và chưa được ghi nhận nhiều ở thời đó, nhưng nó cũng có những giá trị to lớn. Ngày nay khi được khai thác và nhìn nhận lại, chúng ta có thể thấy Karl đã đi trước thời đại khi phát hiện ra quy luật phát triển của não bộ và cách thức để kích hoạt tối đa tiềm năng của não bộ trẻ. Cuốn sách đã trở thành tài liệu quý cho các nhà nghiên cứu giáo dục và là cảm hứng cho việc nuôi dạy con của nhiều cha mẹ hiện đại.

     2.2.2. Phương pháp giáo dục Montessori

     Phương pháp Montessori được phát triển từ những năm đầu thế kỷ 20 cũng có thể được gọi là một phương pháp giáo dục sớm. Maria Montessori cũng cho rằng sự phát triển trong 6 năm đầu đời của trẻ là quan trọng nhất. Chúng có thể tiếp nhận thông tin từ môi trường xung quanh rất nhanh. Trong 6 năm đầu đời này, những kinh nghiệm mà trẻ có được khi tiếp xúc sẽ giúp hình thành các kết nối thần kinh và đặt nền tảng của cấu trúc não bộ trẻ suốt cả cuộc đời. Đồng thời, khả năng nhận thức của trẻ ở giai đoạn này cũng sẽ tác động tới những hành vi, chuẩn mực về đạo đức của trẻ trong suốt quãng đời về sau. Trong phương pháp Montessori, các hoạt động được thiết kế để hỗ trợ việc xây dựng cấu trúc não bộ hiệu quả và mạnh mẽ. Khi trẻ tham gia các hoạt động, các vùng não điều khiển khả năng tập trung chú ý, các giác quan và vận động đều được kích hoạt đồng thời với nhau. Hơn nữa, việc lựa chọn các hoạt động của phương pháp Montessori dựa trên sự hứng thú và nhu cầu của trẻ, nên càng giúp não bộ trẻ đón nhận các thông tin một cách tự nhiên và tích cực. Trẻ sẽ tự tin hơn và sớm đạt được các kỹ năng sống quan trọng cho cả cuộc đời. Những trẻ được giáo dục theo phương pháp Montessori là những em khá chủ động, độc lập, tư duy tốt và rất lịch sự.

     Phương pháp Montessori đã được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới trong suốt thế kỷ qua và cũng đã được cải biến để phù hợp với những yêu cầu mới của thời đại. Ngày nay đã có hơn 5000 trường áp dụng phương pháp này. Ngoài ra, có rất nhiều các gia đình cũng áp dụng phương pháp Montessori tại nhà theo đúng các nguyên tắc của phương pháp đưa ra.

     2.2.3. Phương pháp Glenn Doman

     Năm 1955, giáo sư Glenn Doman người Mỹ cùng một số cộng sự thành lập Viện Nghiên cứu phát triển tiềm năng con người IAHP (iahp.org). Giáo sư và các cộng sự trong Viện nghiên cứu nổi tiếng với những thành tựu về điều trị cho trẻ bị tổn thương não và trẻ em bình thường. Ông cũng bắt đầu với công việc của một bác sĩ trị liệu và làm việc với các bệnh nhân bị tổn thương não. Ông đã kể lại câu chuyện về một gia đình nghèo có một người cha bị tổn thương não không thể di chuyển được đưa đến cho ông trị liệu. Theo cách thông thường, Glenn Doman tiến hành các biện pháp trị liệu giúp cho chân tay bệnh nhân được phục hồi. Tuy nhiên, cô con gái của người bệnh đã hỏi ông một câu hỏi khiến ông phải suy nghĩ đến công việc mình vẫn làm máy móc từ trước đến lúc đó theo những quy trình có sẵn. Cô bé hỏi: Bố cháu bị tổn thương ở đầu tại sao ông lại điều trị cho bố cháu ở chân? Glenn Doman đã thay đổi cách điều trị các bệnh nhân này và đã đạt được những thành công đáng kể. Ông đã tìm ra cách tác động vào não bộ một cách tích cực để giúp các trẻ bị tổn thương não phục hồi và hòa nhập cuộc sống. Với việc ra đời cuốn sách và khóa học cùng tên “Làm gì với đứa con bị tổn thương não của bạn”, Glenn Doman cùng các chuyên gia Viện Nghiên cứu phát triển tiềm năng con người IAHP đã truyền cho hàng nghìn cha mẹ của các em bé bị tổn thương não bộ một niềm tin, niềm hi vọng vào sự hồi phục của những đứa con của mình, giúp họ không từ bỏ hay ngã quỵ trước những thực tế khó khăn. Các cha mẹ đã có được sự nhận thức mới về những em bé bị tổn thương não bộ. Họ hiểu rằng, đứa con của mình vẫn có hoàn toàn các tiềm năng để trở thành những em bé hết sức thông minh và tài năng.

     Glenn Doman cũng phát triển các khóa đào tạo và xuất bản một loạt các ấn phẩm giúp các cha mẹ của trẻ bình thường nhân lên trí thông minh cho con cái họ. Ông và các cộng sự đã nhận ra rằng sự tăng trưởng và phát triển của não bộ là một quá trình tăng trưởng năng động. Đây là một quá trình có thể bị dừng lại (khi não bị tổn thương nặng nề) hoặc có thể bị chậm lại (khi não bị tổn thương nhẹ) và điều quan trọng nhất đó là quá trình này có thể được đẩy nhanh lên. Giai đoạn 0-6 tuổi là giai đoạn não bộ phát triển bùng nổ và có khả năng tiếp nhận thông tin với số lượng lớn, tốc độ cao. Để đẩy nhanh sự phát triển này, cần cung cấp cho não nhiều các kích thích khác nhau với thời gian, cường độ và tần suất phù hợp. Phương pháp Glenn Doman phát triển một hệ thống học liệu, học cụ phong phú để giúp tác động cho trẻ về mặt ngôn ngữ đọc, toán học, cung cấp các tri thức bách khoa, âm nhạc, vận động cho trẻ. Viện IAHP cũng đưa ra một bảng hồ sơ năng lực của trẻ dựa trên các mốc phát triển của não bộ để đánh giá các năng lực: thị giác, xúc giác, thính giác, vận động, ngôn ngữ, khả năng sử dụng tay.

     Phương pháp Glenn Doman trong suốt nửa thế kỷ qua đã tạo nên một “Cuộc cách mạng mềm” trong giáo dục và được coi là khởi nguồn của giáo dục sớm hiện đại. Nó đã làm thay đổi nhận thức của hàng nghìn các bậc cha mẹ và những người nghiên cứu giáo dục trẻ em về những năng lực tiềm ẩn của trẻ. Cuộc cách mạng này cũng mang cha mẹ lại gần với con cái hơn với thông điệp cha mẹ là người giáo viên tuyệt vời nhất của chính con cái họ. Hàng trăm nghìn các cha mẹ khắp nơi trên thế giới đã trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia cuộc cách mạng này vì lợi ích tốt nhất và tương lai tươi sáng cho con cái mình.

     2.2.4. Phương pháp Shichida

     Tiến sĩ giáo dục Shichida Makoto của Nhật Bản là người tiên phong trong việc phát triển phương pháp học tăng tốc của não phải (Right Brain Accelerated Learning Techniques). Ông cũng tiếp thu các quan điểm về tiềm năng não bộ của trẻ dưới 6 tuổi của phương pháp Glenn Doman và đi sâu vào nghiên cứu, phát triển trường phái giáo dục não phải từ những năm 1960. Ông đã xuất bản hơn 100 cuốn sách về giáo dục não phải bằng tiếng Nhật và trong số đó, bốn cuốn đã được dịch ra tiếng Anh.

     Phương pháp Shichida nhấn mạnh đến tầm quan trọng của mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái cũng như ảnh hưởng của mối quan hệ đó đến sự phát triển não bộ. Shichida cho rằng mọi trẻ em đều được sinh ra với những năng lực tiềm ẩn đặc biệt. Những năng lực này có thể được dễ dàng kích hoạt nếu được luyện tập và được cha mẹ hướng dẫn.

     Shichida phân tích cơ chế đón nhận thông tin của cả hai bên bán cầu não và cho rằng cần phải giáo dục đồng bộ hai bán cầu não bằng cách phát triển não phải và kết nối nó với não trái. Như vậy chúng ta mới có thể giúp hai bán cầu não cùng hoạt động với nhau một cách cân bằng và phát huy tối đa tiềm năng của não bộ.

     Với những nghiên cứu và trải nghiệm thực hành của mình, Shichida Makoto đã góp phần to lớn vào việc thúc đẩy cuộc cách mạng giáo dục thế giới với quan điểm thay đổi cách chúng ta đang hiểu về trẻ em, các khả năng của não bộ và các phong cách học khác nhau của trẻ. Ngày nay, đã có hơn 400 cơ sở áp dụng phương pháp giáo dục của Shichida trên toàn nước Nhật Bản và các nước khác như Singapore, Malaysia, Trung Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Indonesia, Úc, Mỹ, Canada… Những thành quả của ông đang giúp cho hàng ngàn trẻ em phát triển nền tảng cho những thành công trong tương lai.

     2.2.5. Giáo sư Phùng Đức Toàn với “Phương án 0 tuổi”

     Tiếp nối các trường phái giáo dục sớm của Mỹ, của Nhật, một loạt các nước châu Á khác cũng bùng nổ các phương pháp giáo dục não bộ. Trung Quốc, nước láng giềng của chúng ta cũng đã tìm ra giải pháp cho gánh nặng dân số khổng lồ của mình bằng việc giáo dục, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: “Biến gánh nặng dân số thành nguồn tài nguyên vô giá”. Giáo sư Phùng Đức Toàn, từ những năm 1980 đã phát triển “Phương án 0 tuổi” – một phương pháp giáo dục từ gia đình mang đặc trưng văn hóa Trung Quốc. Với phương án giáo dục này, Giáo sư Phùng Đức Toàn cho rằng nhân loại cần nhận thức lại tiềm năng của bào thai, trẻ sơ sinh và trẻ mẫu giáo. Ông cũng đã đưa ra một hệ thống lý luận cơ bản và phương pháp để khai mở những tiềm năng này của thai nhi, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Phương án 0 tuổi có sự thừa hưởng của các phương pháp Montessori, Glenn Doman và Shichida đồng thời có sự phát triển theo hướng phù hợp với các điều kiện văn hóa, kinh tế, chính trị của Trung Quốc. Ở phương án 0 tuổi, các cha mẹ sẽ không tìm thấy các công thức, học liệu hay cách thức cụ thể nào để kích hoạt não bộ trẻ một cách hệ thống. Tuy nhiên, Phùng Đức Toàn lại cung cấp những nguyên tắc cơ bản của giáo dục não bộ để các cha mẹ có thể thực hiện giáo dục sớm cho con ở bất cứ nơi nào, trong bất kỳ hoàn cảnh nào một cách linh hoạt và theo sự sáng tạo của bản thân mình. Các nguyên tắc này bao gồm: khởi đầu từ 0 tuổi; kích thích sự hứng thú; kết hợp học và chơi; tích cực gợi ý; biến khó thành dễ; cuộc sống là một trường học; giáo dục ở gia đình và giáo dục ở nhà trẻ quan trọng như nhau. Để thực hiện các nguyên tắc đó, ông cũng đưa ra các phương pháp thực hiện: Dạy trong linh hoạt, học trong trò chơi, người dạy có ý mà người học vô ý; trong lúc chơi có học, và trong học hành có chơi; bé tự quen với môi trường và người lớn làm gương dẫn dắt; tích cực ám chỉ, chú trọng khích lệ; phải yêu thương dạy dỗ, nhưng không thể quá nuông chiều; chú ý thái độ yêu thương để khống chế tâm tư, phải nuôi dưỡng trẻ có thói quen hình thành tính cách nhất định v.v… Cần để con cái học và chơi trong tâm trạng vừa cười vừa nói, vừa thương lượng vừa bàn bạc, vừa có động lại vừa có tĩnh, vừa có câu hỏi lại vừa có câu trả lời, đồng thời nâng cao trí lực cho trẻ.

     Đồng thời, ông cũng gợi ý các nội dung để thực hiện “Phương án 0 tuổi” với 15 phương diện phát triển và 100 mục hoạt động tham khảo. Tùy thuộc vào từng thời kỳ, từng địa điểm, từng gia đình, từng bậc phụ huynh, bạn bè người thân cũng như đặc điểm của trẻ, từng phương pháp giáo dục trong gia đình cũng như trong trường mầm non… để có thể làm phong phú và nổi bật thêm những nội dung giáo dục sớm; thực hiện “dạy trong cuộc sống, học trong trò chơi”; có thể tăng hay giảm nội dung dạy và học, không quá câu nệ cứng nhắc.

     Điểm nổi trội mà “Phương án 0 tuổi” đã đưa ra được đối với sự giáo dục trẻ đó là mục tiêu phát triển tối ưu các tiềm năng thiên bẩm hay các tố chất của trẻ một cách toàn diện, đầy đủ, có cá tính, có sở trường cho trẻ. “Toàn diện” ở đây là muốn nói đến sự phát triển toàn bộ các lĩnh vực phát triển của trẻ về nhận thức, ngôn ngữ, thể chất, thẩm mỹ và tình cảm xã hội. “Đầy đủ” là nói đến sự phát triển tối đa của các năng lực này. Nói theo cách khác, Phương án 0 tuổi muốn nói đến cả chiều rộng và chiều sâu của việc kích hoạt các tố chất cho trẻ để trẻ trở thành những em bé có những năng lực vượt trội về nhiều lĩnh vực khác nhau. Tác giả của phương án 0 tuổi cũng nhấn mạnh đến mục tiêu “bồi dưỡng nên những tính cách, phẩm chất tốt cho trẻ”. Ông ví phẩm chất, tính cách tốt đẹp của mỗi em bé như đầu của chú chim ưng, còn thể chất và trí tuệ chính là đôi cánh giúp chú chim ưng bay lên đại ngàn.

     “Phương án 0 tuổi” đã có một vai trò to lớn đối với Trung Quốc trong việc phát triển tối đa các tố chất của trẻ em. Có hàng nghìn các phụ huynh đã áp dụng thành công trên con cái của mình và rất nhiều các bằng chứng về sự phát triển nổi trội của trẻ em Trung Quốc đã được ghi nhận. Phương án 0 tuổi cũng có ảnh hưởng đến nhiều nước châu Á khác như Philipine, Hàn Quốc, Việt Nam và một số quốc gia khác.

     “Phương án 0 tuổi” đã được đưa về Việt Nam từ những năm 2010 với việc xuất bản ba cuốn “Phương án 0 tuổi” của giáo sư Phùng Đức Toàn. Đây là khởi đầu cho lịch sử giáo dục sớm tại Việt Nam.

     2.3. Vài nét về giáo dục sớm ở Việt Nam

     Nhà bác học Bruk Menste Full đã khuyến cáo: “Tất cả trẻ em sinh ra đều đã là thiên tài, chúng ta đã dùng sáu năm đầu đời của bé để hủy hoại điều đó”.Giai đoạn từ sơ sinh đến 6 tuổi là giai đoạn trẻ được tiếp xúc với cha mẹ, người thân trong gia đình và cô giáo mầm non. Tuy nhiên sự thiếu hiểu biết về kiến thức và kinh nghiệm trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ nhỏ của các bậc cha mẹ cũng như của những người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ đã dẫn đến những sự lãng phí tiềm năng của trẻ vô cùng đáng tiếc. Khi nuôi dạy trẻ, chúng ta thường hay chú trọng về mặt chăm sóc dinh dưỡng và theo dõi sự tăng trưởng về chiều cao, cân nặng và bệnh tật mà quên mất bồi dưỡng tinh thần và giáo dục phát triển các tố chất của trẻ.

     Hiện nay, quy mô phát triển mạng lưới trường, lớp mầm non đã được bao phủ trên toàn quốc, số trẻ đến trường/lớp ngày một đông. Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều trẻ em từ 0 đến 6 tuổi chưa được đến trường, trong đó đại đa số là các cháu dưới 3 tuổi (tuổi nhà trẻ), theo báo cáo của Bộ GD&ĐT: “Năm học 2015 – 2016 cả nước huy động được khoảng 26% tỉ lệ trẻ em dưới 36 tháng tuổi ra nhóm, lớp” [1]. Đội ngũ giáo viên mầm non, những người chăm sóc trẻ chưa được quan tâm đãi ngộ đúng mức và chưa được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn, kỹ năng thực hành đủ để đáp ứng nhu cầu giáo dục sớm ở “Giai đoạn vàng” này.

     Cả nước đến nay mới chỉ có một vài tổ chức phi chính phủ và một số ít trường mầm non, đã có quan tâm đến sự nghiệp giáo dục sớm với việc nghiên cứu thực hành chương trình giáo dục sớm dựa trên Phương án 0 tuổi của GS Phùng Đức Toàn; các phương pháp giáo dục của Shichida Makoto; của Glenn Doman…, bước đầu đã đạt được một số kết quả khích lệ trên trẻ từ 0- 6 tuổi. Ở một số thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng…) đã có những trường mầm non áp dụng phương pháp giáo dục Montessori. Nhiều trường mầm non đã dạy song ngữ cho trẻ ngay từ tuổi nhà trẻ. Một số gia đình và chị em phụ nữ mang thai đã quan tâm tìm hiểu về thai giáo và giáo dục sớm ở gia đình với sự tiếp cận của tài liệu nước ngoài (theo Webtretho và PEE Club). Gần đây, trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là Đài truyền hình Việt Nam cũng đang tích cực tuyên truyền cho việc giáo dục sớm. Họ mời các chuyên gia về giáo dục sớm trò chuyện về phương pháp này và đưa hình ảnh về thành quả của những đứa trẻ được gia đình vận dụng phương pháp giáo dục sớm: những đứa trẻ mới 2 tuổi phản xạ ngôn ngữ Anh, Việt như nhau; 3, 4 tuổi đã đọc được truyện bằng cả 2 thứ tiếng Anh, Việt. Hơn thế, nhà đài còn tổ chức các chương trình online để các phụ huynh, các nhà giáo dục mầm non có thể xem/ nghe trực tuyến một vài phương pháp giáo dục theo quan điểm Montesori, Phương án 0 tuổi… Có thể nói, các bậc phụ huynh và xã hội đã ngày càng quan tâm hơn đến các phương pháp giáo dục sớm. Bước đầu người ta đã nhận ra những giá trị và lợi ích của việc giáo dục sớm đối với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, mô hình giáo dục sớm ở nước ta chưa được định hình rõ nét và chưa được tổ chức bài bản, quy mô trên cơ sở khoa học. Phần lớn trẻ nhỏ chưa được tiếp cận với giáo dục sớm. Đây là một thiệt thòi lớn không chỉ cho các cháu nhỏ mà còn là sự lãng phí tiềm năng vô cùng to lớn của các gia đình và của đất nước.

3. Kết luận và kiến nghị

     Nhà nước và xã hội cần xác định vai trò của giáo dục sớm tại gia đình là một bộ phận của hệ thống giáo dục quốc dân. Các bậc cha mẹ phải là người đồng hành cùng nhà trường trong sự nghiệp giáo dục sớm nói riêng và giáo dục cho mọi trẻ em nói chung. Nếu gia đình không giáo dục sớm đúng đắn thì khi trẻ đến trường sẽ không có những năng lực và sức khỏe tốt mà chúng cần để thành công trong cuộc sống và ở trường học. Khi các bậc cha mẹ được trang bị kiến thức và kỹ năng giáo dục sớm, thời gian mỗi đứa trẻ trải qua ngay trong mái ấm của gia đình chính là “khoảng khắc vàng” để các tiềm năng, tố chất được phát huy. Do đó, không áp dụng giáo dục sớm tại gia đình, phải chăng đã lãng phí một nguồn tiềm năng vô cùng lớn trong mỗi đứa trẻ và cũng chính là tiềm năng của dân tộc và đất nước.

     Các cấp, các ban ngành, đoàn thể liên quan đến chăm sóc và giáo dục trẻ em cần đẩy mạnh công tác truyền thông đưa giáo dục sớm vào cộng đồng nhằm thay đổi hành vi và nhận thức của toàn xã hội về tầm quan trọng và lợi ích to lớn của giáo dục sớm đối với sự phát triển tiềm năng của trẻ; tăng cường cơ hội học tập cho các bậc cha mẹ và cộng đồng; từ đó, giúp mỗi người, mỗi gia đình tự giác thực hành những phương pháp tiên tiến trong việc giáo dục, nuôi dưỡng trẻ từ 0 đến 6 tuổi, để giáo dục sớm trở thành một nét văn hóa trong các gia đình và cộng đồng.

     Khoa Giáo dục Mầm non của các trường Sư phạm nên có kế hoạch đào tạo những cô giáo mầm non có kiến thức về giáo dục sớm, tạo tiền đề quan trọng cho các trường Mầm non có thể nhận nuôi dưỡng các cháu còn rất ít tháng tuổi để tận dụng tiềm năng phát triển của não bộ, góp phần tạo nguồn nhân lực cao cho đất nước trong tương lai.

     Nhà nước và các tổ chức xã hội ở Việt Nam cần tiến hành nghiên cứu và triển khai chiến lược xây dựng chương trình giáo dục sớm ở quy mô quốc gia, trong các cơ sở giáo dục và cả trong các gia đình với mục tiêu phát triển toàn diện tiềm năng, tố chất con người về thể lực, trí lực và tinh thần ngay từ tuổi ấu thơ một cách đúng đắn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

     1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự thảo đề án phát triển giáo dục mầm non giai đoạn 2016 – 2020, tầm nhìn 2025.

     2. Thủ tướng Chính phủ, Chiến lược phát triển giáo dục 2011- 2020 (Theo Quyết định 711/2012/ QĐ-TTg).

     3. Maria Montesori (2015), Phương pháp giáo dục Montessori: Sức thẩm thấu của tâm hồn, – Nxb Đại học Sư phạm.

     4. Maria Montesori (2015), Phương pháp giáo dục Montessori: Thời kì nhạy cảm của trẻ, – Nxb Đại học Sư phạm.

     5. Makoto Shichida (2016), Ba chìa khóa vàng nuôi dạy con theo phương pháp Shichida Yêu thương – khen ngợi – nhìn nhận, – Nxb Thế giới.

     6. Glenn Doman, Janet Doman (2012), Dạy trẻ biết đọc sớm, (Mai Hoa dịch), – Dân trí, Công ti sách Thái Hà xuất bản.

     7. Glenn Doman, Janet Doman (2012), Dạy trẻ học Toán, (Mai Hoa dịch), – Dân trí, Công ti sách Thái Hà xuất bản.

     8. Glenn Doman, Janet Doman (2012), Dạy trẻ thế giới xung quanh, (Mai Hoa dịch), – Dân trí, Công ti sách Thái Hà xuất bản.

     9. Phùng Đức Toàn (2010), Phương án 0 tuổi – Chiếc nôi ươm hạt giống tài năng (dành cho trẻ từ 0-6 tuổi), (tái bản lần 1), – Nxb Lao động Xã hội.

     10. Phùng Đức Toàn (2010), Phương án 0 tuổi – Phát triển ngôn ngữ từ trong nôi (dành cho trẻ từ 0-6 tuổi), (tái bản lần 1), – Nxb Lao động Xã hội.

     11. Phùng Đức Toàn (2010), Phương án 0 tuổi – Con tôi đã phát triển tài năng như thế nào (dành cho trẻ từ 0-6 tuổi), (tái bản lần 1), – Nxb Lao động Xã hội.

     12. Nguyễn Võ Kì Anh, “Giáo dục sớm cho trẻ không phải là “kéo mạ thành dài”, http://hoiquancacbame.com/detai.aspx?id=1229.

     13. Http://hnews.vn/index.php/giao-duc-som/thong-tin/709-giao-duc-som-tre-em-tuoi-mam-nongop-phan-nang-cao-chat-luong-noi-giong-va-dao-tao-nhan-tai-cho-dat-nuoc

Nguồn: Trường Đại học Thủ Đô Hà Nội, ISSN 2354-1512,
Số 22 – Khoa học Xã hội và Giáo dục, tháng 3 – 2018

Ban Tu Thư (thanhdiavietnamhoc.com)

Download file (PDF): Giáo dục sớm – Cuộc cách mạng mềm trong giáo dục (Tác giả: Lê Thị Hương)